Notes
Vụ Án
1
2
3
4
5
|
Vụ
Án
Bố có một mơ ước. Mơ ước này
tôi nghe thường
xuyên trong những bữa cơm tối lúc tôi còn nhỏ, khi bố còn làm ở công ty
điện
lực Hà Nội. Mà không, tôi đã nghe nó từ trước đó, suốt những năm tôi
còn nằm
cũi và bố mới ở chiến trường miền Nam về. Sau gần một năm nằm
dưỡng thương
ở chiến trường Nam Lào toàn rừng khộp và nắng, bố hành quân ghép với
các đơn vị
khác vào đến Đà Lạt; lần đầu tiên bố nhìn thấy những đồi thông xanh và
những
thung lũng đầy hoa. Bố bảo khi nào để dành được nhiều tiền, bố sẽ vào
Đà Lạt
mua một miếng đất, xây một cái nhà nhỏ và làm trang trại trồng rau
xanh. Khí hậu
Đà Lạt tốt, bệnh xoang và khớp bắt nguồn từ những năm nằm rừng của bố
có thể không
cần chữa cũng sẽ tự khỏi.
Hơn 20 năm qua, lúc nào bố cũng
chỉ có một
mơ ước như thế. Bây giờ, cái ước mơ ấy dồn cả vào gốc đậu ván bố trồng
ở hiên sau.
Cây đậu ván leo từ tầng một lên sân thượng; hoa đậu ván nở suốt mùa
đông, tím
ngắt cả ba tầng nhà. Hôm tôi mới về, bố cầm rổ cho tôi và Tu Ti nhặt
những quả
đậu ván già trên sân thượng để luộc. Bố lại nói bố muốn có một trang
trại trong
miền Nam – không cần Đà Lạt vì đất Đà Lạt bây giờ đắt quá, chỉ cần chỗ
nào đó ở
đồng bằng sông Cửu Long, rẻ thôi, miễn là ấm áp. Chỉ cần vào đó trồng
trọt thì
tự khắc bệnh xoang, rồi bệnh khớp, rồi bệnh tiền đình sẽ khỏi hẳn. Có
thể bố sẽ
lại nghe lại được.
Bố ạ, con tốt nghiệp đi làm bên
đó, con sẽ
để giành tiền cho bố mua đất trong Nam.
Phan Việt: Những ngày ở Việt Nam.
[Trích lại từ blog Thích
Học Toán]
Note: Lâu lâu đổi món. Cứ Cô
Tư, Faulkner
hoài!
Mà cũng quái thật. Ngay cái thuở chập chững như anh cu Tu Ti trong
truyện trên,
Gấu đã được Ông Trời trang bị đầy đủ, để sau này chống lại giấc mơ ăn
cướp:
Koestler, Đêm giữa Ngọ.
Faulkner, Absalon, Absalon! [Anh em ruột giết lẫn nhau].
Và Greene: Tình yêu dành cho Miền Nam, qua, thí dụ:
Người Mỹ trầm lặng v PXA trong Thời gian của
Người...
Đổi sang MN, bị lũ khốn xúm lại
chửi.
Hà, hà!
*
Dịch hạch,
như thế, chẳng dậy một bài học. Camus thì đạo đức, nhưng không là kẻ
rao giảng
đạo đức. Ông cho biết, rất cẩn trọng cố tránh cho bài viết của mình cái
giọng
đạo đức, dậy đời, và, có thể nói, những cuốn tiểu thuyết của ông, theo
cái đà
cẩn trọng đó, cũng ít đem lại sự hài lòng, thoải mái tới cho những cuộc
bàn
luận chính trị của bất cứ một trường lớp nào có thể có ông ở trong đó.
Nhưng
chính đây là cái lý do rất lý do, the very reason, nó sống dai, vượt ra
khỏi
gốc gác, vốn là một ẩn dụ về một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng, vượt ra
khỏi
thời đại của nó. Nhìn lại cái thế kỷ xám xịt với những thành quả xám
xịt vừa
qua, chúng ta mới ngỡ ngàng làm sao, khi ngộ ra một điều là, Albert
Camus đã
chỉ ra nan đề trung tâm của thời đại. Như Hannah Arendt, ông nhìn ra “vấn
đề
cái ác sẽ là câu hỏi cơ bản của cuộc sống trí thức thời hậu chiến tại
Âu Châu –
như cái chết là vấn đề cơ bản của cuộc chiến vừa qua”.
[Like Hannah Arendt, he saw that "the problem of evil will be the
fundamental question of postwar intellectual life in Europe-as
death became the fundamental problem after the last war.” Tony Judt: Lessons
of Camus’s “Plague”. NYRB Nov 29, 2001]
Camus 50 năm sau khi đi xa
Chủ
nghĩa CS, và những trại
cải tạo của nó, là thử nghiệm tối hậu về đạo đức con người. (Tzvetan
Todorov).
Ui chao
đúng là những câu Mít
sau cuộc chiến cần đọc!
Nhất là cái lũ thắng trận!
Mỗi lần
đọc một bài viết của đám Bắc Kít thoát ra được hải ngoại, chửi
VC thật tàn độc, hơn Gấu nhiều, là Gấu vẫn thường băn khoăn tự hỏi, sao
tay này
hay thế, làm sao mà không bị thương tổn một tí ti nào, sợi lông chim
cũng không
mất, sau cú thử nghiệm tối hậu?
Cũng thế, là với đám Ngụy "chúng ta": Đâu có ai còn lành lặn, cả về
phần hồn lẫn
phần xác,
kể từ 30 Tháng Tư?
Chuông
gọi hồn ai?
Chuông gọi
hồn mi đó.
Liệu Miền Nam,
có gia đình
nào mà còn nguyên vẹn?
Đọc
những cái còm ‘nhân danh’
MN, tố cáo GNV, Gấu có cảm tuởng đám này “sạch”, y chang đám VC Bắc Kít
bỏ chạy,
thoát ra hải ngoại, ngoặc mồm chửi VC trong nước là vô đạo đức, tàn ác,
dã man,
thú vật…
Chúng [đám viết còm về GNV trên
DM] làm như chưa từng biết gì về những nỗi thống khổ của người dân MN
sau 30
Tháng Tư, phải làm đủ mọi cách để mà sống sót, rất nhiều chuyện vượt ra
khỏi
cái khung đạo đức bình thường. Thử hỏi, một bà vợ sĩ quan trước 30
Tháng Tư,
như một Bà Hoàng, sau đó, làm thế nào để sống, để nuôi con, chồng đi tù
không
có biết ngày về?
MN có thể nhìn thấy hoàn cảnh
HNT quá khổ, nên mới đề nghị như vậy, cũng chỉ là một cách ngửa tay xin
tiền bè
bạn cho qua cơn ngặt nghèo, có gì là xấu mà phải giấu diếm? Kể một câu
chuyện
cảm động như vậy, thì có gì là vi phạm đạo đức?
Vi phạm đạo đức, là cái kẻ,
nghe câu chuyện đó, được kể ra giữa hai người bạn đã có may mắn ra khỏi
Việt
Nam, là GNVvà MN, nhớ về một người bạn còn kẹt lại, là HNT, và những
ngày đói
khổ cùng lăn lóc, lê lết trên hè đường Sài Gòn.
Vậy mà chúng đòi hỏi, có
chứng cớ không, có ghi âm không, có quay video không, hay là nằm gậm
giường
nghe MN và HNT nói chuyện?
Tởm lợm thế, vô hạnh như thế
mà cũng dám viết ra, rồi cũng có diễn
đàn đăng lên.
Khi
cả Miền Nam
bị làm nhục như thế, mấy ông/bà
viết còm chửi GNV ở đâu mà sạch như thế?
Một
độc giả DM, làm sao đọc cùng lúc,
những cái còm nhơ bẩn như thế, và một bài viết về nhạc thiền của TCS,
về Thánh
Simone Weil, về, về, về ....?
NQT
Years ago
we in
the South made our women into ladies.
Then the War came and made the ladies into ghosts.
"Những
năm nảo năm
nào chúng ta, người Miền Nam,
tôn các bà của chúng ta thành những bậc mệnh phụ.
Rồi đám Bắc Kít hô
hào giải
phóng Miền Nam
đánh cho Mẽo cút Ngụy nhào,
và biến họ thành những bà vợ đám Ngụy có
chồng đi
tù cải tạo.
Chúng ta có thể có thể làm gì, ngoài chuyện, lắng nghe Cô
Tư kể
chuyện?"
Hà, hà!
Đúng là dịch bố lếu bố láo, anh cu Gấu!
*
Cái đám khốn
kiếp, khi chúng
cho đăng mấy cái còm chửi GNV là những gì gì,
“vô đạo đức, không biết ứng xử văn
hóa, vứt mẹ cây bút đi cho rồi… “,
khi kể chuyện xấu của Miền Nam ra, ‘vô tình’
chúng làm nhục những người đàn bà như những Bà Hoàng ngày nào.
Và đây
là Faulkner, trong
Absalom, Absalom!, viết về cái cuộc gặp gỡ giữa… GNV, một bà
Miền Nam,
thí dụ như
là… MN:
It’s because she wants it told.
Bởi vì bà đâu có muốn giấu,
chuyện như thế có gì xấu xa, vô đạo đức, bà muốn nó được kể ra.
Bà muốn
nó được kể ra để những con người mà
bà chưa hề
nhìn thấy, mà tên của họ, bà chưa hề nghe và họ cũng chưa hề nghe tên
bà,
nhìn mặt
bà, họ sẽ đọc nó, và sau cùng hiểu ra được tại sao Thượng Đế lại để cho
chúng ta
thua trận….
It’s because she wants it
told, so that people whom she will never see and whose names she will
never
hear and who have never heard her name nor seen her face will read it
and know
at last why God let us lose the War
Trước
30 Tháng Tư, chúng ta
người Miền Nam làm cho những người đàn bà của mình trở thành những Bà
Hoàng, và
đám VC Bắc Kít cùng cuộc chiến khốn kiếp của chúng sau đó biến họ trở
thành những
hồn ma.
Years ago we in
the South made our women into ladies.
Then the War came and made the ladies into ghosts.
William
Faulkner: Absalom,
Absalom! [p.12. Modern Library College Editions]
*
As for
me, I prefer to
smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest
of my
life.
Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Di chúc
Bác Hồ
Bố có một mơ ước.
Ước mơ của ông Bố này, những
ngày sau 30 Tháng Tư 1975, đã được biếu không cho đám
Bắc Kít, qua chương trình Kinh Tế Mới, hay Phân Bố Lao Động, tức là đưa
Bắc Kít
Nam Tiến. Tô Hoài trong Bút Ký, nhà xb Hội Nhà Văn, 2000, dành một
chương để tả
những làng xóm Bắc Kít, với những cái tên "chúng ta đi mang từ quê
hương", như Hà
Nội, Lâm Hà, Thanh Trì, Đông Anh... những người làng Vân...
ở những
vùng cao nguyên
như Lâm Đồng, Đơn Dương, Đà Lạt.
Thành ra có tới hai chiến dịch Kinh Tế Mới. Một, tống Nguỵ ra khỏi
thành phố
Miền Nam, và một, đưa đám tinh anh Hà Nội vô thế chỗ, nhà xb Hội Nhà
Văn
bộ
phận phía Nam, thí dụ; và đưa dân Bắc vô, phân bố lao động.
Chương Nhất của Bút
Ký của Tô Hoài có tên là Nhớ Quê.
Quê ở đây là Đàng Trong, là Miền Nam.
Đất Bắc đâu phải quê của Bắc Kít!
Hợp tác
xã nông lâm nghiệp
Thanh Trì – hay khu Thanh Trì, mọi người quen gọi thế. Giữa huyện Đức
Trọng,
huyện Đa Hoai đang xuất hiện ngày càng nhiều những cái tên cũ mà hoàn
toàn mới
trên đất này. Các thị trấn và đường Thanh Trì, Từ Liêm, Hoàn Kiếm, Ba
Đình, công
viên Thủ Lệ giữa những Lán Tranh, Cam Ly, Dạ Đờm… Mỗi cái tên mỗi công
việc đều
chan chứa hình ảnh thơ mộng và đượm bao nhớ thương, mong ước.….
Chả là
tôi đọc tài liệu thấy
nói cái ông bác sĩ Yécxanh ngày trước ở Nha Trang đã mày mò lặn lội
trên rừng nửa
năm tìm ra đất Đà Lạt cho Tây nghỉ mát, mình là người nước mình, thua
người ngoài
sao được bác nhỉ?
Tôi
quen Hảo từ lâu. Hảo đã vào
ngay đợt đầu, đắn đo trở ra lại vào và bây giờ ở hẳn, đào ao làm nhà.
Tô Hoài: Bút Ký
Bút
Ký đã từng bị cấm, chắc là
vậy.
Có cả Faulkner
nữa!
Giáo Đường, Sanctuaire, ư?
Tất nhiên rồi!
Tôi tưởng tượng ra một chuyện ghê rợn nhất rồi bầy nó ra
mặt giấy. (1)
Câu của Faulkner, áp dụng vào Cánh đồng bất tận mà không tuyệt
sao?
(1)
Trên tờ Nguời
Quan Sát Mới, số 11-17 Mars 2010, mục “Điện thoại đỏ”, cho biết
tin
nóng hổi:
Những
chuyên gia về Faulkner đã rụng rời, en
émoi, kể từ khi người ta khám phá ra
một cuốn sổ đăng ký một đồn điền nô lệ ở Mississipi, được coi là nguồn
sáng
tác Giáo Đường của Faulkner!
Cuốn sổ dầy 1.800 trang, giấy vàng khè, từ, datant du, thế kỷ
19. Nhà văn lấy giai thoại từ đó, và còn chôm tên một số nô lệ cho
những nhân vật
của ông.
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
V/v Tình Lơ.
Hẳn là Cô Tư đọc Cuốn
Theo Chiều Gió, và bởi vì cùng một nỗi ám ảnh về một Miền Nam sâu
thẳm của một William Faulkner, một Margaret Mitchell, mà viết ra nó.
Scarlett và Melanie ở đây là hai chị em giống nhau như đúc. Và thầy
giáo Thành trong Một Mối Tình, thì biến thành anh chồng ngớ ngẩn lầm cô
chị với cô em, hoặc ngược lại.
Cái không khí chung của tất cả truyện của Cô Tư, vẫn là ảo tưởng về ông
anh Bắc Kít ruột thịt cuối cùng hóa ra… kẻ thù!
Scarlett khi vỡ ra, bèn đoạn tuyệt với ảo tưởng, quyết tâm xây dựng lại
thiên đàng Tara, chờ ngày Rhett [chắc
là đi học tập cải tạo] trở về!
Một độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu, Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng
ra, như thế!
Gấu này đành phải thú thực, sợ Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner,
những Margaret Michell! Tất cả những sáng tác của Cô Tư đều bàng bạc
trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó, phải tính từ thời Adam
và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ “giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!], lang thang
khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày lòng
thương hại của nhân loại.
*
Chuyện
Faulkner
thuổng tài liệu đăng ký đồn điền cao su Nam Bộ, ấy chết xin lỗi, đồn
điền nô lệ
Mississipi, viết Giáo Đường,
theo Gấu chưa quái bằng chuyện Cô Tư, chưa từng đọc
Faulkner, vậy mà toàn bộ tác phẩm của cô như bước ra từ chương I cuốn Absalom,
Absalom! của Faulkner!
TV sẽ post chương
I, hồi I trên, và để độc giả TV tuỳ nghi thẩm định!
"Years ago
we in the South made our women into ladies. Then the War came and made
the
ladies into ghosts. So what else can we do, being gentlemen, but listen
to them
being ghosts"
Những năm nảo năm
nào chúng ta, người Miền Nam,
tôn các bà của chúng ta thành những bậc mệnh phụ. Rồi đám Bắc Kít hô
hào giải
phóng Miền Nam
đánh cho Mẽo cút Ngụy nhào, và biến họ thành những bà vợ đám Ngụy có
chồng đi
tù cải tạo. Chúng ta có thể có thể làm gì, ngoài chuyện, lắng nghe Cô
Tư kể
chuyện?"
Hà, hà!
Đúng là dịch bố lếu bố láo, anh cu Gấu!
Đỗ Hải
Yến trong Cánh Đồng Bất
Tận [hình từ Bee]
Ui chao, nhìn là thấy hiển hiện
ra tất cả những nhân vật nữ của Faulkner!
Nhất là cái em trong Giáo
Đường, Sanctuaire, bị thằng
liệt dương phá
trinh bằng cái bắp ngô!
Liệt
dương ư?
Hay là tay hiệu trưởng gì gì đó?
Cái vụ
đám khốn kiếp thù GNV,
xúm lại chửi, chắc là vẫn cùng lũ, gửi mail cho TV, rồi kéo nhau qua
DCV, rồi bây
giờ qua DM.
Bây giờ đành phải mở ra vụ án
này vậy, khởi từ talawas, từ những cái mail, đầu, thí dụ:
Nguyễn
Hưng Quốc
Có
mấy Nguyễn Quốc Trụ?
Trong
bài "Bông hồng là bông hồng là bông hồng" của
Nguyễn Quốc Trụ mới được
đưa lên Talawas có một chi tiết liên quan đến tôi. Chi tiết ấy khá nhỏ.
Tuy
nhiên, để tránh bị hiểu lầm là mình bất cẩn; lại là một bất cẩn có thể
làm xúc
phạm đến hai người, Nguyễn Quốc Trụ và Võ Phiến, nên tôi xin có đôi lời
minh giải.
Nguyễn
Quốc Trụ viết:
"Nhân
tiện ở đây, tôi cũng xin "thanh minh", là chưa từng viết về Võ Phiến
trước 1975, như trong tiểu chú ở cuối cuốn viết về Võ Phiến, của Nguyễn
Hưng Quốc."
Cái
"tiểu chú" mà Nguyễn Quốc Trụ nhắc nằm trong phần "Tài liệu tham
khảo về Võ Phiến" trong cuốn Võ Phiến được Văn Nghệ xuất bản vào năm
1996
của tôi. Trong phần đó, có đoạn tôi điểm qua tạp chí Văn số đặc biệt về
Võ Phiến
phát hành tại Sài Gòn vào tháng 8 năm 1974. Sau khi liệt kê các bài
viết chính
trong số Văn ấy, tôi viết thêm: "Ngoài ra, còn mục 'Ðọc Võ Phiến', gồm
những
trích đoạn từ bài viết của các nhà văn: Phan Lạc Phúc, Mai Thảo, Ðỗ
Tấn, cô
Phương Thảo, Huỳnh Phan Anh, Viên Linh, Nguyễn Quốc Trụ, và Nguyễn Ðình
Toàn về
một tác phẩm nào đó của Võ Phiến. Tất cả các bài viết này đều đã được
đăng báo,
đâu đó." (tr. 205)
Ðã
đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các
trích đoạn
ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng, tuy nhiên, đọc lời
"thanh minh" của Nguyễn Quốc Trụ, tôi vẫn thấy lạnh cả người: chẳng lẽ
mình lại bất cẩn đến độ gán ghép cho Nguyễn Quốc Trụ tác phẩm mà anh
không từng
viết bao giờ? Tôi vội lục lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May,
tôi còn
giữ. Vẫn thấy, ở số báo ấy, bài viết của Nguyễn Quốc Trụ dưới nhan đề
"Thế
giới truyện ngắn Võ Phiến", nằm từ giữa trang 38 đến đầu trang 40, đứng
ở
vị trí số bảy trong tám tác giả được trích. Cuối bài viết ấy, có một
lời chú
cho biết thêm: bài viết đã được đăng trên báo Tiền Tuyến số tháng 12.
1969. Tôi
còn ngờ, cố banh mắt đánh vần từng chữ trong cái tên của tác giả. Thì
cũng vẫn
là Nguyễn Quốc Trụ. Ðọc ngược lên lời giới thiệu của toà soạn Văn ở
trang 28. Vẫn
thấy ghi là Nguyễn Quốc Trụ.
Lạ.
Chẳng lẽ "hoa hồng là hoa hồng" mà Nguyễn Quốc Trụ lại không phải là
Nguyễn Quốc Trụ ư?
©
Talawas 2002
Dưới
đây là email trả lời qua Talawas:
Nguyễn
Quốc Trụ
Cáo
lỗi
Xin
lỗi anh Nguyễn Hưng Quốc, tôi không nhớ đã từng viết về Võ Phiến trên
Tiền Tuyến,
và chỉ nhớ đã đọc Võ Phiến khi còn đi học.
Kính
NQT
*
Ở đây, NQT, tôi,
quên, là đã từng viết một bài viết nhỏ, về VP, đăng trên phụ trang văn
học của
tờ nhật báo Tiền Tuyến, sau được NXH lấy ra đăng trên tờ Văn, mà tôi,
NQT,
không hề biết sự kiện này, và vì thế, đã phải xin lỗi NHQ, về cái sự
quên, và
không biết đó, chứ không phải xin lỗi ông NHQ vì cái mail khốn nạn của
ông ta.
Khốn
nạn, là vì câu chuyện chỉ liên quan đến một bài viết nho nhỏ, và một
cái tiểu chú, như thế,
ông NHQ đặt câu
hỏi, "Có mấy NQT"?
Một câu hỏi như thế là muốn
nhắm vào đời tư của kẻ khác, vì,
ngoài một NQT viết văn, viết phê bình, còn nhiều thằng NQT khác nữa.
Đó là cái
cái ác ý đằng sau câu hỏi.
Và, hình như sợ
độc giả “ít học, quá chân, quá thiện…”, không nhận ra cái ác ý khốn
nạn, cái hiểm
độc của ông, NHQ nhấn mạnh thêm:
Lạ. Chẳng lẽ "hoa hồng là hoa hồng" mà Nguyễn Quốc Trụ lại không phải
là Nguyễn Quốc Trụ ư?
Còn
nữa.
Câu
chuyện liên quan chỉ tới NQT, cho dù có mấy tên đi nữa, không liên quan
gì tới
những nhà văn Miền Nam
khác, mà NHQ lôi tất cả ra để “dè bỉu” họ, chứng cớ:
Cái
"tiểu chú" mà Nguyễn Quốc
Trụ nhắc nằm trong phần "Tài liệu tham khảo về Võ Phiến" trong cuốn
Võ Phiến được Văn Nghệ xuất bản vào năm 1996 của tôi. Trong phần đó, có
đoạn
tôi điểm qua tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến phát hành tại Sài Gòn
vào
tháng 8 năm 1974. Sau khi liệt kê các bài viết chính trong số Văn ấy,
tôi viết
thêm: "Ngoài ra, còn mục 'Ðọc Võ Phiến', gồm những trích đoạn từ bài
viết của
các nhà văn: Phan Lạc Phúc, Mai Thảo, Ðỗ Tấn, cô Phương Thảo, Huỳnh
Phan Anh,
Viên Linh, Nguyễn Quốc Trụ, và Nguyễn Ðình Toàn về một tác phẩm nào đó
của Võ
Phiến. Tất cả các bài viết này đều đã được đăng báo, đâu đó." (tr. 205)
Ðã
đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài
viết hay
các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng
*
Đám cà chớn
này
muốn sinh sự thì đành phải hầu
tiếp thôi.
GNV bây giờ rảnh rồi, sẽ đáp lễ, luôn cả tới những đại sư phụ của chúng.
Cũng là một cách nhìn lại cái xấu, cái ác, không phải Cái Ác Bắc Kít.
Cũng một cách tưởng niệm 50 năm Camus đi xa, qua câu viết vinh danh
ông,
và Hannah Arendt, trên:
“Vấn đề cái ác sẽ là câu hỏi cơ bản của cuộc sống trí thức thời hậu
chiến tại
Âu Châu – như cái chết là vấn đề cơ bản của cuộc chiến vừa qua”.
NQT
Lạ. Chẳng lẽ "hoa hồng là hoa hồng" mà
Nguyễn Quốc Trụ lại không phải
là Nguyễn Quốc Trụ ư?
Đây là
giọng văn
có ứng xử văn hóa, có đạo đức?
Ðã
đành, với cách viết hờ
hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá
trị văn
chương hay sử liệu gì quan trọng:
Giọng văn của Thầy, hay của
một tên ngồi đáy giếng tưởng Trời bằng vung?
Chỉ để vinh danh VP,
qua cuốn Võ Phiến của ông ta, NHQ đạp tất cả
những nhà văn Miền Nam
khác xuống đất đen!
NQT
Ngay cả
khi Trần Phong Giao
thôi làm thư ký, "ông bạn" của tôi, là Nguyễn Xuân Hoàng thay thế,
trong một số báo đặc biệt về các nhà văn nữ Việt Nam, anh "ra lệnh" mày
cho tao một bài, đến khi đăng, bài cũng bị kiểm duyệt. Anh cho biết, đã
kiểm
duyệt bớt đi, mà vẫn còn bị các bà điện thoại tới mắng vốn.
Bao nhiêu năm rồi, tôi vẫn
chưa quên một câu văn bị cắt: các nhà nữ Việt Nam đi
từ thành công đến thất bại.
(Tôi cứ tưởng tượng cái cảnh ông bạn của mình bị mắng vốn, và câu biện
minh của
anh, tao không cắt câu văn, sợ mấy bà cắt mày). Không phải tôi viết
sai, viết
bậy. Nhưng cái giọng văn đầy nọc độc như trên thật dễ làm mất lòng
nhau. Một
nhà thơ đàn anh lắc đầu, mày viết đúng về những người không phải là bạn
mày,
nhưng viết sai về những bạn của mày. Lúc đó, đám chúng tôi đang làm tờ
Tập San
Văn Chương. Nguyễn Tường Giang, bác sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ bèn
quyết định,
sẽ đăng lại toàn bài trên báo nhà, nhưng tôi lắc đầu. Hình như đó là
bài viết
phê bình cuối cùng của tôi, tại Sài Gòn, trước 1975.
V/v
những nỗi thống khổ của
những ladies Miền Nam,
thê lương nhất, theo Gấu là cái vụ không có chồng ở kế bên, vào những
lúc cô đơn
nhất, cần nhất.
Đây là đề tài của cuốn Nhà Hội của Amis, nhưng với Nhà Hội,
còn là một câu chuyện
tình của hai anh em cùng yêu một cô gái.
Ở đây,
Gấu chỉ kể một, hai câu chuyện mà Gấu biết.
Thứ nhất, câu chuyện một bà vợ sĩ quan, để nuôi con, phải đi lại với
một tên VC.
Gia đình bên chồng biết, viết thư cho con trai. Ông con trai nói, nếu
vợ con
vẫn còn lo cho mấy đứa nhỏ, cho dù không thể đi thăm muôi con, thì vẫn
OK như
thường. Chỉ khi nào, bỏ mấy đứa con, thì lúc ấy bố mẹ cho con biết, để
con từ
nó.
Chuyện kia, một bà lỡ có bầu, bèn đi thăm nuôi chồng, để đánh lừa ông
chồng.
Ông này biết, sau vượt biển, qua Mẽo, bỏ vợ lại.
Một bà nữa, cũng có bầu với một tay chợ trời, khi chồng về, trả con cho
ông chợ
trời, theo chồng vượt biển, ông chồng tha thứ cho bà vợ, coi như chẳng
có chuyện
gì xẩy ra.
Cái
tội
ác, vô đạo đức khủng khiếp nhất, là do VC gây ra, khi cố tình bắt người
chồng đi cải tạo không có ngày về.
So với những chuyện đó, câu chuyện đám cưới giả là cái thá gì?
Vậy mà lũ cà chớn xúm
lại chửi Gấu.
Chửi Gấu thì cũng OK, nhưng đúng ra, chúng chửi những người đàn bà Miền
Nam
bị VC đẩy vô tình trạng khốn khổ như vậy.
Đó mới là cái khốn nạn của lũ cà chớn!
*
Nhà Hội ra lò,
đúng lúc Booker Prize đang coi giò coi
cẳng những ứng viên. Như Người Kinh
Tế viết, cuốn sách mãnh liệt chẳng thua gì Ô Nhục của
Coetzee, vậy mà tác giả của nó, qua nhà xb, đếch thèm ghi tên tham
dự, và Booker năm đó đã về tay Kiran Desai, với cuốn "Gia tài của mẹ để
lại cho con, một lũ khùng khùng", The inheritance of Loss [Di sản của
sự
mất mát].
Đây là cuốn sách, kể kinh nghiệm mà bất cứ một anh tù
VC nào cũng đã từng trải qua. Một tác phẩm mà anh nào cũng muốn đọc và
muốn là
tác giả của nó !
House of Meetings: Nhà
Hội. Nơi gặp gỡ, và, nếu là bà
xã đi thăm, thì trại viên sẽ được qua đêm tại đó.
Tay giữ mục điểm sách của tờ Người Kinh Tế này, phải là bậc
thầy!
Đọc nhiều, viết ngắn, gọn, đúng thứ nhà nghề, mở ra
thường bằng một trích dẫn, y chang cái vòng hoa đầu tiên mà "Quỹ
Nobel" [chữ của mấy ông VC-BBC] choàng lên vị tân Nobel, tức cái thông
báo
dành cho báo chí.
Câu
mở của bài trên chẳng hách xì xằng sao?
Phê bình gia thứ thiệt, Nabokov có lần đưa ra nhận
xét, là người đọc, không phải với cái đầu, mà bằng xương sống lưng của
anh ta.
Hắn
ta, giống như Gấu, đọc, đến giây phút diệu kỳ,
giọt lệ trời biến thành giọt lệ người, bỗng thấy một làn hơi hạnh phúc
từ huyệt
bách hội ở trên đỉnh đầu, theo xương sống lưng chạy xuống, rồi tỏa ra
khắp cơ
thể, tới từng lỗ chân lông, và cứ thế tê lịm người đi, và thế là biết
liền tù
tì, đây là thơ thần.
*
-Phách lối vừa vừa thôi, cha nội. Bộ mi nghĩ, mi là
phê bình gia thứ thiệt?
-Phê bình gia thứ thiệt hay không, chưa cần biết.
Nhưng giây phút tê lịm người thì có thiệt.
Date:
Sun, 23 Jan 2005 11:41:44 -0800 (PST)
From:
Subject: hey
To:
Hey ong Gau, ong la cai gi tren doi nay ma viet van
phach loi , hay tu kiem diem lai xem minh co xung dang khong?
Mot doc gia
Bà
Nguyễn Thị Mai Anh và Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu từng nghe người ta gán cho chế độ Ngô Đình Diệm
từ
"độc tài" hoặc "gia đình trị". Nhưng thật ra, dùng chữ
"toàn trị" (totalitarisme) thì chính xác hơn (...). Là vì trong 9 năm
cầm quyền (1954 - 1963), ông Diệm đã đưa toàn thể xã hội vào trong
guồng máy
của đảng Cần lao Nhân vị của Phong trào Cách mạng quốc gia, của Thanh
niên cộng
hòa, của Phụ nữ liên đới...
Cao
Huy Thuần
Ui
dà dà, ông này định nghĩa “toàn
trị” bảnh thật!
Thế
thì
định nghĩa Cao Huy Thuần
là cái gì?
Kít!
Trên
Tin Văn đã từng giới thiệu
một cuốn tiểu thuyết thần sầu của Greene, đề tài của nó, bịnh cùi: A
Burn-Out
Case.
Trong
một vài
đường hướng, đây là một cuốn sách tuyệt hảo đối với tôi - mặc dù đề tài
và sự
quan tâm của nó, thì rõ ràng thuộc về một cõi không tuyệt hảo. Tôi đọc
nó, lần
đầu khi còn trẻ, dân Ky tô, lớn lên ở Phi Châu, vào lúc mà trại cùi còn
phổ
thông. Tôi còn nhớ, lần viếng thăm cùng với mẹ tôi, một trại cùi như
thế, được
mấy bà sơ chăm sóc, tại Ntakataka, nơi hồ Lake
Malawi.
Và tôi sợ đến mất vía bởi cái sự cử động dịu dàng đến trở thành như
không có,
của những người cùi bị bịnh ăn mất hết cánh tay, y hệt như được miêu tả
ở trong
cuốn tiểu thuyết: “Deo Gratias gõ cửa. Querry nghe tiếng cào cào cánh
cửa của
cái phần còn lại của cánh tay. Một xô nước treo lủng lẳng ở cổ tay
giống như
một cái áo khoác, treo ở cái núm trong tủ áo”.
Vào cái lúc tôi đọc nó, thì tôi đang phải chiến đấu, như những người
trẻ, hay
già, phải chiến đấu, và cũng không phải chỉ ở Phi Châu, với những đòi
hỏi về
một niềm tin, khi mà niềm tin này thì thực là "vô ích, vô hại, vô dụng,
vô
can…", tại một nơi chốn, bất cứ một nơi chốn, bị tai ương, bệnh tật, và
cái chết nhòm nhỏ, đánh hơi, quấy rầy, không phút nào nhả ra.
Thành thử câu chuyện của Greene về một gã Querry, một tay kiến trúc sư
bảnh
tỏng, tới xứ Công Gô, chỉ để chạy trốn, và tìm ra một thế giới, và có
thể, Chúa
bắt kịp anh ta đúng ở đó, một câu chuyện như thế, làm tôi quan tâm.
Ui chao, thế rồi,
bị ông bạn cũ thuộc băng đảng VH ngày nào, cấu kết với băng đảng hậu
vệ, chơi
GNV tơi bời hoa lá trên DM, khiến GNV "giận mất
khôn", và thế là nhận được mail của độc giả cảnh cáo, như sau đây:
From:
Phuong Thao Ngo
To: NQT
Sent: Tue, April 27, 2010
9:11:32 AM
Subject: V/v Benh hui
(leprosy)
Thưa
ông Nguyễn Quốc Trụ:
Gần đây, vì một sự nóng giận,
ông đã dùng chữ "hủi" một cách khinh miệt. Sự khinh miệt này không
đúng, vì người hủi là người mắc một chứng bệnh ngoài da do các loại vi
trùng
Mycobacterium leprae và Mycobacterium lepromatosis
gây nên. Người hủi không phải là người đáng bị khinh miệt. Bệnh hủi ở
ngoài da
và không liên hệ gì đến đạo đức của bệnh nhân.
Trong Thiên chúa giáo, các
Kinh Thánh Luke, Mark, Matthew đều có kể chuyện Chúa Jesus rất ân cần
chữa lành bệnh cho 10 người bị bệnh hủi.
Trong Phật giáo, Ngài Tăng
Xán là một người mắc bệnh hủi nhưng được Nhị tổ Huệ Khả tin cậy truyền
y bát,
và Ngài Tăng Xán trở thành vị Tam tổ của Thiền tông. Ngài Tăng
Xán là bổn sư của vị Tứ Tổ Đạo Tín và cũng là bổn sư của Ngài Tì Ni Đa
Lưu Chi
(Vinidaruci). Ngài Tì Ni Đa Lưu Chi là vị thiền sư đầu
tiên từ Ấn Độ đem Phật giáo vào Việt Nam.
Khi viên tịch, Ngài truyền
tâm ấn cho Ngài Pháp Hiền, và Pháp Hiền vị thiền sư đầu tiên của Việt Nam.
Vào thời xa xưa, vì y khoa
quá sơ khai và đầu óc còn mê tín, người ta đã ghê sợ những người mắc
bệnh hủi.
Ngày nay, y khoa hiện đại có thể chữa lành bệnh hủi hoàn toàn. Ông có
thể dễ
dàng theo dõi một chút kiến thức phổ thông trên
Wikipedia:
In the past 20 years, 15 million
people worldwide have been cured of leprosy. Although the forced
quarantine or
segregation of patients is unnecessary in places where adequate
treatments are
available, many leper colonies still remain around the world in
countries such
as India (where there are still more than 1,000 leper colonies), China,
Romania, Egypt, Nepal, Somalia, Liberia, Vietnam, and Japan. Leprosy
was once
believed to be highly contagious and sexually transmitted, and was
treated with
mercury—all of which applied to syphilis which was first described in
1530. It
is now thought that many early cases of leprosy could have been
syphilis.
Leprosy is now known to be neither sexually transmitted nor highly
infectious
after treatment, as approximately 95% of people
are naturally immune and sufferers are no longer infectious after as
little as
2 weeks of treatment.
Tôi
thành thật đề nghị ông
Nguyễn Quốc Trụ nên suy nghĩ và sử dụng ngôn ngữ một cách cẩn trọng và
văn minh
hơn, để tránh xúc phạm đến những người bệnh hủi ngoài da nhưng tâm hồn
lương
thiện.
Kính thư
Dr. Ngô
Phương Thảo
University of Connecticut
at Farmington
Phúc
đáp:
Chân thành xin lỗi Bác Sĩ và
các bệnh nhân.
Tôi sẽ hết sức cẩn trọng,
trong tương lai v/v sử dụng từ ngữ.
Một lần nữa xin đa tạ lời chỉ
bảo chân thành của Bác Sĩ
NQT
PS: Xin phép Bác sĩ cho TV post mail của
Bác sĩ để cho thấy tầm quan trọng, và sự chính xác của sự kiện này.
NQT tôi
cũng đang tính viết về đề
tài này, nhân đọc cuốn A Burn-out
Case của Graham Greene, mà tôi link ở đây, xin Bác sĩ thẩm
định, và cho biết ý kiến.
Trân trọng
NQT
http://www.tanvien.net/Dich_1/burn_out_case.html
Note:
TV đã delete những từ
sử dụng không cẩn trọng. Có thể còn, do sơ suất, mong độc giả tự động
delete
giùm, hoặc coi như không có.
Một lần nữa, xin độc giả TV bỏ qua cho lỗi lầm lớn lao này.
NQT
*
Apr 28,
2010 4:13:00 AM
Chào
bác Tin Văn
Phản đối chuyện bác phải xin
lỗi bà bác sĩ Phương Thảo nào đó.
Vì việc sử dụng thành ngữ
"dây với hủi" có nghĩa khác với từ "hủi" một mình.
Khi một bác sĩ sử dụng bệnh
hủi để giải thích bệnh lý và các tâm lý chung quanh chứng bệnh ấy thì
đấy là
một hiện trường riêng.
Khi người Việt sử dụng thành
ngữ "dây với hủi" thì nó biểu tượng một khái niệm đã được thiết lập
trong một văn hóa và bối cảnh của ngữ nghĩa ấy. Dùng "dây với hủi"
không có nghĩa là khinh bỉ người bị bệnh hủi, mà chỉ là có ý miệt thị
những
người vô đạo đức vô liêm sĩ. Ngôn ngữ có nhiều tầng ngữ nghĩa tùy theo
người
dùng và người đón nhận. Vì vậy có những chữ được dùng chỗ này thì có ý
nghĩa
này, và dùng ở nơi khác thì có ý nghĩa khác. Ví dụ: Nước, có thể chỉ
water mà
cũng có thể là nation
Bác Trụ yếu bóng vía thế mà
đòi đi giang hồ làm quái gì.
Người gửi cho bác lá thư đả
đảo DTL
Blog NL
@ Ano:
Người Việt mình nói
'dây với hủi', là tỏ ý khinh miệt, một phần do bịnh đó ngày trước bị
coi là
nguy hiểm, phải cách ly; nay phải bỏ cái thành ngữ khinh miệt đó đi, dù
dùng
theo bất cứ ngữ nghĩa, hoàn cảnh nào.
Đó là ý của Dr. PT.
Trân trọng
NQT
Apr 28, 2010
4:50:00 PM
*
Thưa ông Nguyễn
Quốc Trụ:
Tôi xin cảm ơn ông đã đón
nhận lời góp ý đơn sơ của tôi.
Có một ý này tôi muốn nói
thêm. Trong văn chương, chữ "hủi" không xấu.
Thời trước ở Việt Nam
có
thi sĩ Hàn Mặc Tử là một người mắc bệnh hủi nhưng vẫn được mọi người
kính trọng
và yêu mến. Không ai khinh bỉ Hàn Mặc Tử. Người ta còn xem bệnh hủi như
một
nguyên nhân giục giã nhà thơ viết nên những áng thơ đẹp đẽ lạ thường.
Chữ
"hủi" hay "cùi" gắn liền với đời thơ Hàn Mặc Tử và đã trở
thành những chữ đi vào văn chương.
Kính thư
Dr. Ngô
Phương Thảo
University of Connecticut at Farmington
Đa tạ.
NQT
Trên Blog NL có mấy cái còm về
chuyện GNV ưa xin lỗi!
Chắc là
do sự kiện, liên tiếp
GNV xin lỗi liền mấy lần.
[Mà lần nào xem ra cũng hơi kỳ kỳ, có thể nói
như thế?]
Một, nhà đại phê bình hải ngoại, và một, vị nữ bác sĩ.
Cả hai vụ xin lỗi này, đều có nguyên nhân của nó.
Trong
cái mail của vị nữ bác sĩ, có tới hơn một vấn nạn:
Cái chân lý 'chớ dây với hủi' của dân Mít, từ ngàn xưa để lại, nay sai
rồi!
Thứ nhất, bệnh hủi không có lây, tuy ngoài da.
Thứ nhì, ‘chớ dây với hủi’ còn hàm chứa chủ nghĩa ‘mặc kệ nó’, và là
nguyên
nhân đưa đến cơn băng hoại Mít hiện nay.
Thứ ba, 'chớ dây với hủi VC', cứ thủng thẳng đợi 35 năm là Thánh Khùng
Mít xuất
hiện, cứu dân Mít.
Còn nhiều lắm!
Cái cú xin lỗi kia, từ
ngày xửa ngày xưa, thì quả có vấn đề, còn lớn lao hơn nhiều, ít ra là
đối với GNV!
Bây giờ 'nhìn lại' nó, lại là một vấn đề, khác, nữa.
Ẩn tàng
trong cái mail
của vị nữ bác sĩ, là một lời trách cứ thật nặng nề, đúng như bà viết ra:
Bệnh hủi ở
ngoài
da và không liên hệ gì đến đạo đức của bệnh nhân.
Bà muốn biểu Gấu:
“Mi” dùng
từ hủi
như thế, là mi sỉ nhục những bệnh nhân hủi chứ không phải mi sỉ nhục
tụi đó đó!
Gấu đọc, toát mồ hôi, nhớ ngay
đến cái lần
đọc Steiner lần đầu, tại một thư viện Bắc Mỹ.
Lần đọc Steiner đó, là nguyên nhân chậm trả lời bài viết của NHQ, về
“có mấy
NQT?”, cách đây 9 năm [2002-2010]
Thường thì bệnh
nhân đi thăm bác sĩ, vậy mà GNV được bác sĩ ghé nhà thăm!
Lạ. Lạ hơn nữa, vị này coi bộ rành cả đạo cả đời cả y cả văn.
Cái mail làm Gấu nhớ tới bài viết dở dang về cuốn A
Burn-Out Case
của Greene.
Nhớ tới đề tài của nó, đúng ra, mối bận tâm của tác giả:
Greene is consumed with this idea of ending, in
particular with the paradox
of what is left after something has gone. This idea of the residual
is
symbolically rendered by the lepers' truncated arms and legs. When does
a limb
stop being a limb? Querry, in describing how he is finished with
architecture
and womanizing as well as religion, is constantly using such phrases as
'I have
come to an end of all that'; but every time he says such things it is
as if he
is emphasizing their persistence. A cognate of the word for 'end' in
Céline's
tide, bout, (1) seems useful here: Querry is always at the
'butt' of
faith, but it never quite burns down.
G. thì bị nung nấu bởi nghịch lý: cái gì còn, sau khi một điều gì đó đã
xong
đi.
Đọc câu trên, cùng lúc đọc, câu sau đây, của Steiner, trong bài viết
vinh danh
Solzhenitsyn, De Profundis, thì mới thật đã:
Every time a human being is
flogged, starved, deprived of self-respect,
a
specific black hole opens in the fabric of life.
Mỗi một khi con người bị hành hạ, bị bỏ đói, bị tước đoạt niềm tự
trọng, thì
một vết nhơ mở ra trong cấu trúc của cuộc đời.
(1) Voyage au bout de la nuit
Uncovering
Céline
Trong
một vài đường hướng,
cuốn tiểu thuyết có thể được đọc như một cuộc điều tra, về niềm tin
hậu-Ky tô,
một toan tính để nhìn coi xem, cái gì dấy lên từ tro than của thế kỷ
trứ danh về
cái sự độc ác của nó…
Trong một vài đường hướng,
trang Tin Văn có thể được đọc như là "… niềm tin hậu chiến Mít, một cái
gì
dấy lên từ
tro than của cuộc chiến trứ danh vì Cái Ác Bắc Kít của nó."!
Nhưng, biết đâu đấy, Ky Tô giáo đang lâm đại nạn tại nước Mít, là cũng
ứng vào cuộc "điều tra" này, của trang Tin Văn? (1)
(1) Nên
nhớ, bộ sách khổng lồ Gulag của
Solz. còn có một cái tiểu tít là 'một
cuộc điều tra có tính văn học...'.[ The Gulag Archipelago: An
Experiment in Literay Investigation, Một thử nghiệm trong điều tra văn
học…].
Biết đâu đấy, sau
khi Gấu đi rồi, một bạn
đọc Tin Văn download những
trang sách hổ lốn, chẳng biết đâu mà lần này, gỡ nó ra, sắp xếp lại,
thành một bộ sách khổng lồ có tên là Gulag
Mít hay cái gì đó tương tự?
*
Querry [nhân vật chính trong
A Burn-Out Case]:
Và cứ giả sử như chúng ta
chẳng
thể nào chịu nổi tình yêu? [But if we are incapable of love?]
Vị bác sĩ:
Tôi không tin có thứ người đó.
Tình yêu được trồng [planted] vào con người, ngay cả khi vô dụng
trong vài trường hợp, giống như tí ruột dư. Đôi
khi, tất nhiên, người ta còn gọi đó là hận thù.
Vậy mà tôi chẳng kiếm tí
nào,
cái món đó, ở trong tôi.
-Có thể vì ông kiếm một điều
gì đó, lớn lao hơn, quan trọng hơn, hay tích cực, năng nổ hơn, chăng?
Điều ông nói đó đối với
tôi có
vẻ như có mùi mê tín, như tổ tiên của chúng ta tin vào chúng.
Ai cần? [Who cares?] Chính là
nhờ mê tín mà tôi lần lữa sống. Còn một mê tín khác – không thể nào
chứng minh được
– Copernic có nó - rằng, trái đất quay quanh mặt trời. Nếu không có nó,
chúng
ta đâu có được cái vị trí như bây giờ, bắn hỏa tiễn lên mặt trăng. Làm
người là
phải đánh bạc với mê tín của mình [One has to gamble on one’s
superstitions].
Như Pascal đánh bạc với những mê tín của ông ta.
Ông là một người hạnh
phúc?
Tôi nghĩ, tôi hạnh phúc. Đó
không phải là câu hỏi mà tôi từng đặt ra cho tôi. Liệu một con người
hạnh phúc
hỏi họ một câu hỏi như thế? Tôi cứ tà tà sống, lần lữa sống.
Bơi theo dòng đời của
mình.
Q. mắt sáng rỡ vì thèm được như thế. Ông
có bao giờ cần đến một người đàn bà?
Người độc nhất mà tôi cần đến,
thì chết rồi.
Vì thế mà ông mò tới đây,
tới
trại cùi này ư?
Ông lầm rồi. Người đó được chôn
ngoài kia kìa. Đó là vợ tôi.
Ở trang
đầu, có một cái thư của
Greene gửi vị bác sĩ.
To Docteur Michel Lechat. TV
sẽ post trong kỳ tới.
Hơi giống Người Mỹ Trầm Lặng,
cũng có cái thư ở đầu cuốn
truyện.
Lâu
rồi, trên TLS có một bài
viết của vị bác sĩ này, viết về lần Greene ghé trại cùi đó. Bài thú vị
lắm, Vị
bác sĩ mô tả trại cùi, về sự thành lập của nó, về những gì mà G. không
biết về
nó. Tiếc quá, Gấu đọc xong, lại quẳng tờ báo vào cái đống báo, nay vô
phương kiếm
ra!
To
Docteur Michel Lechat.
Michel thân mến,
Tôi
hy vọng ông chấp nhận lời đề tặng cuốn tiểu thuyết này, nhờ lòng
thân ái,
và sự cần cù, kiên nhẫn của ông, mà có được; những lỗi lầm, thất bại,
không chính
xác, hẳn có, là của tác giả cuốn sách. Dr. Colin vay muợn từ ông, kinh
nghiệm
về bệnh cùi, và chỉ có vậy. Bệnh cùi của Dr. Colin thì cũng không phải
của ông
- mà bây giờ tôi sợ rằng không còn -
To
Docteur Michel Lechat
Dear Michel,
I hope you will accept the
dedication of this novel which owes any merit it may have to your
kindness and
patience; the faults, failures and inaccuracies are the author's alone.
Dr
Colin has borrowed from you his experience of leprosy and nothing else.
Dr
Colin's leproserie is not your leproserie which now, I fear, has
probably
ceased to exist. Even geographically it is placed in a region far from
Yonda.
Every leproserie, of course, has features in common, and from Yonda and
other
leproseries which I visited in the Congo
and the Cameroons I may have taken
superficial
characteristics. From the fathers of your Mission
I have stolen the Superior's
cheroots - that is all, and from your Bishop the boat that he was so
generous
as to lend me for a journey up the Ruki. It would be a waste of time
for anyone
to try to identify Querry, the Ryckers, Parkinson, Father Thomas - they
are
formed from the flotsam of thirty years as a novelist. This is not
a roman à
clef, but an attempt to give dramatic expression to various
types of belief,
half-belief, and non-belief, in the kind of setting, removed from
world-politics and household-preoccupations, where such differences are
felt
acutely and find expression. This Congo is a region of the
mind, and
the reader will find no place called Luc on any map, nor did its
Governor and
Bishop exist in any regional capital.
You, if anyone, will know how
far I have failed in what I attempted. A doctor is not immune from
'the long
despair of doing nothing well', the cafard
that hangs around a writer's life. I only wish I had dedicated to
you a
better book in return for the limitless generosity I was shown at Yonda
by you
and the fathers of the Mission.
Affectionately yours,
Graham Greene
Trên
đây là cái thư gửi vị bác
sĩ trại cùi của Greene. Nó có cái gì giống thư mở ra Người
Mỹ trầm lặng, có thể chỉ như là một cái cớ, a pretext, để móc
tác phẩm của ông vào thực tại, theo nghĩa câu của Hans Andersen, mà
Greene cũng
mượn, để mở ra tác phẩm The Human Factor
của ông, ‘out of reality are our tales of imagination fashioned’: dù
tưởng tượng
thế nào thì những giả tưởng của chúng ta đều chui ra từ thực tại.
Gấu tôi tự hỏi, tại sao trong
nước không mê, và ít ai dịch Greene trong khi ông mê Miền Nam
của Mít bội phần, hơn cả… PXA.
Hơn nhiều!
Trong cái thư trên, cái câu Gấu
gạch dưới, tuyệt cú mèo, và có thể, lại ‘có thể’, nó giải thích cái
mail của vị
nữ bác sĩ gửi cho TV: ‘Một vị bác sĩ thì cũng không được miễn nhiễm bởi
cái
chuyện quá chán chường vì cứ ì ra không làm bất cứ chuyện gì cho ra
hồn’.
Đó là cơn “cafard” đeo ngay ở
cổ một thằng cầm viết, lẵng nhẵng suốt đời làm khổ nó.
To
Dr
Ngo Phuong Thao,
....
Affectionately yours,
Trân trọng,
NQT
Cuốn sách ưa
thích của ông là cuốn gì?
Ruồi
Trâu. Tôi
tự
dịch lại
cuốn sách đó vài năm trước. Tôi vẫn muốn tự dịch cuốn sách đó từ những
năm 20
tuổi nhưng khi đó tôi chưa đủ sẵn sàng.
Nguồn: Hội ngộ văn chương
Đây là nguyên văn 10 Questions for Haruki
Murakami
What's your favorite book?
Sarosh
Shaheen Ottawa, Canada
The Great
Gatsby. I
translated it a couple of years ago. I wanted to translate it when I
was in my
20s, but I wasn't ready.
Cuốn sách
gối đầu giường
của ông?
Gatsby vĩ đại (1). Cách đây mấy năm
tôi đã dịch nó. Tôi muốn dịch
nó từ những năm đôi mươi của mình, nhưng lúc đó tôi chưa
sẵn sàng.
Của
Mẽo mà thành
của Liên Xô. Thế mới ghê!
DTL vs GNV
Vụ
Án
Cái khổ
của nhà phê bình
không đến từ các nhà văn, nhà thơ hay độc giả mà chủ yếu đến từ những
kẻ tưởng
mình đã là nhà văn, đã là nhà thơ và, do đó, tự cho mình cái quyền được
hưởng…sự trầm trồ khen ngợi.
Trước cái quyền ấy, ai không
khen thì đều có tội.
NHQ. Blog VOA
Đọc bài
mới viết này, thấy giọng
rất cay cú, hình như Người đang bực bội một tay nhà văn nào đó!
Tuy nhiên, cái nhìn nhà phê bình,
như một kẻ khen chê tác phẩm, một ngự sử văn đàn, đại khái như vậy, xưa
quá rồi.
Nhà phê bình, đúng ra, là nhà
văn, và phải là nhà văn.
Bắt buộc như vậy.
Có điều, ông ta là nhà văn ‘khác’
với nhà văn bình thường khác!
Đây là phát hiện của Roland
Barthes. Hay là nhà phê bình chưa từng đọc Roland Barthes nên không
biết điều đó?
‘out of
reality
are our tales of imagination fashioned’: dù tưởng tượng thế nào thì
những giả
tưởng của chúng ta đều chui ra từ thực tại.
Câu trên của Hans
Andersen, Greene dùng nó như là một đề từ để mở ra cuốn The
Human Factor của ông.
Gấu này, cũng đã
lần sử dụng hình ảnh Tôn Ngộ Không câu đẩu vân ta bà thế giới, tè
bậy một phát ở kẽ núi Ngũ Hành, hóa ra là vẫn quanh quẩn trong lòng bàn
tay
Phật.
Có một
thứ chủ
nghĩa hiện thực hết thời, là hiện thực xã hội chủ nghĩa, thứ đồ dởm
chuyên tô hồng
thực tại.
Coetzee, trong
bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga
Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là đã "đặt một
cái
dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm
được vậy,
theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho văn học Nga cái chất quí hiếm mà
nền kỹ
nghệ văn hóa Xô Viết, nhân danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng
rác: Thân
phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic
perception of life.
Ở
Việt Nam, nhiều người, nhất là
những người thân với chính quyền, thường tiếp tục bênh vực cho chủ
nghĩa hiện
thực.
NHQ,
Blog VOA
Cái chủ
nghĩa mà những người “thân với chính quyền” bênh vực này là chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa, không mắc mớ gì tới chủ nghĩa hiện thực của
những
bậc thầy như Balzac, thí dụ.
Hiện thực thần kỳ, quái đản, biểu hiện… thì vẫn là [chủ nghĩa] hiện
thực.
Giả như hiện thực chủ nghĩa lỗi thời, thì, không chỉ lỗi thời mà là cáo
chung
luôn cả con người lẫn thực tại!
GNV thực sự tin rằng, chưa bao giờ trong nước cần tới chủ nghĩa
hiện thực
như lúc này.
Nó, chính nó, mới ghi nhận đích thực xã hội hiện tại, ba thứ khác, chỉ
là đánh
lừa độc giả!
Nhất là cái thứ chủ nghĩa hậu hiện đại!
*
Nói đến chủ nghĩa hiện thực, mà bỏ qua Georg
Lukacs
thì thật.. uổng. Nhà phê bình của chúng ta, thực sự không đọc nhiều, vả
như đọc
nhiều, thì theo kiểu tứ lung tung, thứ nào cũng ba chớp ba nhoáng,
thành ra
chẳng đi sâu vào bất cứ một tác giả, một trường phái, rồi viết ẩu, phán
nhảm.
Ngay mấy vị độc giả quen thuộc của Người, đọc bài viết chủ nghĩa hiện
thực lỗi
thời, cũng chẳng hiểu Người tính nói gì!
GNV đọc Lukacs từ hồi mới
tập tạnh viết phê bình, điếc không sợ súng là vậy,
nhưng bài viết Đọc
BL 1973
Văn là từ Lukacs mà ra. DT, ông chánh tổng An Nam ở Paris thích bài
này lắm!
Để tưởng nhớ ông, và tưởng
nhớ chủ nghĩa hiện thực đã lỗi thời, TV sẽ giới
thiệu một bài viết thật trứ danh về ông, của Steiner, được dùng làm bài
tựa cho
cuốn Chủ nghĩa hiện thực trong thời của chúng ta, Realism in our
time.
|
|
Nhưng mà Ruồi Trâu thì cũng là của một nữ văn sĩ Anh chứ cũng có phải của "Liên Xô" đâu.