*
Notes

Souvenir

1 2 3 4 5














Kỷ Niệm


*

Bí kiếm Móng tay quỷ
Fujisawa Shuhei
Phạm Vũ Thịnh dịch

Gấu mới được coi một phim của Nhật, The Hidden Blade. Đề tài của nó, cũng có gì tương tự tới đạo và tuyệt kỹ. Có hai kiếm sĩ cùng học một thầy, một ác, một thiện. Tay ác võ công cao hơn. Ngay khi đang học, thầy đã đoán ra, sau này, hai thằng thể nào cũng đụng độ, và giấu đi một tuyệt chiêu, không dậy.
Sau quả nhiên đụng độ thực, và anh thiện, trước trận đụng độ, trở về gặp thầy, học chiêu võ công thầy vẫn để dành cho mình, thắng anh ác, rồi, trả thù cho anh ác luôn, vì anh này cũng bị lừa mà trở thành kẻ giết người.
Điều Gấu này muốn nói, cái chất thiện đó, mới là cần. Tuyệt kỹ, học lúc nào mà chẳng được.
Có tay triết gia thời Hy La thì phải, bị kết án tử, chỉ còn vài ngày là rụng đầu, vậy mà còn muốn học thổi tiêu [?], nữa là !
Tuyệt chiêu mà ông thầy để dành đó, cũng thật là ly kỳ, Gấu không kể ra ở đây, sợ làm mất hứng những ai chưa coi phim.
Trong phim còn có một mối tình thật là tuyệt vời, cũng không dám kể ra ở đây.
Nhật ký TV

Note: Phạm Vũ Thịnh dịch mấy truyện kiếm của Nhật, thật tuyệt. TV trân trọng giới thiệu

Coi phim, rồi đọc truyện, thấy phim hay hơn truyện nhiều lắm. Bí kiếm “móng tay quỉ” quả có thật, nhưng không được sử dụng để giết bạn, mà là trả thù cho bạn, và vợ bạn. Cô tớ gái cũng không đúng như trong truyện, trong phim đẹp hơn nhiều.
*

 *


Ba ấn bản khác nhau

*

Gấu & Nguyễn Trọng Khôi
Hình này chắc là chụp thời gian làm với ông Nhàn, nhà xb Vàng Son.
Đang phê. Gấu lúc này mê Cô Ba. Chụp tại một quán bia ôm, hình như vậy.
Nguồn

An Old Man

Deep in the back of the noisy café
an old man sits alone, bent over a table,
with his newspaper spread out before him. 

He feels contempt for his miserable old age
and recalls how little he enjoyed the years
when he had strength, eloquence and beauty. 

He knows he has aged; he feels it; he sees it.
And yet the time when he was young seems like
yesterday. How short a span! How short!

He recalls how Prudence kept deceiving him,
how he always listened when she lied to him, saying: '
Tomorrow. There's plenty of time.' What folly!

He counts up the desires he held back, the joys
he squandered; each forfeited delight
returning now to mock his senseless caution ...

But with all the thinking and reminiscence
the old man grows dizzy. He falls asleep,
propped against the table in the back of the café.

C.P. Cavafy

Hồi Gấu quen NTK, anh chưa nổi đình nổi đám như sau này, qua những hình ảnh cho thấy. Tay nghề như một họa sĩ, thì cũng thường thôi, nhưng anh chịu khó học, cần cù vẽ. NTK quí Gấu lắm. Cùng nhau làm tờ báo thiếu nhi của ông Nhàn, dưới quyền của sếp Từ Kế Tường! Gấu cũng có nhiều kỷ niệm với TKT, với Nguyễn Mai, do thời gian cùng làm tờ báo thiếu nhi, ngoài ra, Gấu còn dịch sách cho ông Nhàn.
Gấu có cái job này là nhờ Nguyễn Mai, như đã từng kể. Nhờ cái job dịch sách mà thoát chết ở nông trường Đỗ Hòa.
Thời gian ở Đỗ Hòa là đẹp nhất trong đời Gấu, thực sự là như vậy. Giá mà bỏ hết ba cái viết, cái dịch, cái lướt net, cái trang TV, chỉ chuyên tâm một chuyện viết về những ngày ở Đỗ Hòa, bảo đảm Gấu có đại tác phẩm để đời!
Cái gì cũng có, đủ hết, vậy mà làm không nổi. Chán thế!

&

Nguyễn Mai & Cung Tích Biền

Sài Gòn nghĩa là gì?

Ấn bản đặc biệt, dành cho thân hữu và những người yêu sách đẹp
*
Tặng thêm bài thơ
*

POEMS (1905-1915)

THE CITY

You said: 'I'll go to another land, I'll go to another sea.
Another city will be found, a better one than this.
My every effort is doomed by destiny
and my heart - like a dead man - lies buried.
How long will my mind languish in such decay?
Wherever I turn my eyes, wherever I look,
the blackened ruins of my life I see here,
where so many years I've lived and wasted and ruined.'

Any new lands you will not find; you'll find no other seas.
The city will be following you. In the same streets
you'll wander. And in the same neighborhoods you'll age,
and in these same houses you will grow grey.
Always in this same city you'll arrive. For elsewhere - do no
hope-
there is no ship for you, there is no road.
Just as you've wasted your life here,
in this tiny niche, in the entire world you've ruined it.
C.P. Cavafy
*

Give me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the  former.

Brodsky

*

 Cho tôi một đời khác, và tôi sẽ hát
ở Cà Phe Quán Chùa. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.

*

Bạn nói: “Tớ sẽ đi tới một biển trời khác,
Và sẽ kiếm thấy một Sài Gòn khác, bảnh hơn Sài Gòn này.”
Mọi cố gắng của tớ thì đều bị số phận trù ẻo
Và trái tim của tớ – như một người chết – bị chôn vùi.
Tớ còn phải nức nở than van bao lâu nữa, trong cái thành phố thối rữa như thế này?
Nhìn đi đâu, về hướng nào,
Thì cũng vẫn những điêu tàn đen đủi, là cuộc đời của tớ mà tớ nhìn thấy,
Ở một nơi trong bao tháng năm, tớ hoang phế đời mình."

Bạn sẽ chẳng tìm thấy một biển trời mới mẻ nào đâu, nghèo mà ham!
Sài Gòn sẽ tò tò bám theo bạn, như một con đỉa đói!
Cũng vẫn những con phố đó,
Nào ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao (1) nào con hẻm 72 Thị Nghè,
Nào Đống Rác Chợ Cũ, nào Xóm Ken bên kia Thủ Thiêm
Vẫn những chòm xóm đó mà bạn cứ thế mà mòn mỏi, tàn tạ đi
Mớ tóc xam xám, rồi muối tiêu, rồi bàng bạc, rồi trắng toát!
Vẫn Sài Gòn mà bạn sẽ tới!
 Ui chao đừng hy vọng, đừng trông mong,
Chẳng có tầu, mà cũng chẳng có đường.
Như bạn tàn tạ cuộc đời của bạn, ở đây.
Ở Sài Gòn-Toronto này!

(1) … nào, đâu, thư viện Gia Long, thư viện Văn Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc bộ, có quán cà phê Làng Văn, đêm nào đang bữa tiệc bỏ ra về, chẳng thể làm thơ, và cũng chẳng bao giờ là thi sĩ, và Du Tử Lê khi đó chưa làm giùm hai câu:
Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ cuối đường...
Góc Đa Kao, Sài Gòn

*

Justine

Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
 (Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
 Lũ đàn ông chúng mình, đều được tạo ra bằng bùn và quỉ ma của Sài Gòn.


*

“Un mardi succéda au lundi et personne s’en étonna”
Một ngày Thứ Ba tiếp theo một ngày Thứ Hai, vậy mà đếch có ai ngạc nhiên!
“Si l’homme a fragmenté le temps par secondes, par années et par générations, il sera toujours son élève”.
Nếu con người bẻ gẫy thời gian thành những giây phút, những năm tháng, những thế hệ, nó sẽ luôn luôn là một đứa học trò của thời gian”
José Giovani
Trên Blog NL, có hai entries, một về thiếu giấy, và một về tiểu thuyết trinh thám, trong nhắc tới nhân vật trứ danh, thám tử Kỳ Phát, của Phạm Cao Củng, một trong những tác giả cực kỳ thân thiết với anh cu Gấu, thằng bé nhà quê Bắc Kít ngày nào. Hai trong những tác giả “làm thịt” thời thơ ấu của Gấu, là PCC, ông kia, là… Tô Hoài.
“Làm thịt”, kill, là từ mà Jack Kerouac sử dụng, trong cuộc phỏng vấn trên tờ The Paris Review, tập IV, khi ông nhắc tới tác phẩm Chàng tuổi trẻ trên chiếc đu bay, “The Daring Young Man on the Flying Trapeze” (1) của Saroyan: It killed me when I was a kid.
José Giovani là một trong những tác giả viết loại sách đen, série noire, đã làm thịt thời mới lớn của Gấu. Có thể nói, Gấu khá tiếng Tây là nhờ mấy ông này, nào là Simenon, nào là Chase, nào là Auguste Le Breton, Albert Simonin... còn nhiều lắm.
Gấu mê tiểu thuyết đen đến nỗi mang hoạ vì nó. Sẽ kể, khi nào có thì giờ, vì đây là một trong những cái gai nằm ngay trong tim Gấu, không kể ra là sẽ như PXA đếch làm sao mà ra đi thanh thản được!
(1)
"Ai là người đích thực dịch cuốn này ra tiếng Mít", cũng là một đề tài trinh thám thú vị đấy!
*
Cuốn đầu tiên mà Gấu đọc José Giovani là cuốn L’Excommunié (
Kẻ bị rút phép thông công, Ky Tô giáo) [l'Excommunié, which Jean Becker adapted into the film Un nommé La Rocca, and was later remade by Giovanni as La Scoumoune, and starred Jean-Paul Belmondo and Claudia Cardinale]. Cuốn này được Hoàng Hải Thuỷ phóng tác, Gấu không nhớ cái tít tiếng Việt. Trên TV hình như cũng đã lèm bèm một đôi lần về cuốn tiểu thuyết đen thần sầu này rồi, câu chuyện một anh găng tơ không dám yêu thương một ai, vì cứ thương yêu là mang họa tới cho người đó.

Sau này, khi BHD đi rồi, thỉnh thoảng nghĩ lại cái vụ em bye bye Gấu, thấy có vẻ như cũng y như vậy, ta không muốn mi phải gọi ông đó là bố, ta không muốn mi chịu đủ thứ khó chịu ở trên đời này vì lấy ta, phải chấp nhận một ông bố, một gia đình vợ không xứng với mi!
Có thể cũng vì lý do đó, mà khi Gấu nói, anh không xứng đáng với em, em đã rất ư là bực mình, ta cấm mi không bao giờ được nói thế nữa!
Ông anh nhà thơ chẳng đã từng phán, mi lấy nó, mi mang nó ra khỏi cái gia đình đó, là phúc cho nó đấy!
Và tất nhiên, cho cả mi, cho cả hai đứa!
Nó lấy con H. chứ đâu phải gia đình con H. Ông anh trả lời bà cụ, khi nghe cụ lắc đầu, cái gia đình đó không chịu nổi một thằng con rể như mi đâu!

HHT phóng tác cái tên anh chàng này thành "Phong Đòn Gánh", là cũng ý đó!
"Phong Đòn Gánh" bỏ thành phố quê hương của mình ra đi, là vì sợ ở lại mang họa cho tay bạn thân, trùm du đãng, có cô em gái, là người yêu của anh. Và khi nghe tin thằng bạn bị làm thịt, thì anh trở về, trả thù cho bạn, rồi lại bỏ đi.
Khi ra đi trời còn mờ sương, thành phố tiễn anh bằng bản nhạc thời thơ ấu cả ba đã từng cùng nghe.
Chi tiết này sau Gấu thuổng, tả cái cảnh Gấu từ giã Sài Gòn, và thành phố tiễn Gấu bằng bài hát mà thằng em trai của Gấu vẫn thường nghêu ngao trước khi bỏ đi luôn.

"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."

Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.

Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.

Buổi sáng cuối cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền... Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng cay, tủi nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong mắt kẻ thắng trận nỗi thèm khát, mong sao được là nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con ngựa thành Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước về. Nàng Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương Chi suốt đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một người...
Và tôi bỗng thấy bớt nhớ Sài-gòn.
Phút cuối nhìn lại Sài-gòn, tôi có cảm tưởng mọi nhà, mọi người đang tiễn tôi bằng tiếng hát Thanh Tuyền, như một lời nhắn nhủ: "Nếu mai không nở thì anh đâu biết Xuân về hay chưa..."

Lần Cuối Sài Gòn

Tiểu thuyết đen

Nhưng nhận xét sau đây, theo tôi, thật đáng đồng tiền bát gạo, về tiểu thuyết trinh thám đen Mẽo. Nó chắc chắn sẽ trở thành một lời tiên tri cho văn học Việt Nam.
Phillipe Larbo & Olivier Barrot, trong cuốn Một cuộc du ngoạn văn học: Những lá thư từ Mẽo quốc, đã đưa ra nhận xét, chính cái khí hậu khởi đầu của nó, mới đáng kể: Khi ban bố luật quái quỉ, cứ rượu là cấm đó, nhà nước đã biến tất cả những người công dân của nó trở thành những kẻ phạm pháp. Và chăng, cái luật đó lại được hỗ trợ bởi chính cái gọi là lịch sử lập quốc chinh phục Viễn Tây, cứ thấy đất là cướp, thấy da đỏ là thịt, là hãm, là đưa đi cải tạo, kinh tế mới... Chính cái khí hậu ăn cướp đó, mở ra tiểu thuyết trinh thám đen Mẽo! (1)
Bạn để ý coi, nó có giống y chang cái cảnh ăn cướp Miền Nam?
Và nếu như vậy, cuốn tiểu thuyết mở ra văn học trinh thám đen của Việt Nam, sau ba thứ hình sự lảm nhảm trên những tờ báo lá cải Công An, sẽ là cuốn Đầu Hói gì đó chăng?
(1) Les Américains n'ont pas plus inventé le roman policier que la nouvelle, mais de ce genre comme de l'autre ils ont fait quelque chose d'unique, à l'image de leur société. On considère, depuis Marcel Duhamel, grand spécialiste français du roman policier et fondateur de la Série noire, que le roman noir américain est apparu à la faveur de la loi sur la prohibition, votée en janvier 1920. En promulguant une législation stricte qui heurtait par trop les habitudes de la population, les États-Unis font de leurs citoyens des délinquants; par ailleurs, dans ce pays où historiquement, depuis la conquête de l'Ouest, le premier qui tire a raison, où l'arme à feu a partout droit de cité, la prohibition favorise la mafia, les trafics, la corruption, la violence. C'est de ce climat que le roman noir américain, à ses origines, va rendre compte.
Les auteurs cultes de ce genre littéraire ont un nom, on les appelle les hard-boiled, les « durs à cuire». Ils se nomment Dashiell Hammett, Raymond Chandier, James Cain, Horace McCoy ou James Ellroy. En commun, ils ont notamment d'avoir été — d'être — une manne pour le cinéma américain et de lui devoir, en grande partie, leur postérité et leur légende.
Phillipe Larbo & Olivier Barrot. Lettres d"Amérique: Un voyage en littérature, Gallimard, tủ sách Folio, 2001

Chúng ta yêu cả hai, Hammett và Chandler.
Cả hai đều dùng ngón tay, để chỉ mặt trăng, là "phim đen", film noir.

Cả hai đều ảnh hưởng, hơi bị nặng, lên điện ảnh, và, lên chừng vài chục nhà văn, vài trăm nhà viết phim kịch. [Faulkner chẳng đã có thời ăn nằm dài dài với Hollywood?]: Cái cấu trúc nền, la structure de base, của câu chuyện kể theo kiểu của Hammett, thí dụ như trong Faucon maltais, hay kiểu của Chandler, trong Grand Sommeil, đã được thiên hạ mô phỏng dài dài sau đó, trong nhiều lãnh vực, không chỉ điện ảnh. Hammett đã đạt tới cái tuyệt hảo, tuyệt sâu, trong sự miêu tả, hoàn toàn có tính hiện tượng học, những nhân vật, và hành động của họ. Chandler thì còn tuyệt hơn, theo Gấu, ở cái màn tình cảm hơn, tìm tòi hơn, plus sentimental, plus recherché. Đọc truyện của họ, độc giả nghe ra tiếng gõ của cái máy đánh chữ, cảnh họ ngồi viết, ban đêm, đâu đó, trong thành phố La Jolla [Cali], hay S. F. [San Francisco]. Với một, hay, vài chai, cổ lùn, hay, cổ dài, trên mặt bàn! Cả hai đều mỗi người một vẻ, trình làng, hai ông cớm tư, nổi cộm, khó mà quên được, đó là Sam Spade, với Hammett, và Philip Marlowe, với Chandler.
Người ta có thể nói, Chandler với Hammett, thì cũng giống như Fitzgerald với Hemminway, tuy rằng cả hai chỉ gặp nhau có một lần. Lạ một điều, chúng ta đều mê cả hai.
Như đã từng mê, cả hai, Fitzgerald, và Hemingway. 

Jacques Cabau, chuyên gia về tiểu thuyết Mẽo, thật chí lý khi cho rằng, "chỉ có Mẽo mới có thể phát minh ra thứ tiểu thuyết đen, vào một thời điểm đặc biệt của nó". Tiểu thuyết trinh thám đen là kẻ thừa kế của tiểu thuyết phiêu lưu Viễn Tây theo kiểu của Cooper [tác giả "Người Da Đỏ cuối cùng của bộ lạc Mohican"], tiểu thuyết chạy trốn, săn đuổi. Hammett đã chuyển cánh đồng cỏ bạt ngàn miền Viễn Tây tới vùng rừng rú thành phố, cùng với luật kẻ mạnh: Bắn chậm thì chết! Nhưng, Dashiell Hammett không thể phát minh ra tiểu thuyết đen nếu thiếu sự hỗ trợ của nhạc jazz và màn ảnh. Nhạc jazz là nhịp của nó. Nhờ hình ảnh, ông không cần giải thích, hay trình bầy nguyên nhân câu chuyện.

Dashiell Hammett là tiền thân, précurseur, của tiểu thuyết đen Mẽo. Tuy nhiên, chẳng có một chi tiết nào ở nơi ông cho thấy điều này. Ông sinh tại Maryland vào năm 1894. Mười bốn tuổi, chán nhà trường, bỏ học, làm đủ thứ nghề cò con, trước đi đầu quân cho một trong những hãng trinh thám nổi tiếng, Pinkerton. Làm ăn được, nhưng do bệnh lao, bị hồi Đệ Nhất Thế Chiến, cộng thêm tật uống rượu, khiến ông phải đổi nghề. Sống đủ, bèn tưởng tượng, và ông bắt đầu, vào năm 1924, viết truyện ngắn trinh thám cho tạp chí bình dân, pulp, như tên của nó. Truyện nổi nhất, Mặt Nạ Đen, trong đó, ông đưa ra tay thám tử tư đầu tiên, "Continental Op". Năm 1927 ông cho in một loạt truyện ngắn, sau gom thành tiểu thuyết đầu tay, Mùa Gặt Đỏ, Red Harvest, trong đó, người ta gặt người, và đỏ, máu. Nhân vật chính, một "operateur", một thám tử, tới một thành phố ô nhiễm, Poisonville, làm sạch nó. Tại những ngã tư, nhìn mấy ông phú lít râu ria lởm chởm, quần áo lôi thôi, tay này vừa lái xe vừa gật gù cái đầu, thành phố này có vấn đề.
Từ một chi tiết 'Đi và Sống', (1) ông rút ra kết luận, và thường, để độc giả rút ra kết luận.
Hammett không làm văn chương. Văn của ông trần trụi. Ông bệ tiếng lóng từ đường phố. Đúng là thứ "cứng cựa", un dur à cuire, hard-boiled, chẳng để một chỗ nào cho sự dịu dàng. Tuy nhiên, những gì ông miêu tả - đèn vàng, đêm đen, đồn, bóp, cớm, mấy em ăn sương - chúng làm thành cái chất "buồn vào hồn không tên", tức, một hình thức nào đó của thơ ca, và sự thần kỳ.
(1) "Đi và Sống", là cụm từ Gấu thuổng từ một tay chuyên viết chuyện phiêu lưu, mạo hiểm, sặc mùi trinh thám, một trong những thần tượng của Gấu hồi còn đi học, nổi tiếng một thời ở Miền Nam. Ông sau bị cảnh sát bắt, vì tội tổ chức du lịch ma.
Ông này là tiền thân của đám bọ VC hiện nay, chuyên tổ chức du lịch ma, học ma, nhưng xuất cảng người, thì thật.
Tên của ông tổ sư của VC này là Lê Minh Hoàng Thái Sơn.
*
Nhà văn viết truyện trinh thám, cha đẻ thám tử Mike Hammer, Mickey Spillane, đã qua đời, hôm qua, 17 July, thọ 88 tuổi.
Torontor Star, 18 July.
Một trong những bạn thân thời niên thiếu của Gấu, đã qua đời.
Hoàng Hải Thuỷ cũng đã từng phóng tác ông này: Gã Thâm, hình như là từ I, The Jury. (1)
Lâu quá không còn nhớ rõ.
*
Gã Thâm, là từ The Deep (1961).
Bị đám phê bình chê, đây là cuốn đầu tiên Spillane để ý đến câu kệ, đến ý thức viết văn, nhưng lạ một điều, khi ông viết hay hơn, thì đồng thời, cũng bớt chất nghệ sĩ đi.
Trong ba ông cùng thời, Spillane, Hammett, Chandler, giới phê bình chuộng hai ông sau, tuy nhiên, ở Spillane, có một điều mà cả ông kia không vươn tới được. Hai ông kia không thể nào viết nổi một cuốn nào như One Lonely Night (1951), Một Đêm Cô Đơn, như một nhận xét về ông, trong lời giới thiệu cho cuốn "Ngày mai tôi chết", Tomorrow, I Die, tập truyện ngắn: Một viễn ảnh tối tăm, siêu thực của rừng rú đô thị thời hậu chiến... Cả hai ông kia ông không ông nào dám liều mạng với một cái nhìn như vậy. (1)

(1) Bullshit Spillane was - and is - one of the most remarkable literary artists ever to confine himself to a popular genre. His masterpiece,  One Lonely Night (1951), which can still be dismissed as right-wing  nonsense as its villains are primarily cardboard "Commies," is a dark, surreal vision of the post-war urban jungle. Private eye Mike Hammer, in that novel, reveals himself as deeply psychotic, an avenger who comes to feel that God Himself has chosen him to smite the evil ones. This is a wilder, more daring vision than Hammett or Chandler would have ever risked; and if Spillane hadn't been a "natural," the "two-fisted Grandma Moses of American Literature" (as I've referred to him elsewhere), he might not have risked it, either. Max Allan Collins.

V/v Phạm Cao Củng. Ông này còn có tham vọng, viết tiểu thuyết trinh thám lịch sử với cuốn Kho Vàng Ba Bể, câu chuyện về thời đại họ Mạc. Cuốn này tuyệt lắm. Ông còn một truyện ngắn, mà có thể, tay Ian Fleming thuổng, để viết From Russia With Love
Lát nữa rảnh, Gấu lèm bèm tiếp.

PCC có một truyện ngắn, đọc, là nhớ ngay tới Văn Cao, Hit Man!
Và biết liền tù tì, chỉ ở cái xứ Bắc Kít mới sản xuất ra thứ đặc sản như vậy!
Câu chuyện một đàn em đến gặp đại ca, vì đói quá! Đại ca cũng.. đói! Đúng lúc thằng em út tới, là đại ca cầm lên cái bát, tính đi ăn cái bát cơm độc nhất của mình, bèn nhường tí cơm cho đệ tử.
-Anh vừa ăn xong, chú cứ tự nhiên!
Đệ tử sau đó, vô tình cầm lên cái bát của đại ca, thì thấy cái bát khô, chứng tỏ đại ca nhường bát cơm độc nhất cho mình!
Và sau đó, là màn trả ơn sư phụ, bằng mạng sống của mình!

Trong truyện sau đây, cú then chốt của nó, y chang From Russia With Love.
Một sát thủ, nổi danh vì chỉ cần một phát, là hạ con mồi, bữa đó, được ông Trùm sai đi giết người. Không ngờ, phát súng độc nhất đó, lép.
Kết quả mới thú vị làm sao: Phát súng lép của tay sát thủ giết, và…  cứu sống con mồi: Anh ta làm thịt được cái Ác, trong con mồi, biến con mồi thành một thiện nhân!
Trong From Russia With Love, 007 biết rất rành về sát thủ KGB, chỉ bắn một phát, đúng ngay tim, nên trước khi chết xin được hút điếu thuốc lá sau cùng, rồi để cái hộp thuốc lá bằng thép lên túi áo ngực. Sau phát đạn, anh ngất đi, rồi tỉnh lại.
Truyện này cũng hay: Hai anh cùng làm trong một rạp xiếc, cùng yêu một em nữ diễn viên, một anh chuyên nghề đưa cái đầu vô miệng sư tử, và bữa đó, diễn trò như thường lệ, bị con vật làm nhẹ một phát, cái đầu lìa khỏi cổ.
Hóa ra là trước khi diễn trò, anh kia đến sát bên anh bạn, giả đò ho, lấy cái khăn tay ra lau miệng, thừa cơ rũ nhẹ một phát lên mái tóc bóng loáng của anh kia: khăn tẩm vài hạt bụi hồ tiêu. Con cọp, bị ngứa mũi, hắt xì hơi một phát, thế là xong.
Ấy thế đấy, anh cu Gấu hồi nhỏ mê ba truyện trinh thám Phạm Cao Củng, ở mỗi truyện có một chi tiết chìa khóa, y chang mỗi bài toán chỉ có một giải đáp!
Borges là ông vua viết truyện kiểu này, nhưng cao hơn PCC nhiều, tất nhiên! Và cũng chính Borges, cho rằng, truyện trinh thám mới đích thị văn chương!


Kỷ Niệm


*

160 thuyền nhân sau cùng được Canada nhận

*

*

Tuy cùng là Mỹ, nhưng hãng thông tấn AP giầu hơn UPI. Lương hậu hĩ hơn. Một số thông tín viên, nhiếp ảnh viên thường coi UPI là nơi học nghề. Khi đã có chút tên tuổi, chờ AP bật đèn xanh, là nhẩy. Tôi vẫn còn nhớ nhiếp ảnh viên Henri Huêt, người Pháp lai, làm cho UPI, sau về AP. Mỗi lần lên Đài, nơi tôi làm việc, anh hay nói chuyện với tôi, và chị Linh, nữ điện thoại viên phụ trách mạch Paris. Bằng tiếng Pháp. Một bữa, anh vừa quay đi, chị Linh ghé tai tôi nói nhỏ: Thằng chả ăn mắm hút ròi, chưa lột lưỡi đã biết tiếng Việt, vậy mà bầy đặt! Thực tình, cho tới lúc đó, tôi vẫn nghĩ anh không biết tiếng Việt.

Kent Potter, được UPI cho làm trưởng phòng hình ảnh, deskman, chỉ việc ngồi lựa hình, đánh caption (4) gửi đi, vậy mà gặp mặt là nghe anh than chán quá, chán quá. Chiến tranh gì mà buồn tẻ thế này! Đúng lúc đó, xẩy trận Hạ Lào. Anh nhẩy vội ra Trung. Chuyến đó, chiếc trực thăng chở phóng viên báo chí bị rớt, (trúng đạn?), chết đâu mười mấy mạng, trong có anh. Tôi cứ nghe như Thần Chết lắc đầu quầy quậy, giọng bực mình, tao đã bảo ở nhà, vậy mà không chịu, cứ nằng nặc...

Tên của cuộc chiến


Ba Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu, không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.
Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này (1).
Hết hai năm tập sự, đổi qua làm việc tại một đài chuyên duy trì những đường dây liên lạc quốc tế, về viễn ký, viễn ảnh, điện thoại đường dài [điện thoại viễn liên], giữa Sài Gòn và một số thủ đô trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố, quên dần những chuyến đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một thành phố một hai lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt không liên quan, không ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến trúc phảng phất nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây quanh bởi một vài khách sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ tíu, quán bi da, banh bàn; những sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng nghiêm chào cờ theo lệnh một chiếc loa công cộng [thời còn ông Diệm], (thành phố lúc đó có một bộ mặt trang nghiêm thật tức cười, những thực khách đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy, miệng còn mẩu bánh chưa kịp nuốt, dáng lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa kịp hiểu chuyện gì đang xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay trong khi chập chờn ngủ, được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ tập trong quán cà phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như tiếng thở than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt chẳng hề nói của cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây một tiếng động, như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong cơ thể người khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay vào đó, là một con mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc nào, mắt xanh biếc trong bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng kế bên, một người khách lơ đễnh không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những chiếc xe hàng đánh thức giấc ngủ khoảng ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm mốc hình như toát ra từ những bức tường loang lổ, từ chiếc nệm giường mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường làm dậy một nỗi trắc ẩn vô duyên cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...
Trở lại Ba Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.
Mộ Tuyết

Từ 1954 cho tới 1975, Gấu chỉ sống ở Sài Gòn.
Hai năm trời, sau khi ra trường Bưu Điện vào năm 1961, hay 62, làm chuyên viên sửa máy thu phát tin tại Trung Ương Cở Xưởng VTD, số 11 Phan Đình Phùng, lâu lâu đi thực tế tới những đài VTD địa phương cho Gấu biết mùi món lạ Miền Nam, mùi rùa, mùi rắn, mùi mấy em Mai Liên vùng Sóc Trăng, tuy nhiên món thịt chuột chưa một lần được hửi.
Để sửa soạn cho bữa đại tiệc vào một bữa chủ nhật không phải đi lao động ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, để thưởng thức lần đầu tiên bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, ông Trời quả thật quá chu đáo với Gấu. Biết Gấu chưa từng xơi món chuột, ông bèn cho Gấu nếm thử trước đã!
Cái lần đầu tiên biết mùi thịt chuột

*

Bữa nay đẹp trời, nắng như nắng Sài Gòn, [làm sao mà như được!], Gấu đi lang thang, vớ được số The Paris Review, Winter 2009, ngỡ ngàng, vì cứ nghĩ ba thứ này tuyệt bản ở Toronto, do cái vụ suy thoái kinh tế.
Hồi Gấu mới qua, 1994, thành phố hiển hách với một vài tiệm sách cực kỳ lâu đời của nó, sách báo cỡ gì cũng có, rồi cứ thế mất dần, như nó muốn biểu Gấu, mi già rồi, sách mới báo làm gì nữa!
Hay là nó muốn nói, như cô bạn đã từng nói, cũng những ngày tháng mới gặp lại đó, đọc như vậy đủ rồi, viết về tôi đi!
Ui chao có mấy kỷ niệm về cô bạn, thật tuyệt cú mèo, mà cứ không dám viết, vì sợ uổng!
Trong số báo có hai bài phỏng vấn thật tuyệt, một, Ha Jin, the Art of the Fiction, và một, Mary Karr, the Art of the Memoir.

I am profoundly devoid of cool. I remember a poem about a suicidal dog, which began, ‘Don’t do it, dog.’
[Cái này là dịch ẩu: Tôi chẳng còn tí ‘cool’(nghĩa đen: mát mẻ) nào.Tôi nhớ tới một bài thơ về một con chó tự tử, bắt đầu bằng, “Đừng làm thế, chó". Nếu thực tình mày muốn như vậy, thì chờ tao kiếm tí lá mơ đã!]

Mary Karr
The Art of the Memoir
Winter 2009

CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ

phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương

phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng

em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong

xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc bên đồi biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên

Vũ Hữu Định (1942-1981)

Trích blog Mang Viêng Long,

Note:  Từ đắt nhất, là từ “lắc”, trong "mai xa lắc'
Câu thơ

Da em mềm như mây chiều trong
Gấu nghe hát, thành ra:
Nên em buồn như mây chiều trôi

Đến lúc coi lại, thì trong, chứ không trôi.
Lại thắc mắc, mây trời trong thì làm sao mà buồn?

Đến giờ thì mới biết, nó là:
Da em mềm như mây trời trong!

Foucault viết, vào thời hoàng kim của nghệ thuật, con người ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật: Tại sao trời mưa? (1), thí dụ vậy. Đó là thời kỳ Barthes gọi là ‘nhà văn không văn chương’, cứ viết ra chữ là thành văn rồi.

Văn chương sau này, theo Foucault, bắt đầu bằng cơn điên cuồng gọi tên sự vật, với sự tiếp tay của con quỉ tương tự, le démon de l’analogie, của những từ "như, hình như, có vẻ…."

Hình như là tình yêu!

(1) Truyện đầu tiên, tôi chẳng còn nhớ nổi tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, trang văn học nghệ thuật cuối tuần, do nhóm chúng tôi chủ trương, khi đó đều còn học trung học, có Huỳnh Phan Anh, Dương Trần Thảo, tức Dương Văn Ba, sau làm dân biểu, làm báo Tin Sáng, và tôi. Chính trên trang báo này, Huỳnh Phan Anh và Dương Trần Thảo đã cho đăng lá thư gửi nhóm Sáng Tạo, tranh luận về "nghệ thuật hôm nay" (bạn đọc có thể đọc bài viết này trên trang Tin Văn do Nguyễn Quốc Trụ phụ trách). Lúc đó, nhóm chúng tôi chủ trương nghệ thuật hôm nay là nghệ thuật mô tả cuộc sống như nó là, gợi ý từ cụm từ "Tel Quel" của Pháp. Truyện ngắn đầu tay của tôi, lạ lùng thay, lại rất hợp với chủ trương của nhóm (Tôi còn nhớ, HPA gật gù, đúng là "tel quel" thật!). Câu chuyện một anh chàng chủ nhật khơi khơi đi ra đường, rồi khơi khơi ghé nhà em, nhìn em nhặt rau, rửa chén, rồi phơi phới ra về. Ra ngoài đường, trời mưa, và anh chàng băn khoăn hỏi trời, hỏi đất, hỏi người qua đường, hà cớ chi mà trời mưa?

Nhật ký Tin Văn

*

Về tới Tân Sơn Nhất, chìa cái này ra, không hiểu có bị đuổi không?

*

Phạm Năng Cẩn, một trong Thất Hiền, đọc, mê quá, thằng cha này viết về mày thật tuyệt!

Đam mê văn chương đồng nghĩa với nhọc nhằn vất vả. Chiêm nghiệm lại điều ấy thật chẳng sai chút nào. Đọc rất nhiều, viết rất nhiều mà chẳng được bao nhiêu. Đã có lúc tôi có ý định tạo cho mình một phong cách, một lối đi riêng rẽ nhưng rồi rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy gì. Văn chương là khu rừng rậm rạp đầy bí hiểm, mỗi người tự chui vào và tự tìm đường bò đi. Ở đấy chẳng biết dựa vào ai, chẳng có ai giúp đỡ. Và may thay tôi đã tìm được cho mình một cây gậy chống cho đỡ vấp ngã mỗi khi bị say chếnh choáng trên cõi đời này. Cây gậy ấy chính là quê hương, Tổ quốc, là hướng tâm về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Lá bùa hộ mệnh đó là kim chỉ nam xuyên suốt qua những sáng tác của tôi.
Sống giữa thế giới mênh mông của trời đất và lòng người, thênh thang thế mà nhiều khi vẫn thấy cô quạnh. Nơi đất khách quê người ngồi nhâm nhi ly cà phê, thả hồn qua làn thuốc để cố tình kéo quá khứ về hiện tại và tôi bỗng thấy thương quá chính mình và những số phận trần gian. Những lúc như thế tôi lại ngồi vào bàn viết, viết tất cả những gì chợt đến, đuổi theo những gì đột ngột trôi đi. Những khuôn mặt thân thương bạn bè, người thân trở thành nhân vật, bờ tre gốc lúa, cánh diều hóa thành những vần thơ. Hình như thời gian càng trôi đi bao nhiêu thì ký ức của người xa xứ càng khắc khoải. Từ nửa vòng trái đất tôi cảm thấy mình công bằng hơn khi đánh giá một vấn đề.
 

 

 

Kỷ Niệm

Nhung ngay o Sai-gon : tap truyen / Nguyen Quoc Tru

Note: Tối qua, nhớ Sài Gòn quá, Gấu dạo net, gặp Những Ngày Sài Gòn ở Thư Viện Úc, trên. Thú quá.
Không ngờ cuốn sách nhỏ bé của Gấu kiếm ra cái thế giới của nó ở xứ Kanguru! (1)

*

Va, petit livre, et choisis ton monde. Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.

*

Mẩu quảng cáo trên một số Văn, một anh bạn văn trong nước gửi cho (1)

(1)
Chú đã tìm lại được mấy cái này chưa, đều trên báo Văn.
Có cái quảng cáo "Những ngày ở Sài Gòn" trên Văn số 161, chuyên đề "Thi sĩ Quách Tấn", 1970.
Truyện "Kiếp khác" trên Văn số 135, 1969, "tuyển tập văn mới".
Tks. NQT


Xe miền Tây

Mình gọi đó là “liệu pháp đường xa” mỗi khi cần phải chống sốc vì phải đi về giữa hai môi trường sống, hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi… mỏng. Nên hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm lạnh người đời mình thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán ăn bên đường, cùng với được mất đắng cay sau những ngày rời tổ. Có quá nhiều thứ phải bỏ lại, và mình cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe chạy thì chậm rãi, nhà cũng xa vừa vặn để mình trở lại là mình (hoặc gần giống mình). Thôi thì chân chất, ừ thì quê mùa… miền Tây mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải Sài Gòn Hà Nội, đây là một thế giới khác rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh mì ở bến xe đem về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường, nhiều người ngồi chồm hổm chờ ngoài sân không dám ghé mông ngồi vào ghế, sợ thức ăn đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay nắn hai túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài cái kim tây. Có lần mình ngồi cạnh một bà già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo, cắn lóc cóc.
Những người miền Tây quăn queo lam lũ thật thà này, bolero này, dầu gió này mình không bao giờ gặp trên những chuyến bay. Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham xe đò có bạn bè cười, mình chống chế bằng một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người thì không xa lạ với tôi. Nhưng trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại là sến cho rồi, có sao đâu…
NNT

Gấu đọc câu gạch dưới ở trên rồi, nhưng không nhớ của ai, bây giờ mới kiếm ra, khi đọc Errata, của Steiner:
Nothing human is alien to me: Nihil alienum. Của  nhà viết kịch La Mã Terence (190-158 BC).
Cô Tư, sến, boléro, dầu gió, kịch La Mã, mới ghê!
Trong Errata, cùng khúc đó, Steiner đưa ra một ý nghĩa thật tuyệt vời cho từ ‘stranger’, kẻ xa lạ, mà có thể đây mới là ẩn dụ của cái tít cuốn truyện của Camus. (1)

(1)....
There is a fundamental implication to the legends, numerous in the Bible, but also in Greek and other mythologies, of the stranger at the door, of the visitor who knocks at the gate at sundown after his or her journey. In fables, this knock is often that of a concealed god or divine emissary testing our welcome. I would want to think of these visitors as the truly human beings we must try to become if we are to survive at all.
It may be that the Jew in the Diaspora survives in order to be a guest - so terribly unwelcome still at so many shut doors. Intrusion may be our calling, so as to suggest to our fellow men and women at large that all human beings must learn how to live as each other's 'guests-in-life'. There is no society, no region, no city, no village not worth improving. By the same token, there is none not worth leaving when injustice or barbarism take charge. Morality must always have its bags packed. This has been the universalist precept of the prophets, of Isaiah, Deutero-Isaiah and Jeremiah in their ancient quarrel with the kings and priests of the fixed nation, of the fortress-state. Today, this polemic underlies the tensions between
Israel and the Diaspora. Though the thought must, like the ritual name of God, be unspeakable, the greater verity is that Judaism would survive the ruin of the state of Israel. It would do so if its 'election' is indeed one of wandering, of the teaching of welcome among men, without which we shall extinguish ourselves on this minor planet. Concepts, ideas, which exceed in strength any weapons, any imperium, need no passports. It is hatred and fear which issue or deny visas. I have felt more or less at home - the Jew is often a polyglot almost unawares - wherever I have been allowed a table to work at. Nihil alienum, said the Roman playwright. 'Nothing human is alien to me.' Or to put it another way: what other human presence can be stranger to myself than, at times, I am?
Steiner: Errata, p. 56
*
Những gì thuộc về con người...
From:
Sent: April 5, 2010 12:59:48 AM
To:

…. Cô Tư lên tiếng cho đồng quê Nam Bộ đang bị công nghiệp hoá bức tử, chứ cổ là con nhà cách mạng thứ thiệt, thì Scarlett với Melanie cái nỗi gì?
Câu được gạch dưới của cổ là chỉ lặp lại lời một người khác trong một blog, và cũng là câu mà "bác" Marx và cách mạng hay trích dẫn, học sinh sau 75 biết ráo, khổ cho Gấu phải truy lục.
Tôi thấy Gấu quá đau đáu với Miền Nam xưa mà thành ra lẩm ca lẩm cẩm như vậy.
Tôi cũng thích văn của cổ bất luận cổ là ai, thuộc nhóm nào.
Với tôi, văn chương có những vô thức sáng tạo, có con người thuần tuý bên ngoài chính trị. Đó là lý do tôi thích GNV, ông cứ lèm bèm những v/đ chính trị, nhưng bên trong ông lại có một con người thuần túy của văn chương, rất nhân hậu và cảm động.
Kính,
Một độc giả.

Phúc đáp:
Rất nhân hậu và cảm động!
Đa tạ, muôn vàn đa tạ.
Kính
GNV