|
Paris
1999
LUXEMBOURG
GARDENS
Parisian
apartment houses fear neither wind nor
imagination-
they're
solid paperweights,
the
antithesis of dreaming.
White boats
race the river, packed with crowds
demanding
greetings from the shore-bound;
their
champagne mood liquidates the past.
A pair of
wealthy tourists emerges from a cab
in gleaming
outfits; waiters serve them
wearing
frock coats whose cut is untouched by fashion.
But the
Luxembourg Gardens grow empty now,
and become a
vast, quiet herbarium;
they don't
recall all those who once
strolled
their avenues, who haven't noticed that they're dead.
Mickiewicz
lived here, and over there August Strindberg
sought the
philosopher's stone
he never
found.
Dusk falls.
Sober night approaches from the east,
taciturn and
troubled.
Night comes
from Asia, and asks no questions.
Foreignness
is splendid, a cold pleasure.
Yellow
lights illuminate the windows on the Seine
(there's the
real mystery: the life of others).
I know-the
city no longer holds secrets.
But there
are plane trees, squares, cafes, friendly streets,
and the
bright gaze of clouds that slowly dies.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Vườn Lục Xâm
Bảo
Những căn nhà
chia thành hộ ở Paris thì không sợ gió cũng như là sự tưởng tượng –
Chúng làm bằng
1 thứ giấy dày, cứng, nặng.
Phản đề của
mộng mị
Những con
thuyền trắng chạy đua trên sông, đám đông đầy trên thuyền
Đòi đám đứng
bên bờ bãi chào mừng, cổ võ;
Vị sâm banh
làm thịt quá khứ
Một cặp du
khách phọt ra từ tắc xi
Mặt mày, quần
áo, bộ dạng sáng sủa; đám bồi,
trong những chiếc áo choàng không hề bị
thời trang
làm thay đổi,
hầu họ.
Nhưng Vườn
LXB bây giờ ngày càng trống trơn
Và trở thành
một phòng trồng cây, rộng lớn, im ắng
Chúng chẳng
hề nhớ những người mà đã có lần thong thả đếm những đại lộ của chúng
Những con
người chẳng hề để ý, chúng đã chết
Mickiewicz
đã
sống ở đó,
và ở chỗ kia kìa, August Strindberg đã từng tìm hòn đá triết
gia
Nhưng
đếch làm
sao kiếm thấy!
Chạng vạng rớt
xuống. Đêm khiêm tốn tới gần, từ Phương Đông, lầm lì, và bối rối.
Đêm tới từ Á
Châu, không tra hỏi.
Cái tính ngoại
thì thật là tuyệt vời, một lạc thú lạnh.
Ánh sáng màu
vàng chiếu sáng những khung cửa sổ trên sông Seine.
(niềm bí
ẩn thực: cuộc sống của những người khác).
Tôi biết –
thành phố chẳng còn giữ những bí ẩn.
Nhưng có những
cây bào, những quảng trường, quán cà phê, những con phố bạn bè,
và cái nhìn sáng
ngời của những đám mây,
chầm chậm chết.
FIRST
COMMUNION
GLIWICE,
PIRAMOWICZ STREET
Dark gray
houses and triangular bay windows,
near a
little park with German statues
(pseudo-baroque
from the thirties).
Mrs. Kolmer
took my picture there
right after
my First Communion
against the
backdrop of a freshly laundered sheet:
I'm that
chubby child. Earnest,
upright,
candle in hand.
I'm a
beginning Catholic,
who
struggles to tell good from evil,
but doesn't
know what divides them,
especially
at dawn and dusk, when
for a long
moment the light wavers.
The poplar
leaves in the garden are black,
the light is
black, the homes are black,
the air's
transparent, only the sheet is white.
Color photos
will come later
to mute the
contrasts and perhaps permit
an ordinary
life, splendid holidays,
even a
second communion.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Rước Lễ Lần Đầu
Những ngôi
nhà xám, tối và những cửa sổ hình tam giác rực rỡ
gần một công
viên nhỏ với những bức tượng Đức
(giả-baroque
từ thập niên 1930).
Bà Kolmer chụp
hình tôi ở đó
ngay sau Lễ Rước Lần Đầu của tôi
trên cái nền
là một tấm vải mới giặt
Tôi là đứa
trẻ mũm mĩm đó. Hớn hở,
đứng thẳng,
tay cầm ngọn nến.
Tôi là một đứa
trẻ Ky Tô tân tòng
chiến đấu để
rạch ròi tốt xấu
nhưng lại
không làm sao biết cái gì chia chúng ra
nhất là vào
lúc rạng đông và hoàng hôn, khi,
một lúc thật
lâu, ánh sáng run rẩy.
Những chiếc
lá bạch dương ở ngoài vườn thì đen
ánh sáng thì
đen, những căn nhà thì đen
không khí
trong suốt, chỉ tờ giấy thì trắng.
Hình màu sau
mới có
để làm giảm
đi những tương phản và có lẽ, để cho phép
một cuộc đời
bình thường, những ngày nghỉ lễ tuyệt vời
ngay cả một
lễ rước lần thứ nhì.
TWO DROPS
No time to grieve for
roses, when the
forests are burning.
-JULlUSZ
SLOWACKI
The forests
were on fire-
they however
wreathed
their necks with their hands
like
bouquets of roses
People ran
to the shelters-
he said his
wife had hair
in whose
depths one could hide
Covered by
one blanket
they
whispered shameless words
the litany
of those who love
When it got
very bad
they leapt
into each other's eyes
and shut
them firmly
So firmly
they did riot feel the flames
when they
came up to the eyelashes
To the end
they were brave
To the end
they were faithful
To the end
they were similar
like two
drops
stuck at the
edge of a face
Zbigniew
Herbert : Chord of Light
1956
Hai giọt
Làm gì có thời
gian để mà than khóc những bông hồng, khi rừng đang cháy
-JULlUSZ
SLOWACKI
Rừng đang cháy
–
Tuy nhiên họ
vòng tay ôm cổ
Như những
bó hồng
Mọi người chạy
vô hầm trú ẩn –
Anh ta nói,
vợ tôi tóc dầy thật dầy và tôi có thể ẩn náu ở trong đó
Trùm 1 tấm mền
Họ thì thầm những
lời chẳng hổ thẹn
Lời kinh của
những kẻ yêu nhau
Khi tình trạng
trở nên quá tệ
Họ nhẩy vô mắt
nhau
Và đóng chặt lại
Đóng chặt,
họ không cảm thấy ngọn lửa
Khi họ trườn
lên tới mi mắt
Tới chót, họ
thật can đảm
Tới chót, họ
thật thương nhau
Tới chót họ
giống như hai giọt
Dính ở cuối
mặt
This poetry
is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty
of an
inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact
that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense
of
humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về
nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của
thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự
kiện, cùng
lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, của cái cảm quan
cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình
– thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.
Adam
Zagajewski: Introduction
(Translated
by Bill Johnston)
Miền Nam trước
1975 có "Đồng Nai Tam Kiệt", là TTT, BG,
TTY
Ba Lan cũng
có Tam Kiệt. Hai trong Ba Kiệt [đừng lộn với anh chàng chăn trâu học
lớp 1 lên
làm Thủ Tướng VC], đợp Nobel văn chương, là Czeslaw Milosz và Wislawa
Szymborska.
Kiệt thứ ba, là Zbigniew Herbert. Bài “Intro" của Adam Zagajewski thật
tuyệt.
Trên TV đã
giới thiệu bài của ông viết về thơ trí tuệ của Milosz.
Nay xin đi thêm 1 đường Herbert.
Trân trọng đón coi.
Tưởng
Niệm
Czeslaw Milosz [1911-2004]
Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam
Zagajewski
Our Coverage
of Sandy
A Poem for
the Sandy Aftermath
Into the Ark
An endless
rain is just beginning.
Into the
ark, for where else can you go,
you poems
for a single voice,
private
exultations,
unnecessary
talents,
surplus
curiosity,
short-range
sorrows and fears,
eagerness to
see things from all six sides.
Rivers are
swelling and bursting their banks.
Into the
ark, all you chiaroscuros and half-tones,
you details,
ornaments, and whims,
silly
exceptions,
forgotten
signs,
countless
shades of the color gray,
play for
play’s sake,
and tears of
mirth.
As far as
the eye can see, there’s water and hazy horizon.
Into the
ark, plans for the distant future,
joy in
difference,
admiration
for the better man,
choice not
narrowed down to one of two,
outworn
scruples,
time to
think it over,
and belief
that all this
will come in
handy someday.
For the sake
of the children
that we
still are,
fairy tales
have happy endings.
That’s the
only finale that will do here, too.
The rain
will stop,
the waves
will subside,
the clouds
will part
in the
cleared up sky,
and they’ll
be once more
what clouds
ought to be:
lofty and
rather lighthearted
in their
likeness to things
drying in
the sun—
isles of
bliss,
lambs,
cauliflowers,
diapers.
Wislawa Szymborska
Một bài thơ
cho Hậu Sandy
Vô Noé
Cơn mưa khôn
cùng chỉ mới bắt đầu.
Vô Noé, chứ đi
đâu bây giờ,
Những bài thơ chỉ để cho 1 giọng của bạn
Nỗi vui riêng,
Tài năng không
cần thiết
Tò mò thặng
dư
Buồn lo thoáng
chốc
Hăm hở nhìn
đời từ bốn phương tám hướng
Sông tức nước
vỡ bờ
Vô Noé, tất
cả những nửa giọng, sáng tối, tương phản,
Chi tiết, hoa
hòe hoa sói, đột khởi,
Ngoại lệ dớ
dẩn
Những tín hiệu
bỏ quên
Những muôn vàn
màu xám
Kịch chỉ vì
kịch,
Và những giọt
nước mắt của sự nô đùa.
Cho dù mắt của
bạn nhìn xa tới cỡ nào
Thì cũng trên màn trời, dưới chiếu nước,
Và chân trời mờ mịt, không biết đâu là trời, đâu
là nước
Vô Noé, những
chương trình cho tương lai xa vời
Niềm vui của
sự khác biệt,
Chiêm ngưỡng
1 chàng trai bảnh hơn
Sự chọn lựa đâu
chật hẹp về một, hay hai người
Những đắn đo
quá đát
Đây là lúc để
mà nhận ra, xong xuôi hết cả rồi
Và cũng là lúc
để tin tưởng
Tất cả sẽ trở
lại một ngày nào đó, trong tầm tay
Vì tương lai
sự nghiệp của thế hệ mai sau
Vì những đứa
trẻ
Mà chúng ta
vưỡn có mặt ở trên cõi đời này
Những câu
chuyện cổ tích, thần tiên thì đều có hậu.
Mà nó là ngày
hôm nay
Mưa sẽ ngưng
Sóng sẽ ngừng
Mây sẽ trôi đi,
trôi đi,
[Mây bay đi, như thi sĩ NS phán]
Và bầu trời
sẽ sáng lạn
Và sẽ có một
ngày, mây bảnh hơn lúc này
Như nó phải
là:
Nhẹ như tơ
trời
dưới ánh nắng
-
những hòn đảo
của niềm vui
những con cừu
ngây thơ
những bông cải
những tã lót
Note:
Vợ chồng
Gấu đã ngồi trên con thuyền Noé này rồi. Đúng ngày cưới!
Trên thuyền
chỉ chứa toàn khổ đau, không phải chỉ cho hai, mà là ba! (1)
RETURN TO
ACHZIV
Every year
we come back here, to Achziv,
every year
at this appointed time, as in the Bible, we
return to
the house where we were together years back, the
house
destroyed
entirely,
and in its place a lovely field of grass above the
shoreline.
But we
return to
the house and still go up the stairs, our legs in
motion,
and we duck
our heads to keep from hitting the low lintel
that is not
there, the bowing and the bending of the heads
like a
wondrous ceremony.
This, too,
is the beginning of a new religion.
- Yehuda
Amichai
(Translated,
from the Hebrew, by Bernard Horn.)
The New
Yorker, Sept 30, 2002
Trở lại
Achziv
Năm nào chúng
tôi cũng trở lại nơi này, trở lại Achziv
Năm nào cũng
vậy đúng vào thời điểm đã được đánh dấu, như trong Thánh Kinh,
chúng tôi trở lại
căn nhà nơi chúng tôi đã cùng sinh sống, trú ngụ, những năm trở về trước
Căn nhà đã bị
thiêu hủy hoàn toàn
Và chỗ là căn
nhà ngày nào thì bi giờ là một đồng cỏ thật đáng yêu, cao hơn mặt biển.
Nhưng chúng tôi trở về nhà,
và vẫn lên những cầu thang,
chân chúng tôi vẫn chuyển động,
và cúi đầu tránh đụng
vô cái rầm nhà thấp, bi giờ đâu còn nữa,
chúng tôi cúi đầu, nghiêng đầu như
trong những buổi tế lễ thần kỳ.
Thì cái cú
trở về như thế, chẳng phải là 1 nghi lễ tôn giáo ư?
Một khởi đầu
của một tôn giáo mới
Yehuda
Amichai
[Bernard
Horn dịch từ tiếng Do Thái]
Note: W.S
Merwin cũng Poet Laureate Mẽo, như Charles Simic. Gấu đọc ông trên The New
Yorker, NYRB, bữa nay
bệ về. Thơ bảnh lắm. Từ từ Gấu giới thiệu trên
TV.
Cuốn của
Kurt Vonnegut, chỉ nội cái tít là đã mê rồi. Nó chửi bố bài thơ “Quê
hương mỗi
người có một, nếu ai không có thì đếch phải là người”!
Sự thực Gấu mua, là vì đọc 1 bài trên Guardian,
trong série “Người hùng
của tôi”,
“My Hero”, mê quá, bèn tậu về. Trước giờ chưa đọc ông này. Cũng tuyệt
lắm, có rất
nhiều trang nhắc tới xứ Mít, cuộc chiến Mít.
by Alison Moore
'His dark
stories are so full of love and acceptance, as well as wit'
Khi
tôi đọc
KV lần đầu, tôi hai mươi tuổi, và đang quậy thực quậy ở 1 đại học. Khi
KV 20 tuổi
thì ông ở giữa cuộc Đệ Nhị Chiến và là 1 người lính; 21 tuổi, ông đi
phép về
thăm Mẹ, vào Ngày Của Mẹ, để biết rằng thì là, mẹ của ông tự tử đúng
ngày hôm
trước; 22, ông tù binh chiến tranh ở Dresden và chứng kiến thành phố ăn
bom (1)
TO MONDAY
Once you arrive it is plain
that you do not remember
the last time
you are always
like that
insisting upon
beginning
upon it all beginning
over again
as though nothing had really happened
as though beginning
went on and on
as though it were everything
until it had begun
you never know who you are
the hands of the clock find you
and keep going
without recognition
though what your light
reveals when it rises
wakes from another time
which you appear to have forgotten
traveling all that way
blank and nowhere
before you came to be
with the demands
that you bring with you
from the beginning
each time it is
as though you were the same
or almost
oh unrepeatable one
needing nothing yourself
and not waiting
-W. S. Merwin
NYRB 11 Oct, 2012
Bài thơ này, có trong Present Company, [dịch nhảm, Bạn quí bữa
nay]
Gấu gom ba bài, để tặng SN Gấu (1).
Bây giờ,
là
tập thơ.
Đọc bài thơ,
thì có cảm giác nghe bản nhạc PD, "Xin cho đi lại từ đầu", và Gấu đã
từng can Ông Giời, đừng, đừng, cho ông ta đi lại từ đầu, là còn khối em
khổ!
Hà, hà!
Bài thơ, tưởng
dễ hiễu, dễ dịch qua tiếng Mít, nhưng cực khó.
Gấu loay hoay mấy lần, thấy
chẳng ra cái chó gì, bèn, thua.
Love in
a mist
Yêu trong sương mù
In May 1904, Guillaume
Apollinaire crossed the Channel in pursuit of Annie Playden, an English
governess (see right). He stayed with an Albanian friend in the London suburb of Chingford, near Epping Forest. He had first come to woo Annie
the previous autumn,
staying at 3 Oakley
Crescent,
off the City Road,
not far from Angel, Islington. The house still stands, though it is
known only
to devoted Apollinaireans. Last week, we went for the first time to
look at the
even more obscure Chingford residence, 36 Garfield Road. Would it be a
worthwhile monument to the first great avant-garde poet of the
twentieth
century? According to Leonard Davis of the Chingford Historical
Society, a
plaque was proposed in 1980 but never materialized.
We regret to say it is just
as well. Garfield Road
- named after the American president James Garfield, assassinated in
1881 - is
a dismal assortment of small ugly houses, with a huge vacant lot in the
centre.
No 36, modernized out of recognition, had blinds drawn, preventing us
peeping
into Apollinaire's living room. The expedition's sole mo1hent of cheer
occurred
as we returned to the railway station, where we spotted an oblong
Victorian
pillar box built into the wall. It was surely used by Apollinaire to
post letters
to Annie. His vain courting became the subject of one of his most
famous poems,
"La Chanson du mal-aimé" (Song of the poorly loved):
One foggy night in London town
A hoodlum who resembled so
My love came marching up to
me -
The look he threw me caused
my eyes
To drop and made me blush
with shame.
Annie is also memorialized,
kaleidoscopically, in "LeӃmigrant
du Landor Road". Of Chingford,
however, the poet left hardly anything besides his pleasure in watching
the
golfers on the nearby Links.
A single publication is
dedicated to the English adventure: One
Evening of Light Mist in London by John
Adlard,
little more than a pamphlet, published by Tragara Press in an edition
of l45.
We located a copy at the Fortune Green Bookshop, a mysterious operation
which
has a shop front in West Hampstead
but is
closed to the public. On request, however, the proprietor kindly agreed
to open
up for us, and one evening of light mist we made our way there to take
possession of the book: mint, numbered 26, a steal at £10.
*
Trên TV, độc giả đã từng
'chứng kiến' 'anh cu Gấu' chạy theo BHD nơi cổng trường Đại Học Khoa
Học Sài Gòn.
Chưa ghê bằng Apollinaire,
tác giả câu thơ mà GNV thuổng, "Ouvrez-moi cette porte où je frappe en
pleurant", còn là tác giả Mùa Thu Chết, và còn là tác giả của cái cú
chạy
theo em nữ quản gia, suốt con kênh nối liền Pháp và Anh, để năn nỉ.
Thua, và bèn làm bài thơ trên,
nguyên tác tiếng Tây, GNV sẽ lục tìm, và dịch sau…
[Hình, TLS Oct 1, 2010]
La Chanson du Mal-Aimé
À Paul
Léautaud.
Et je chantais cette romance
En 1903 sans savoir
Que mon amour à la semblance
Du beau Pheénix s'il meurt
un
soir
Le matin voit sa
renaissance.
Ta hát
bài
tình ca này vào năm 1903
Không biết rằng
Tình ta giống như loài Phượng Hoàng
Chết buổi
chiều,
Và tái sinh
sáng ngày hôm sau.
Un soir de demi-brume à Londres
Un voyou qui ressemblait à
Mon amour vint à ma
rencontre
Et le regard qu'il me jeta
Me fit baisser les yeux de
honte
[Note: Bài
thơ dài, đây là khổ đầu. TV sẽ post trọn bài, sau]
Source
Signe
Je suis
soumis au Chef du Signe de l'Automne
Partant
j'aime les fruits je déteste les fleurs
Je regrette
chacun des baisers que je donne
Tel un noyer
gaulé dit au vent ses douleurs
Mon Automne éternelle
ô ma saison mentale
Les mains
des amantes d'antan jonchent ton sol
Une épouse
me suit c'est mon ombre fatale
Les colombes
ce soir prennent leur dernier vol
Dấu Hiệu
Ta nằm dưới
dấu hiệu của Trưởng Lão Mùa Thu
Lên đường,
ta thích trái cây và ghét bông hoa
Ta tiếc nuối
những nụ hôn ban phát cho người
Như cây sồi
bị vặt trụi lá than thở với gió
Những nỗi đau
của nó
Ôi Mùa Thu
thiên thu của ta ơi, ôi mùa sầu não
Những bàn
tay người tình ngày nào phủ lên mặt đất của mi
Một bà vợ lẽo
đẽo như cái bóng oan nghiệt của ta
Những con bồ
câu buổi chiều cất cánh lần chót.
L'Adieu
J'ai cueilli
ce brin de bruyère
L'automne
est morte souviens-t'en
Nous ne nous
verrons plus sur terre
Odeur du
temps brin de bruyere
Et
souviens-toi que je t'attends
VĨNH
BIỆT
Ta ngắt đi một
cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho
mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ
không tương phùng được nữa
Mộng trùng
lai không có ở trên đời
Hương thời
gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé
ta đợi chờ em đó...
BÙI GIÁNG
Happy
Birthday GCC
Thơ Mỗi Ngày
THE
THINKER
AS POET
(Am der
Erfahrung des Denkens)
Pain gives
of its healing power
where we
least expect it.
He who
thinks greatly must
err greatly.
Note: Theo
GCC, cuốn này bảnh nhất của “Thầy của Thầy Đạo”!
GCC tin rằng Thầy Đạo
chưa từng
đọc cuốn này!
Bởi vì nếu đọc,
là trở nên khiêm tốn như “Thầy của Thầy” liền, như khi ông mần thơ:
Nỗi đau ban sức mạnh chữa
trị của nó, khi chúng ta ít chờ đợi nhất
Hay,
Suy nghĩ lớn, lầm lạc lớn
Câu này, chắc là “sám hối”, sau cú nhận làm quân sư cho Nazi.
Hầu hết những
bài trong này, thì được in trong “Những con đường chẳng đưa tới đâu”,
"Chemins
qui ne mènent nulle part", trừ “Thơ” của Heidegger, Giáo Chủ Hiện Sinh.
Bài viết
về “Ngôn ngữ” cũng thần sầu.
Heidegger đã đánh dấu [thổi]
tác phẩm
của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào, nàm sao mà 1 triết
gia bảnh
tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân phò Hitler? Đúng là 1
lời thú
nhận sự bất lực về mặt triết học!
Paul Ricoeur:
Văn hoá như tôi
biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng
chống sự man rợ. Một xứ sở với 1 nền văn minh đỉnh cao chói lọi như
Đức, vậy mà
ngập chìm trong tủi nhục, và đó là 1 thí dụ nhức nhối, đau thương.
Nhưng tôi
chưa bao giờ buộc tội Heidegger, như là 1 triết gia. Chỉ điều này,
triết học
của ông không sản sinh ra cả đạo đức lẫn chính trị, và gây ra ở trong
ông ta,
vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí thức, và điều này được biểu lộ ra bằng
sự bất
lực của ông khi không thể tiếp tục Hữu
thể và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ
rằng, có
thể làm đầy bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của
lịch sử,
cha già của dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng
hãy minh
bạch 1 điều, Hữu thể và Thời gian
không phải là 1
cuốn sách Nazi, nó là, và đây là sự khác biệt rất ư
khác biệt, một tác phẩm
không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi. Trong khi đó, Karl
Jaspers,
ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì triết học của ông sản
sinh ra một
nền đạo hạnh và chính trị học. (1)
THE
THINKER
AS POET
(Am der
Erfahrung des Denkens)
Pain gives
of its healing power
where we
least expect it.
He who
thinks greatly must
err greatly.
Note: Theo
GCC, cuốn này bảnh nhất của “Thầy của Thầy Đạo”!
GCC tin rằng Thầy Đạo
chưa từng
đọc cuốn này!
Bởi vì nếu đọc,
là trở nên khiêm tốn như “Thầy của Thầy” liền, khi H mần thơ:
Nỗi đau ban sức mạnh chữa
trị của nó, khi chúng ta ít chờ đợi nhất
Hay,
Suy nghĩ lớn, lầm lạc lớn
Câu này, chắc là “sám hối”, sau cú nhận làm quân sư cho Nazi.
Hầu hết những
bài trong này, thì được in trong “Những con đường chẳng đưa tới đâu”,
"Chemins
qui ne mènent nulle part", trừ “Thơ” của Heidegger, Giáo Chủ Hiện Sinh.
Bài viết
về “Ngôn ngữ” cũng thần sầu.
Why The Classics
1
in the
fourth book of the Peloponnesian War
Thucydides
tells among other things
the story of
his unsuccessful expedition
among long
speeches of chiefs
battles
sieges plague
dense net of
intrigues of diplomatic endeavours
the episode
is like a pin
in a forest
the Greek
colony Amphipolis
fell into
the hands of Brasidos
because
Thucydides was late with relief
for this he
paid his native city
with
lifelong exile
exiles of
all times
know what
price that is
2
generals of
the most recent wars
if a similar
affair happens to them
whine on
their knees before posterity
praise their
heroism and innocence
they accuse
their subordinates
envious
colleagues
unfavourable
winds
Thucydides
says only
that he had
seven ships
it was
winter
and he sailed
quickly
3
if art for
its subject
will have a
broken jar
a small
broken soul
with a great
self-pity
what will
remain after us
will it be
lovers' weeping
in a small
dirty hotel
when
wall-paper dawns
Zbigniew
Herbert
WHY THE
CLASSICS
I CHOSE THIS
POEM after some hesitation. I do not consider it the best poem I've
written,
nor is it one that can represent my poetic program. I think it does
have two
virtues: it is simple, dry, and it speaks of matters that are truly
close to my
heart, without superfluous ornament or stylization.
The poem has
a three-part structure. In the first part, it speaks of an event taken
from the
work of a classical author. It is, as it were, a note on my reading. In
the
second part I transfer the event to contemporary times to elicit a
tension, a
clash, to reveal an essential difference in attitude and behavior.
Finally, the
third part contains a conclusion or moral, and also transposes the
problem from
the sphere of history to the sphere of art.
You don't
have to be a great expert on contemporary literature to notice its
characteristic feature-the eruption of despair and unbelief. All the
fundamental values of European culture have been drawn into question.
Thousands
of novels, plays, and epic poems speak of an inevitable annihilation,
of life's
meaninglessness, the absurdity of human existence.
I don't mean
to subject pessimism to easy ridicule if it is a response to evil in
the world.
However, I think that the black tone of contemporary literature has its
source
in the attitude its writers take to reality. And that is what I tried
to attack
in my poem.
The Romantic
view of the poet who bares his wounds, relates his own misfortunes,
still has
many supporters today, despite changes in style and literary taste. It
is
universally held that the artist has a sacred right to ostentatious
subjectivism, to a display of the tender “I”.
If a school
of literature existed, one of its basic exercises should be the
description not
of dreams but of objects. Beyond the artist's reach, a world
unfolds-difficult,
dark, but real. One should not lose the faith that it can be captured
in words,
that justice can be rendered it.
Very early
on, near the beginning of my writing life, I came to believe that I had
to
seize on some object outside of literature. Writing as a stylistic
exercise
seemed barren to me. Poetry as the art of the word made me yawn. I also
understood that I couldn't sustain myself very long on the poems of
others. I
had to go out from myself and literature, look around in the world and
lay hold
of other spheres of reality.
Philosophy
gave me the courage to ask primary questions, fundamental, basic
questions:
does the world exist, what is its essence, and can it be known? If this
discipline can be made useful to poetry it is not by translating
systems but by
recreating the drama of thought.
I do not
turn to history to draw from it an easy lesson of hope, but to confront
my
experience with that of others, to acquire something I might all
universal
compassion, and also a sense of responsibility, responsibility for the
state of
my conscience.
It is an old
dream of poets that their work may become a concrete object like a
stone or a
tree, that what they make from the material of language-itself subject
to
constant change-may acquire a lasting existence. One of the ways to
achieve
this, it seems to me, is to cast it far away from oneself, to erase the
ties
that connect it to its creator. This is how I understand Flaubert's
recommendation: "The artist must be in his work as God is in nature."
1966?
Zbigniew
Herbert: The Collected Prose
1948-1998
Mùa Cổ Điển,
Tại Sao?
Tôi chọn bài thơ trên, sau tí ti ngần ngừ.
Tôi không nghĩ, đây là bài thơ bảnh
nhất của mình, và cũng không tin, nó nói lên mình, cái cuộc thơ của
mình. Tôi
chọn, vì nó có hai đức hạnh [không được tới ba, như anh VC Bô Xịt] (1):
Nó
đơn
giản, khô, và nó nói về những thứ gần gụi với trái tim của tôi không
chút kênh
kiệu, màu mè, cà chớn, xì tin.
Ngẫm
nghĩ về ba tư cách văn hóa của tôi trong những ngày làm việc ở William
Joiner
Center. (1)
Thành phố
St. Pertersburg có một biển, một trăm lẻ một hòn đảo, và những
con sông dài vô tận. Vô phương đếm: Bầu
trời là nguồn của con sông quan trọng nhất – mưa. Mưa ngập tràn những
con kênh thành phố; nó làm sũng những tòa biu đinh, những con vườn, mặt
đất,
và những
cục sỏi, những viên đá. Suốt mùa hè, mọi mùa hè, nó rơi rỉ rả, nhẹ như
mơ, hoặc
như thác. Lâu lâu, có những khúc nghỉ nho nhỏ, và những cư dân thành
phố ngước
mắt nhìn trời và khám phá những buổi mặt trời lặn thần kỳ trong cái mầu
huyền
hoặc cầu vồng biển – xanh, vàng, và tím – và ngỡ ngàng chiêm ngưỡng vẻ
đẹp thành phố. Mọi thứ thì ma mị, và bầu trời thì run rẩy trong cái màu
vàng ướt át,
và phản chiếu lại trên mặt nước.
Tribute
to NCT: Vietnam's Solzhenitsyn
Nếu có người
có thể nhìn thấy trái tim của tôi, ông viết hồi năm 1960, trong lần đi
tù VC đầu
tiên, người đó sẽ nhìn thấy nó là một cây viết cũ, một giá viết, mờ bụi; hay một cái quán nghèo nàn bên đường, mà tiện
nghi độc nhất là ngọn đèn dầu. Nhưng nó cũng còn là một cánh
đồng lúa đợi những cơn mưa lũ tháng Tám,
Và như thế nó
có thể ứ tràn
Cả ngàn con sóng
Những con sóng
bạc đầu
Cuốn trôi đi
tất cả
SENHOR SILVA
The barber's
son passed away,
A child of
just five years.
I know his
father-for a year now
We've talked
as he shaves my beard.
When he told
me the news, as much
Heart as I
have gave a shudder;
All
flustered, I hugged him,
And he wept
on my shoulder.
In this calm
and stupid life,
I never know
how I should act.
But, my God,
I feel human pain!
Don't ever
deny me that!
28 MARCH
1934
FERNANDO
PESSOA:
A LITTLE LARGER THAN THE ENTIRE UNIVERS
[Nhỉnh hơn cả
vũ trụ 1 tí]
SENHOR SILVA
Thằng Cu Tí
con ông thợ cạo, ngỏm
Nó mới lên năm
Gấu biết ông
bô của nó,
Chắc cũng được
một niên
Chủ khách thường
lèm bèm trong lúc cắt tóc.
Khi ông ta nói
thằng con mất
Gấu đau nhói
1 phát,
Ở ngay trái tim
Và Gấu ôm ông thợ
cạo của Gấu
Và ông khóc
trên vai Gấu
Trong cái cuộc
đời cà chớn ngu đần khốn kiếp này
Gấu đâu biết
làm gì khác,
Khi nghe tin
thằng bé chết?
Nhưng cầu Trời
Đừng lấy đi
của Gấu
Cú đau nhói làm người đó
Đừng bao giờ
từ chối Gấu
Cú đau đó nhe!
NYRB Feb 11, 2010
Archangelsk, cái lạnh mặn,
những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc Cực của
mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt trời rùng mình sau
những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc
lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu với Lịch sử,
và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng
hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con mèo bướng
bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau đó, là một cuộc tản bộ
lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi nghe có những
tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ thật là dầy
của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc, bổ choàng
vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.
Note: Arkhangelsk, an
Arctic labor camp,
nông trường cải tạo, nơi Brodsky bị án tù 5 năm
INTERVIEWER
Tôi muốn bắt
đầu bằng 1 trích dẫn trong cuốn sách của Nadezhda Mandelstam, "Hy vọng
Rã Rời". Bà
nói về ông, “... một thanh niên rất được, mà tôi sợ rằng, anh ta đi đến
1 kết thúc tồi tệ”
JOSEPH
BRODSKY
Một cách nào
thì đúng là tôi đã đi đến 1 kết thúc tồi tệ. Trong thuật ngữ của văn
học Nga –
trong thuật ngữ được in ấn ở Nga. Tuy nhiên tôi nghĩ, trong đầu bà có 1
điều gì
khác, tệ hơn nhiều, thì cứ nói ra ở đây, một tổn hại thể xác. Nói gì
thì nói,
cái việc đếch được in thơ bằng tiếng mẹ đẻ thì quá khốn nạn rồi, và quả
đúng là
1 kết thúc tồi tệ.
Bà chị của ông
[Akhmatova] có tiên đoán gì về đứa em chăng?
Có lẽ có, nhưng
bà nói dịu dàng hơn, nên tôi cũng chẳng nhớ. Vả chăng, bạn chỉ để ý đến
những điều
xấu, vì chúng ảnh hưởng đến việc viết của bạn. Về mặt khác, những điều
tốt thì
đều đến từ Ông Giời, vượt ra ngoài quyền hạn của bạn.
Tới 1
chừng
mực nào, sự can thiệp của Ông Giời - như
là 1 ẩn dụ tâm lý - vào thơ của ông?
Tới một chừng
mức thật rộng. Điều tôi muốn nói ở đây là sự can thiệp của ngôn ngữ lên
bạn,
upon you, vào bạn, into you. Bạn nhớ câu thơ nổi tiếng của Auden về
Yeats: “Ái
nhĩ lan khùng đâm mi vô thơ”, “mad Ireland hurt
you
into poetry—”.
Cái điều đâm
bạn vào thơ, hay văn chương là ngôn ngữ, cảm quan của bạn
về ngôn ngữ. Không phải triết học riêng tư,
hay chính trị, hay ngay cả một đòi hỏi sáng tạo, hay tuổi trẻ của bạn.
|
|