*

 



Xuân Diệu: Phượng Hoàng đậu chốn cheo leo...

*

Hai anh em Gấu, tại miếng đất ngày nào.
Căn nhà, thằng em xây cất lại, "lui" ra phía trước, so với căn nhà cũ, đã phá bỏ, vì quá mục nát. Chiếc xe thuê, từ trên đê đi thẳng vô nhà, theo hướng đồng làng. Đó là lần trở lại quê nhà đầu tiên, vào năm 2001.
Bạn đọc để ý, tay trái Gấu lòng khòng, cong cong, là do xơi mìn VC tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bờ sông Sài Gòn!
Căn nhà cũ, có lần Gấu suýt chết, đã kể lại trong chuyến Vượt biển tại Vàm Láng.


ANNA SWIR 1909-1984

Anna Swir is the author of a moving cycle of poems about her father and mother, of whom she speaks with attachment and gratitude, which seems to me striking in view of a common tendency, particularly among young poets today, toward just the opposite. It is not without importance to know her biography. She was the only daughter of a painter who was abysmally poor. She grew up in his atelier in Warsaw.

I WASH THE SHIRT

For the last time I wash the shirt
of my father who died.
The shirt smells of sweat. I remember
that sweat from my childhood,
so many years
I washed his shirts and underwear, I dried them
at an iron stove in the workshop,
he would put them on unironed.

From among all bodies in the world,
animal, human,
only one exuded that sweat.
I breathe it in
for the last time.
Washing this shirt I destroy it
forever.
Now
only paintings survive him
 which smell of oils.

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan

Anna Swir có 1 vòng thơ thật cảm động về bố và mẹ, và bà nói về họ với sự quấn quýt và lòng biết ơn. Bà là cô con gái độc nhất của họ, và ông bố là một họa sĩ nghèo thê nghèo thảm. Bà lớn lên trong xưởng vẽ của ông bố tại Warsaw

Tôi giặt chiếc áo sơ mi

Đây là lần chót tôi giặt chiếc áo sơ mi
của ông già tôi, người đã mất.
Chiếc áo ngửi có mùi mồ hôi.
Tôi nhớ mùi mồ hôi này từ còn là một đứa con nít
Bao nhiêu năm rồi
Tôi giặt chiếc áo sơ mi và quần áo lót của ông già tôi
Tôi phơi khô nhờ cái lò sắt ở xưởng vẽ
Và ông già tôi sẽ mặc mà chẳng cần ủi

Từ tất cả những thân xác trên thế giới
vật, người
chỉ có một, toát ra mùi mồ hôi đó
Tôi hít nó lần chót.
Giặt áo lần cuối
Là tôi tiêu huỷ nó, đời đời
Bây giờ chỉ còn những bức tranh sống sót ông già tôi
Vì ngửi chúng có mùi dầu

William Blake was inclined to see human sins as phases through which humans pass and not as something substantial. In this poem by Anna Swir there is a similar empathy and forgiveness.
Czeslaw Milosz

SHE DOES NOT REMEMBER

She was an evil stepmother.
In her old age she is slowly dying in an empty hovel.

She shudders
like a clutch of burnt paper.
She does,not remember that she was evil.
But she knows
that she feels cold.

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan

Nhà thơ William Blake coi tội lỗi như là những pha con người trải qua, chứ không phải là bản chất. Trong bài thơ của Anna Swir, cũng có sự thông cảm và tha thứ như vậy

Bà không nhớ

Bà mẹ ghẻ, mẹ kế
Khi về già bà chậm chạp chết trong 1 túp lều trống rỗng
Bà rùng mình
Như một cụm giấy cháy
Bà không nhớ bà ác, bà độc, bà mẹ ghẻ
Nhưng bà biết
Bà đang lạnh

IN FACT EVERY POEM

In fact every poem
might be called "Moment."

One phrase is enough
in the present tense,
the past and even future;

it's enough so that anything
borne on words
begins to rustle, sparkle, flurter, float,
while seeming
to stay changeless
but with a shifting shadow;

it's enough that there is talk
of someone next to someone
or someone next to something;

about Sally who has a kitty
or no longer has a kitty;

or about other Sallys
kitties or not kitties
from other primers
ruffled by the wind;

it's enough if within eyeshot
an author places temporary hills
and makeshift valleys;

if on this occasion
he hints at a heaven
apparently firm and enduring;

if there appears beneath a writing hand
at least one thing
that is called someone's;

if in black on white,
at least in thought,
for some serious or silly reason,
question marks are placed,
and if in response,
a colon:

Wislawa Szymborska: Here

Thực sự mọi bài thơ

Thực sự mọi bài thơ
Nên gọi là “Khoảnh khắc”

Một khúc là đủ
Trong thì hiện tại,
Quá khứ, và ngay cả tương lai;

Đủ đến nỗi bất cứ cái chi
Dính tới chữ,
Bắt đầu xào xạc, long lanh, xao xuyến, trôi nổi….
Trong khi hình như vưỡn
Đứng nguyên 1 chỗ, không thay đổi,
Nhưng cái bóng của nó thì lung la, lung linh;

Đủ, khi có những bèm lèm,
Của 1 kẻ nào đó,
Với 1 kẻ nào đó, kế bên
Hay 1 kẻ nào đó kế bên một điều gì đó;

Về Sally có 1 con mèo
Hay không còn có 1 còn mèo

Hay về những Sally khác
Mèo hay không mèo
Từ những "co" [font] chữ khác
Lăn tăn cùng với gió

[Cái gì gì, “tóc em rối giữa hai đầu gió”]

Đủ như thể, với chỉ trong nháy mắt
Nữ thi sĩ đặt để những ngọn đồi, tạm
Những thung lũng, thế

Nếu vào 1 dịp như thế,
Nữ thi sĩ gợi ra một thiên đàng
Thì nó bề ngoài rất thực,
Và kéo dài cho đến muôn đời

Và nếu, bên dưới bàn tay nữ thi sĩ đang làm thơ đó
Xuất hiện ít ra một vật gì,
Thì cái đó gọi là, của một ai đó

Nếu nó thì đen trên trắng
Ít ra ở trong ý nghĩ
Thì, vì một lý do nghiêm trọng, hoặc cà chớn
một dấu hỏi được đặt,

[Hw R U ?, thí dụ ]

Và nếu là câu trả lời
Thì là 1 dấu chấm than

[Sao mà tên già khùng này dai quá!
Dai như điả!]

[Nguyên tác, dấu hai chấm :]

Dzui thôi mà, “I am sorry”. NQT

HERE

I can't speak for elsewhere,
but here on Earth we've got a fair supply of everything.
Here we manufacture chairs and sorrows,
scissors, tenderness, transistors, violins,
teacups, dams, and quips.

There may be more of everything elsewhere,
but for reasons left unspecified they lack paintings,
picture tubes, pierogies, handkerchiefs for tears.

Here we have countless places with vicinities.
You may take a liking to some,
give them pet names,
protect them from harm.

There may be comparable places elsewhere,
but no one thinks they're beautiful.

Like nowhere else, or almost nowhere,
you're given your own torso here,
equipped with the accessories required
for adding your own children to the rest.
Not to mention arms, legs, and astounded head.

Ignorance works overtime here,
something is always being counted, compared, measured,
from which roots and conclusions are then drawn.

I know, I know what you're thinking.
Nothing here can last,
since from and to time immemorial the elements hold sway.

But see, even the elements grow weary
and sometimes take extended breaks
before starting up again.

And I know what you're thinking next.
Wars, wars, wars.
But there are pauses in between them too.
Attention! - people are evil.
At ease-people are good.
At attention wastelands are created.
At ease houses are constructed in the sweat of brows,
and quickly inhabited.

Life on Earth is quite a bargain.
Dreams, for one, don't charge admission.
Illusions are costly only when lost.
The body has its own installment plan.

And as an extra, added feature,
you spin on the planets' carousel for free,
and with it you hitch a ride on the intergalactic blizzard,
with times so dizzying
that nothing here on Earth can even tremble.

Just take a closer look:
the table stands exactly where it stood,
the piece of paper still lies where it was spread,
through the open window comes a breath of air,
the walls reveal no terrifying cracks
through which nowhere might extinguish you.


Wislawa Szymborska

*

Toà nhà Viễn Đông, đường Lê Lợi, Sài Gòn, nổi tiếng với món nước mía Viễn Đông, nhưng không chỉ thế, mà còn món phá lấu, còn dĩa đu đủ khô bò. GCC thường đưa cô bạn, sau khi coi ciné, ở 1 rạp gần đó, tới đây, vào những buổi tối mùa hè, uống ly nước mía, rồi đưa trở về nhà bên Chợ Lớn, rồi trở về nhà mình, hoặc leo lên Đài, nơi làm việc, tòa building số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn.
Cuộc tình kéo dài năm năm, Gấu Cái chỉ biết khi biết tin cô bạn sắp lấy chồng, sắp đám cưới, vì thấy ông chồng của mình sao thiểu não quá, rồi tra hỏi, rồi…
Cả hai vợ chồng cùng đi đám cưới, ở Cai Lậy. Cũng trầy trật 1 thời gian dài, rồi cả hai lại làm thân lại, và khi ông chồng cô mất, thì cả hai lại trở lại như hồi còn đi học, coi cả hai ông chồng đều như không có, không ảnh hưởng gì tới họ nữa!
Món phá lấu của mấy anh Tẫu ở đây mà chẳng thú sao. Bạn cầm cây tăm, cắm vô 1 khúc lòng heo, hay một miếng mề, miếng gan… rồi chấm vô dĩa nước chấm rồi đưa vô miệng…

UNWRITTEN ELEGY
FOR KRAKOW'S JEWS 

My family lived here for five hundred years - DR. M. S.

But Joseph Street is the saddest, spare as a new moon,
not a single tree though not without charm,
the dark charm of a province, of parting, a quiet burial;
in the evening shadows gather here from every neighborhood,
and even some brought by trains from nearby towns.
Joseph was the Lord's favorite, but his street knew no
            happiness,
no pharaoh distinguished it, its dreams were sorrowful,
            its years were lean. 

In the Church of Corpus Christi I lit candles for my dead,
who live far off-I don't know where
-and I sense they warm themselves in the red flame too,
like the homeless by a fire when the first snow falls.
I walk the paths of Kazimierz and think of those who are
             missing.
I know that the eyes of the missing are like water and can't
be seen-you can only drown in them.
To hear footsteps in the evening-and see no one.
They walk on, although there's no one here, the tread of
             women in boots
shod with iron, beside the hangman's quiet, almost tender
             steps.
What is it? As if black memory moves
above the city, like a comet withdrawing from the stratosphere. 

Adam Zagajewski: Unseen Hand 

Bi khúc chưa viết
cho những người Do Thái ở
Krakow

Gia đình tôi sống ở đây 500 năm rồi - DR. M. S. 

Nhưng con phố Joseph Street thì buồn nhất,
và gầy, như 1 vừng trăng non
Tuy nhiên, không 1 cái cây riêng lẻ nào mà không có sự mê hoặc
Sự mê hoặc âm u của một thị trấn, của sự ra đi, của sự chôn cất
Vào buổi chiều những cái bóng từ mọi khu xóm tụ tập về đây
Còn có cả những cái bóng đến bằng xe lửa từ những thành phố kế cận
Joseph [HV] là con cưng của Chúa,
nhưng con phố của anh ta thì đếch biết hạnh phúc là cái chó gì!
Hà, hà!
Chẳng có một vì vua pharaoh nào nhận ra nó
những giấc mơ của nó thì u sầu, những năm tháng thì mới gầy guộc làm sao.

Ở nhà thờ Church of Corpus Christi, tôi đốt nến cho những người chết của tôi
họ sống ở đâu đó, xa vời, làm sao tôi biết được –
và tôi cảm thấy họ tự ấm họ lên trong ánh lửa đỏ,
như những người vô gia cư kế bên ngọn lửa, khi tuyết đầu mùa đổ xuống.
Tôi đi bộ trên những lối đi ở Kazimierz và nghĩ tới những người mất tích
Tôi biết mắt của họ thì giống như nước,
Và không thể được nhìn thấy – bạn chỉ có thể chết chìm ở trong đó.
Nghe những bước chân của họ vào buổi chiều - và chẳng nhìn thấy một ai
Họ bước đi, mặc dù chẳng có ai ở đây,
tiếng bước chân của những người đàn bà mang giầy bốt,
bịt móng sắt, bên cạnh tiếng bước chân lặng lẽ, dịu dàng, êm ái
của tên treo người, kẻ sát nhân, gã đao phủ.
Cái gì vậy? Như thể một hồi ức đen chuyển động ở phiá bên trên thành phố
Như ngôi sao chổi rút ra khỏi tầng bình lưu.

Anh biết, chẳng ai tin đôi trai gái yêu thương nhau ngần ấy năm trời chẳng hề có chuyện chiếm đoạt.
Họa là thánh, ngay cả những người bình thường nhất cũng tỏ vẻ nghi ngờ.
Hoặc ngần ngại, khi phải đưa ra một lời kết luận.
Hay là anh không thương em. Hay là em không thương anh, những ngày đó.
Sau ba mươi năm, anh tự hỏi.

Có lẽ không phải vậy. Anh thương em, như bất cứ một người nam thương một người nữ. Muốn sở hữu. Muốn chỉ là của mình. Nhưng đó là những lúc xa, thật xa em, tưởng tượng nếu có em lúc này, lúc nọ...
Khi gặp, anh chỉ thấy em thân thương, giản dị, như một đứa em ruột thịt. Anh chỉ thấy em, như những đứa em gái của em. Anh yêu em như yêu tụi nó.
Anh yêu em, như một người thân thương ruột thịt, mỗi lần anh trở về; bởi vì, ngoài em ra, đâu còn nơi nào để mà trở về?

Sự thực, riêng với anh, có lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một đối đầu, thách đố. Như thể, anh may mắn được gặp em, vậy là quá đủ rồi. Như thể anh quá sợ, cuộc chiến lúc nào cũng soi mói, rình mò. "Mày chê tao nhơ bẩn, chắc gì mày đã hơn tao?", anh nghe như nó nói, với ánh mắt cười cợt, với nụ cười đe dọa. Như thể, anh càng yêu em trong sạch, thánh thiện, nghĩa là bình thường, giản dị chừng nào, cuộc chiến thua chúng ta chừng đó.
*

Gấu Cái, lần đầu đọc đoạn trên, phát điên lên vì chi tiết “bởi vì ngoài em ra, đâu có còn nơi nào để mà trở về”!

Khi xb cuốn “Lần Cuối Sài Gòn”, Gấu có gửi tặng cô bạn - chỉ cô bạn – nhưng cô không hề biết, vì chắc là ông chồng mở hộp thư, và bèn giấu biến nó, vô 1 ngăn tủ riêng của ông, và cô bạn chỉ biết, sau khi chồng mất.
Ngăn kéo đó chứa gần như tất cả những bài Gấu viết về cô bạn.

Trong Bác sĩ Zhivago, có 1 xen, khi ông chồng Cách Mạng Strelnikov của Lara, bị Đảng săn lùng, làm thịt, bèn trốn về căn nhà cũ, không gặp vợ, vì đã di tản, nhưng gặp Zhivago, và cả hai bèn cùng thi nhau nói về cùng 1 người đàn bà mà cả hai cùng yêu thương…

Cuộc tình của Gấu với cô bạn cũng có 1 xen tương tự. Lần đó, ông chồng, sau khi biết chuyện, xách chai rượu tới gặp Gấu, và cả hai cùng nhậu, cùng nói về cô bạn, và khi về nhà, say mèm, ông gục đầu vào vai vợ, phán, thằng khốn đó nó thương Em còn hơn cả anh thương Em!


Thơ Mỗi Ngày

Szymborska

HARD LIFE WITH MEMORY

 I'm a poor audience for my memory.
She wants me to attend her voice nonstop,
but I fidget, fuss,
listen and don't,
step out, come back, then leave again. 

She wants all my time and attention.
She's got no problem when I sleep.
The day's a different matter, which upsets her.  

She thrusts old letters, snapshots at me eagerly,
stirs up events both important and un-,
turns my eyes to overlooked views,
peoples them with my dead. 

In her stories I'm always younger.
Which is nice, but why always the same story.
Every mirror holds different news for me. 

She gets angry when I shrug my shoulders.
And takes revenge by hauling out old errors,
weighty, but easily forgotten.
Looks into my eyes, checks my reaction.
Then comforts me, it could be worse.

She wants me to live only for her and with her.
Ideally in a dark, locked room,
but my plans still feature today's sun,
clouds in progress, ongoing roads. 

At times I get fed up with her.
I suggest a separation. From now to eternity.
Then she smiles at me with pity,
since she knows it would be the end of me too. 

-Wislawa Szymborska 

(Translated from the Polish by
Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)

NYRB March 8, 2012
[Note: bài này có trong Here]

Mệt đời với hồi ức

Tớ là 1 thính giả tồi với hồi ức của mình
Nàng muốn tớ nghe hoài cái giọng không ngừng nghỉ, liên khúc, của nàng
Nhưng tớ sốt ruột, đếch chịu, vặc tùm lum,
Nghe, và đếch nghe
Tếch đi chỗ khác, quay lại, rồi lại lỉnh chỗ khác

Nàng muốn tớ lúc nào cũng lắng nghe nàng,
Nàng sẽ chẳng gặp vấn đề gì, khi tớ ngủ
Nhưng ban ngày, đếch được, và điều này làm nàng bực.

Nàng xổ ra cả một đống thư cũ, ánh mắt sắc lạnh hăm hở chém
Khuấy trộn tứ lung tung những sự kiện, quan trọng với không quan trọng –
Dí tận mắt tớ những thước phim sao lãng
Đùn người vô phim, với cái chết của tớ

Trong ký ức của nàng, tớ lúc nào cũng trẻ măng
Được đấy chứ, nhưng tại sao luôn luôn, cùng 1 câu chuyện
Mọi cái gương giữ những hình ảnh khác nhau đối với tớ

Nàng bực lắm khi tớ nhún vai
Và đưa ra những phản biện,
Nhảm, nhảm, đếch phải anh, em lầm rồi,
Những hình ảnh nặng ký, nhưng thật dễ quên
Nàng nhìn vô mắt tớ, tìm phản ứng
Rồi thì an ủi
Thế lại càng tồi tệ hơn.

Nàng muốn tớ sống chỉ cho nàng và với nàng
Thật lý tưởng, trong căn phòng tối, cửa khóa
Nhưng những chương trình du hí của tớ còn bao gồm
Tắm nắng hôm nay,
Những đám mây của sự tiến bộ,
Những con lộ của sự lên đường

Có những lúc tớ chán ngấy nàng
Và tớ đề nghị một cuộc phân ly.
Từ bây giờ cho đến vĩnh viễn
Và thế là nàng mỉm cười nhìn tớ ra vẻ thương hại,
Sao mi ngu thế hở Gấu,
Mi bỏ ta là chấm dứt đời mi. 

MY GIFT TO YOU

My gift to you will be an abyss, she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.

Roberto Bolano

The Paris Review Summer 2012

Xuống phố, đổi phim, ghé tiệm sách, mua số The Paris Review có bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và “kín đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa.

Quà BHD tặng Gấu

Quà ta tặng mi sẽ là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi" đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật nhiều năm, có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít rồi
Thì lúc đó mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực cần đến nó
Và chắc chắn không phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là một thoáng chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể, chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái gọi là "mono no aware",
“Nỗi buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của mi".

Nhưng cũng chỉ được 1 tí tí.

**

GCC có gần như tất cả sách của David Remnick, nhưng thiếu cuốn đầu, tức cuốn trên, Ngôi Mộ Lenin, Những ngày sau cùng của Đế Quốc Xô Viết

GCC tính mua cuốn này lâu rồi, chờ thứ second-hand, bữa nay, giở đọc sơ bài Bạt thấy được quá, bèn tặc lưỡi, OK. Vả chăng, đây cũng là ấn bản rẻ tiền.
GCC biết ông này, khi đọc bài ông viết về Brodsky, trên The New Yorker, (1) những ngày đầu viết cho Văn Học. Bèn chôm liền. Sau in thành sách, bèn mua, và bèn chôm bài viết về Oe, (2) được 1 vị độc giả mail, khen, bài viết được quá!

Hà, hà!

… 10-5-2005
… Cám ơn bác rất nhiều về vốn quý hiểu biết của bác, tôi đã học được rất nhiều về những bài giới thiệu của bác. Bác không giới thiệu thì tôi cũng chẳng biết gì... về G. Steiner, cũng không hiểu sâu thêm về S. Weil, không biết chuyện “Cha và Con” của Oé – Ui chao, cả một trời hiểu biết mà không hiểu biết thêm về “Cha và Con” là cả một thiếu sót lớn trong cuộc đời!
Tks. Take Care Both of U
NQT

Đoạn mở ra bài Tựa, cũng thú

PREFACE

Long before anyone had a reason to predict the declide and fall of the Soviet Union, Nadezhda Mandelstam filled her notebooks with the accents of hope. She was neither sentimental nor naive. She had seen her husband, the great poet Osip Mandelstam, swept off to the camps during the terror of the 1930s; she described in ruthlessly clear terms how the regime left its subjects in a permanent state of fear. The people of the Soviet Union had been made, as she put it, "slightly unbalanced mentally-not exactly ill, but not normal either." But Mandelstam, unlike so many scholars and politicians, saw the signs of the Soviet system's inherent weakness and believed in the resiliency of the people.

Trước rất lâu bất cứ một ai có thể tin rằng, Đế Quốc Đỏ sẽ sụm, Nadezhda Mandelstam đã viết Sổ Ghi bằng 1 thứ âm thanh của hy vọng. Bà không phải thứ người tình cảm, hay ngây thơ, ngù ngờ. Bà đã chứng kiến chồng mình, nhà thơ vĩ đại Osip Mandelstam, chết trong tù thập niên 1930, thời kỳ khủng bố. Bà đã mô tả, bằng 1 giọng cực rõ ràng, không chút thương xót, nhà nước đối xử với nhân dân của nó, như thế nào: bằng cách đẩy tất cả vào tình trạng lo sợ, rằng tai họa sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào. Người dân Xô Viết, bà viết, thì được làm ra, “hơi mất thăng bằng về tâm thần 1 tị - không hẳn là bịnh, nhưng cũng không thể nói, là những con người bình thường”. Nhưng, Mandelstam, không như những nhà học giả hay chính trị gia, nhìn ra những dấu hiệu của sự yếu đuối nội tại, cố hữu, gắn liền với chế độ, của hệ thống Xô Viết, và tin tưởng ở khả năng dẻo dai, sức bật, sự phục hồi mau lẹ của dân chúng.

Bài ngắn, TV sẽ post và dịch.
Biết đâu, nhờ đó tìm ra gót chân Achilles của VC!

*

Bài thơ sau đây, của Bolano, thì hơi bị nhảm, nhưng có vẻ như cũng nói lên 1 tí, về cuộc tình của Gấu với BHD, nhất là về cái lần nàng đến nhà – cái tổ quỉ của GCC – và trong nhà lúc đó, có 1 em… [Không phải Gấu Cái nhe]. Gấu mở cửa và sững sờ. Cả hai đều biết, chẳng thể vô nhà, [BHD, nhìn cái cửa đóng, cái xe solex dựng trước sân nhà, là hiểu liền], thế là Gấu bèn hẹn hôm sau gặp, ở cái quán cà phê, hủ tíu ngày xưa vẫn thường gặp, ở Chợ Đũi.
Đến hẹn, Gấu đợi nàng đúng 5 phút, đếch thấy, bèn bỏ đi. Và sau này, viết về cuộc gặp hụt đó, trong bài viết Chuyện Của Gấu. Gửi cho… Thầy Kuốc, (1) Thầy khen um lên, làm sao mà biết gọi cái tuyệt tác này bằng cái tên chi, một bài thơ, một khúc hồi ức....

Hà, hà!

Chuyện Của Gấu

Gấu, Bắc Kỳ 54. Rời Hà Nội khi vừa mới biết yêu cái cột đèn, cái ngã tư, tiếng còi mười giờ chạy trên thành phố... Vào Nam, Gấu nhớ tiếng còi, nhớ cái tháp rùa đến ngơ ngẩn mụ cả người, bèn tự nhủ thầm, phải kiếm cho được một cô bé Hà Nội...
Cô là em của một người bạn học. Ông anh vợ hụt học dưới Gấu một lớp. Quen qua một người bạn, tên Uyển, hồi ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận.
Kỷ niệm lần đầu tới nhà cô bé, nghĩ lại thấy thật buồn cười.
Ông anh cô khi đó đang học Đệ Tam, ban toán, và ông đã ra câu đố: muốn gặp em tao thì phải giải cho được bài toán hình học này. Chẳng hiểu ông thực tình bí, hay là muốn thử tài, theo kiểu: mày có đủ sức chinh phục con em tao hay không? Hồi đi học, Gấu vốn nổi tiếng là một cây toán. Cô em cũng dân toán, sau học y khoa.
Lên đại học, ghi danh chứng chỉ Toán Đại Cương; tới kỳ thi, không hiểu bài toán muốn gì, Gấu nộp giấy trắng ra về!
Nhà nghèo, Gấu chỉ đủ tiền mua cours của giáo sư Monavon, mà không hề làm một bài tập nào.

Ôi, giấc mộng đã tan mà sao ảo tưởng vẫn còn!

Khi Gấu quen, cô bé mới mười một tuổi, chưa có núm cau. Chưa có gì, chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi độc?
Và đẹp?

Nhà cô bé giầu, Gấu sững sờ tự hỏi, tại sao lại có nỗi buồn như thế ở trong cô bé mới mười một tuổi?
Sau này thân rồi, cô tâm sự: đi học, H. chỉ có mỗi một cái áo dài trắng độc nhất. Có lần, H. nghe mấy con bạn nói đằng sau lưng: con nhỏ này nó làm bộ nghèo...
Lần cuối cùng gặp cô bé, khi mối tình đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người thân, nói: H. mới đi chợ cho mẹ, lỡ tiêu quá một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét phải giải thích...
Em gái của cô, mỗi lần thấy bố vô phòng, là bỏ ra ngoài. 

Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu."
Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái
Hà Nội,
độc,

đẹp...

Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến.
Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố, và về cô bé, chúng thật đẹp.

Note: Cô gái ở trong nhà, là 1 em nhà lành, vẫn hay đi ciné với Gấu, đến tổ quỉ lần đầu, để biểu bỏ Gấu Cái, và bù lại, thưởng cho Gấu, cái nhà [còn] lành của em.
Chính những tiếng gõ cửa của BHD làm cụt hứng Gấu!
Đúng hơn, làm Gấu tỉnh cơn thèm khát bướm!

Note: Nhưng BHD, bữa đó, đến... tổ quỉ gặp Gấu, để làm gì?
Bí ẩn này, phải đến già, khi em đi xa rồi, GCC mới giải ra được.


Five Poems by Roberto Bolano

WHEN LISA TOLD ME

When Lisa told me she'd made love
to someone else, in that old Tepeyac warehouse
phone booth, I thought my world
was over. A tall, skinny guy with
long hair and a long cock who didn't wait
more than one date to penetrate her deep.
It's nothing serious, she said, but it's
the best way to get you out of my life.
Parmeriides Garda Saldana had long hair and
could have been Lisa's lover, but some
years later I found out he'd died in a psych ward
or killed himself. Lisa didn't want to
sleep with losers anymore. Sometimes I dream
of her and see her happy and cold in a Mexico
drawn by Lovecraft.We listened to music
(Canned Heat, one of Parmenides Garda Saldana's
favorite bands) and then we made
love three times. First, he came inside me,
then he came in my mouth, and the third time, barely
a thread of water, a short fishing line, between my breasts. And all
in two hours, said Lisa. The worst two hours of my life,
I said from the other end of the phone.

The Paris Review, Summer 2012

Trong Toàn Tập Truyện Ngắn & Ngụ Ngôn, của Kafka, có hai, về Người Cá. Một, được xếp vào thể loại truyện ngắn, story, Sự im lặng của người cá, The Silence of the Sirens, và một, ngụ ngôn, Người cá, The Sirens. Cực ngắn, sau đây:

The Sirens

THESE ARE THE seductive voices of the night; the Sirens, too, sang that way. It would be doing them an injustice to think that they wanted to seduce; they knew they had claws and sterile wombs, and they lamented this aloud. They could not help it if their laments sounded so beautiful.

Translated by Clement Greenberg

Tạm dịch:

Có những giọng mùi trong đêm; Người Cá, cũng thế, hát kiểu này. Có lẽ thật nhảm, thật bất công khi đổ tội cho họ muốn dụ giai; họ có nanh, có vuốt, có tử cung vô sinh, và họ than thở những điều này hơi bị lớn. Họ đâu có muốn, và cũng không thể làm gì được, một khi mà những lời thở than của họ lại đẹp thần sầu, tuyệt cú mèo đến như thế.

Tuyệt. Dịch nhảm cũng cực tới. Gấu khen Kafka, và tự khen mình!
Nhưng phải Oates, còm về mấy dòng trên, mới tới chỉ!

Khoan nhắc tới Oates, bạn đọc tiếp hai ngụ ngôn sau đây, mà chẳng sướng điên lên ư!
Thảo nào Sến mê Kafka, để sách ông gối đầu!

Nhớ, Sến có lần thú tội, vừa mới lớn, gặp ông Dos rậm râu là mê liền.
Nếu bạn đọc cái ẩn dụ Alexander Đại Đế sau đây, thì bạn sẽ phân vân, Sến mê văn Dos, hay mê bộ râu của Dos?
Hà, hà!

Leopards in the Temple

LEOPARDS BREAK into the temple and drink to the dregs what is in the sacrificial pitchers; this is repeated over and over again; finally it can be calculated in advance, and it becomes a part of the ceremony.

Translated by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins

Cáo trong Đền Hồ

Cáo phá cửa vô Đền Hồ nhiều lần, để uống Chén Thánh chứa Rượu Quỉ Đỏ. Chúng làm hoài làm hoài, và sau cùng trong những buổi lễ tuyên thệ gia nhập Đảng Quỉ, phải có cái màn trên.

Alexander the Great

IT IS CONCEIVABLE that Alexander the Great, in spite of the martial successes of his early days, in spite of the excellent army that he had trained, in spite of the power he felt within him to change the world, might have remained standing on the bank of the Hellespont and never have crossed it, and not out of fear, not out of indecision, not out of infirmity of will, but because of the mere weight of his own body.

Translated by Willa and Edwin Muir

Alexander Đại Đế

Chuyện có thể tin được là, Alexander Đại Đế, mặc dù những thắng lợi “chưởng” những ngày đầu, mặc dù đội quân đánh đâu thắng đó, mặc dù nội lực có thừa, và nhờ nó mà biến đổi thế giới, nhưng, khi tới bờ Hellespont, là bèn ngưng lại, đếch dám vượt, không phải vì sợ, hay ngập ngừng không biết tính sao, hay thiếu niềm tin, nhưng, giản dị chỉ là do sức nặng cơ thể của Người.



Living with Her

She aches.
And would have me think it had to do with rivers.

She talks.
Her voice a wheel
and every station on it.

And what she doesn't say
makes the sound of wind in the trees.

She walks,
her path the years sown behind her.

She sleeps.
And her sleep becomes
the river I build
my house beside.

So, on which bank of the river
am I now, waking or dreaming?

She says, Come away from the window. Lie down.
There's no dark out there that isn't first in you.

* *
Close the door. Come lie down.
There's no ocean out there not already in you.

What a narrow residence,
the lifetime of her eyes. 

2.

She opens her eyes
and I see.

She counts the birds and I hear
the names of the months and days.

A girl, one of her names
is Change. And my childhood
lasted all of an evening.

Called Light, she breathes, my living share
of every moment emerging.

Called Life, she is a pomegranate
pecked clean by birds to entirely
become a part of their flying.

Do you love me? she asks.
I love you,

she answers, and the world keeps beginning.

Li-Young Lee

Sống với Nàng

Nàng nhức đầu
Thế là Gấu nghĩ, chắc là do sông rạch

Nàng nói,
Tiếng nói của nàng,
Con tầu và mọi sân ga trong nó

Và điều nàng không nói,
Tiếng gió trong lá cây

Nàng tản bộ
Lối nàng đi
những năm gieo sau nàng

Nàng ngủ
Và giấc ngủ của nàng trở thành con sông
Gấu xây nhà bên cạnh

Và bây giờ, bờ sông nào có Gấu,
Bờ tỉnh hay bờ mê?

Nàng nói, Sao Gấu ngu quá, tránh xa cái cửa sổ. Nằm xuống đây, kế bên ta
Làm gì có bóng đen nào ở bên ngoài, nếu không có trước tiên ở trong mi.

**

Đóng cửa lại, đến nằm bên ta, Gấu Cái ra lệnh
Làm gì có biển lớn nào ở ngoài đó, nếu không sẵn có ở trong mi?

Căn nhà mới chật hẹp làm sao
Đời người trong mắt em

2

Nàng mở mắt
Và tôi nhìn

Nàng đếm… chim, và tôi nghe
Tên của những tháng và những ngày

Một cô gái, một trong những tên của nàng
Là Thay Đổi. Và cả một tuổi thơ của tôi kéo dài một buổi chiều

Gọi là Ánh Sáng, nàng thở, đời tôi chan hòa
mọi khoảnh khắc xuất hiện

Gọi là Đời, nàng là trái lựu được chim mổ sạch
hoàn toàn trở thành một phần của đường bay của chúng

Mi thương ta không? Nàng hỏi
Ta thương mi

Nàng trả lời, và thế giới tiếp tục bắt đầu.


Life is for others, not for you,
Cold in the snow you lie,
Bayonets made twenty-eight wounds,
Bullets-another five.
A garment of new grief I made,
I sewed it for my love.
Oh Russian earth, it loves the taste,
It loves the taste of blood.

Akhmatova

Đời dành cho kẻ khác, đâu phải cho anh
Tuyết lạnh anh nằm
Lưỡi lê anh lãnh: hai mươi tám mũi
Cộng thêm năm vết đạn
Tấm áo, nỗi đau mới,
Tôi may nó cho tình tôi.
Ôi đất Nga ơi, mi yêu mùi vị,
Của máu

It was not, however, as a research editor or a memoirist but as a poet that Akhmatova gave her most immediate, personal response to the deaths of Gumilyov and Blok and the destruction of the world of her youth. After the virtual silence of 1920, Akhmatova wrote some thirty-­four poems in 1921, eleven of which are specifically dated August 1921. These poems are filled with images of bitter and irreversible separation, violence, and death. They reflect not only Akhmatova's personal agony, but the agony of her country. Thus in one lyric of eight simple and devastating lines she uses traditional folk diction and imagery to evoke the lament of a Russian peasant Everywoman.

The Word That Causes Death’s Defeat: Poems of Memory
Nancy K. Anderson dịch, giới thiệu, chú giải…

Chẳng phải biên tập viên nghiên cứu, hay tưởng niệm, hồi ức gia, nhưng, như nhà thơ, Akhmatova đã đưa ra một ứng đáp nóng hổi nhất, riêng tư nhất, trước những cái chết của Gumilyov và Blok và sự huỷ diệt thế giới tuổi trẻ của bà. Sau sự im lặng giả đò, ảo, của năm 1920, liền năm sau, 1921, bà cho ra lò 34 bài thơ, 11 bài trong đó cho biết rõ thời điểm sáng tác: Tháng Tám 1921; chất chứa trong chúng là những hình ảnh cay đắng, chia ly bất phản hồi, hung bạo, và cái chết. Chúng phản ảnh không chỉ cơn hấp hối của cá nhân nhà thơ, mà còn của xứ sở của bà.

Đọc Bi Khúc của Liu Xiaobo, GCC nhớ tới Akhamatova, nhớ tới “Cái Từ Đuổi Thần Chết Chạy Có Cờ”.

*

Anna Akhmatova qua nét vẽ David Levine, NYRB
Được chụp hình, được họa nhiều nhất, trong các thi sĩ.
Nhìn nghiêng, chỉ cần nhìn cái mũi, là nhận ngay ra Bà.

Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được."
"Theo nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."

Joseph Brodsky

 "Tôi mang cái chết đến cho những người thân của tôi
Hết người này tới người kia gục xuống.
Ôi đau đớn làm sao! Những nấm mồ
Đã được tôi báo trước bằng lời."

"I brought on death to my dear ones
And they died one after another.
O my grief! Those graves
Were foretold by my word." (1)

Anna Akhmatova 


Evil Axis


Thơ Dịch


“Official Inquiry Among Grains of Sand”
“Một cuộc điều tra chính thức giữa những hạt cát”


 Liu Xiaobo

Bi Khúc Bốn Tháng Sáu

Phiên Khúc 17

Greed's Prisoner
(nguyên tác)

Tên tù tham lam

Một tên tù
lấn chiếm cuộc đời em
tham lam và hung tàn đến vậy
Rút cuộc cũng không cho phép em
tự mua cho mình một bó hoa, một thỏi sôcôla
một bộ cánh thời trang
Hắn không cho em một chút thời giờ
một phút cũng không 

Hắn coi em như mẩu thuốc lá trên tay
bặp cho kỳ hết
cả tàn tro cũng chẳng thuộc về chính em
Thân hắn giờ trong nhà ngục đảng cộng sản
lại dựng lên phòng giam linh hồn em
không có cửa, không có cửa sổ
không một khe hở
khoá chặt em trong cô độc
cho đến mốc meo 

Hắn buộc em phải chịu đựng mỗi đêm
sự cáo buộc của xác chết
Hắn sai sử ngòi bút em
khiến em phải viết thư không ngừng
khiến em kiếm tìm hi vọng một cách tuyệt vọng
nỗi đau của em bị chà đạp
thành chút lạc thú duy nhất trong cõi vô vị của hắn 

Cánh chim ấy của em
bay lạc trong đường chỉ tay rối rắm của bàn tay hắn
bị bốn đường chỉ tay giăng mắc
mỗi một đường trong đó
đều đã từng dối gạt em 

Kẻ độc tài mắt ráo hoảnh này
Nhưng lại cướp đoạt thi thể em
chỉ trong một đêm tóc bạc mái đầu
thêu dệt nên truyền thuyết, huyền thoại của hắn
khi hắn tưởng công đức viên thành
thì em đã trắng tay
nhưng tên tù này vẫn
bám cứng lấy tương lai trống rỗng của em 

Lại đến ngày rồi
hắn lại ban bố mệnh lệnh
em lại phải đơn độc lên đường
không có thân thể không có ký ức
dùng sinh mạng đã bị cướp trắng
gánh gồng đống sách vở nặng nề
mang đến cho hắn
Hắn quả là tên đầu cơ có nghề
chưa từng bỏ qua
mỗi một cơ hội để tước đoạt từ em 

Vợ
vợ yêu dấu
trong tất cả mọi thứ hèn mạt
trên cõi đời này
cớ sao em
khăng khăng chọn anh để chịu đựng

                  23/7/1999

*

Poetry
Liu Xiaobo

Wait for Me with Dust

for my wife, who waits every day

Nothing remains in your name, nothing
but to wait for me, together with the dust of our home
those layers
amassed, overflowing, in every corner
you're unwilling to pull apart the curtains
and let the light disturb their stillness

over the bookshelf, the handwritten label is covered in dust
on the carpet the pattern inhales the dust
when you are writing a letter to me
and love that the nib's tipped with dust
my eyes are stabbed with pain
you sit there all day long not daring to move
for fear that your footsteps will trample the dust you try to control your breathing
using silence to write a story.
At times like this
the suffocating dust
offers the only loyalty

your vision, breath and time
permeate the dust
in the depth of your soul
the tomb inch by inch is
piled up from the feet
reaching the chest reaching the throat

you know that the tomb
is your best resting place waiting for me there
with no source of fear or alarm
this is why you prefer dust
in the dark, in calm suffocation
waiting, waiting for me
you wait for me with dust
refusing the sunlight and movement of air
just let the dust bury you altogether
just let yourself fall asleep in the dust
until I return
and you come awake
wiping the dust from your skin and your soul. 

What a miracle - back from the dead.

ASIA LITERARY REVIEW WINTER 2010

Đợi Tôi với Bụi

Gửi vợ tôi, người mà ngày nào cũng đợi tôi

Chẳng còn gì trong tên em, chẳng còn gì,
ngoài chuyện đợi anh, cùng với bụi trong căn nhà của chúng ta
những lớp bụi
vun thành đống, chồng chất lên nhau, ở mọi xó xỉnh,
em cũng đâu có muốn mở toang mấy bức màn
để ánh sáng ùa vô, làm phiền sự bất động của chúng

trên những giá sách, mẩu giấy nhãn viết tay bụi phủ đầy
trên chiếc thảm
những hoa văn hít đầy bụi
khi em viết thư cho anh
và tình yêu
với ngòi bút chấm bụi
mắt anh xót như bị dao đâm
em ngồi đó suốt ngày không dám di động
sợ bước chân của em chà đạp bụi em cố gắng kìm nhịp thở của em
viện tới sự im lặng để viết một câu chuyện.
Vào những lúc như thế
bụi nghẹt thở
dâng hiến sự trung thành độc nhất

tầm nhìn của em, hơi thở và thời gian
tẩm đẫm bụi
ở tận thâm sâu của tâm hồn em,
nấm mồ từng chút từng chút
cao dần, từ chân
lân tới ngực, tới cổ họng

em biết nấm mồ
là nơi yên nghỉ tốt nhất của em
trong khi chờ đợi anh ở đó,
chẳng còn nguồn cơn của sự sợ hãi, hay báo động
đó là lý do tại sao em thích bụi
trong bóng tối, trong sự nghẹt thở im ắng
đợi, đợi anh
em đợi anh với bụi
từ chối ánh mặt trời và sự chuyển động của không khí
cứ mặc kệ bụi chôn em cùng tất cả
cứ mặc cho mình thiếp đi trong bụi
cho đến khi anh trở về
và em thức dậy
rũ bụi trên da và tâm hồn. (1)


Cái cú dịch thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu, khi đọc Steiner!
Sướng mê tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản thì nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít ngộ độc nặng với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít ăn cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.

*

Note: Mới tậu.
Thần sầu.
Đúng thơ Mít lưu vong cần.
Đúng thơ Gấu cần: Những bài thơ này mà dịch tặng Gấu Cái trước khi đi xa, thì thật tuyệt
Đọc 1 tặng 1: TV sẽ tặng thêm bài phỏng vấn nhà thơ của Pearl London, trong Poetry in person.

GCC khám phá ra, không phải con số độc giả TV tăng lên, mà là mỗi độc giả TV, trước đây, thường ghé thăm 2 lần/một  ngày; nay tăng gấp đôi, tức 4 lần/một ngày.
Tks all of U
TV/NQT

Summary

 

Reported period

Month Jul 2012

First visit

01 Jul 2012 - 00:16

Last visit

21 Jul 2012 - 17:16

 

Unique visitors

Number of visits

Pages

Hits

Bandwidth

Viewed traffic *

2,058
 

7,757
(3.76 visits/visitor)

15,832
(2.04 Pages/Visit)

48,341
(6.23 Hits/Visit)

3.13 GB
(423.18 KB/Visit)

Not viewed traffic *

 
 

19,219

26,653

813.93 MB

 

THAT LITTLE SOMETHING

for Li-Young Lee

 The likelihood of ever finding it is small.
It's like being accosted by a woman
And asked to help her look for a pearl
She lost right here in the street. 

She could be making it all up,
Even her tears, you say to yourself,
As you search under your feet,
Thinking, Not in a million years ... 

It's one of those summer afternoons
When one needs a good excuse
To step out of a cool shade.
In the meantime, what ever became of her? 

And why, years later, do you still,
Off and on, cast your eyes to the ground
As you hurry to some appointment
Where you are now certain to arrive late?

Charles Simic 

Dịch theo kiểu classic : 

Một chút gì 

Sẽ chẳng bao giờ biết được đâu
Chút gì rất nhẹ ... tựa hôm nào
Nàng đến kề bên, nhờ tìm giúp
Giữa đường rơi một hạt minh châu 

Có thể rằng Nàng bịa đấy thôi
E rằng nước mắt cũng vờ rơi
Mắt dò dưới chân, lòng thầm nghĩ
Tìm suốt triệu năm cũng chỉ hoài 

Hôm ấy, một chiều của mùa hè
Cuồng chân trong bóng mát im che
Viện trăm ngàn cớ mà ra khỏi ...
Còn Nàng , vì cớ gì vậy kìa ? 

Thế thôi mà sao sau bao năm
Thi thoảng mắt lại dò mặt đường
Những lần vội đến nơi hò hẹn
Dù biết mười mươi, trễ, chuyện thường (1)

K

Tks. NQT

GCC biết đến cái tên Li-Young Lee là qua bài thơ trên.

*

Li-Young Lee (a)

WHEN LI- YOUNG LEE visited Pearl London's class in March 1995, he was thirty-seven years old and had written two books of poems. His visit coincided with the release of a third book, his prose-poem memoir, The Winged Seed: A Remembrance. In lush language, the book unfolds Lee's extraordinary biography: his father was for a time Mao's personal physician, but on the establishment of the People's Republic his parents fled to Indonesia, where Lee was born in Jakarta in 1957. The following year, with Indonesia becoming increasingly anti-Chinese under President Sukarno, Lee's father was arrested and imprisoned for nineteen months. After his release the family traveled in exile for five years, moving from Hong Kong to Macao to Japan before arriving in the United States. Lee's father then attended seminary in Pittsburgh and settled the family in the small town of Vandergrift, Pennsylvania, where he became minister of a Presbyterian church.
The themes of memory, father, language, God, selflessness, and humility that animate Lee's memoir play out as well in his first book, Rose (1986) and even more deeply in The City in Which I Love You (1991), honored as best second volume of poems by the Academy of American Poets. In London's copy of this second volume, one line in "The Cleaving" is marked with especially urgent asterisks and underscoring: "What is it in me would / devour the world to utter it?" In their conversation London asked Lee about that line, and Lee's response illuminates his impulse toward the visionary: “As I was writing the poem," he answers, "I wanted to write from a place of unknowing, not from knowledge .... My wish was that the poem would move toward a kind of ecstatic utterance."
Lee, who studied biochemistry before shifting to poetry in his senior year at the University of Pittsburgh, now lives in Chicago with his wife and two children. Over the years he has worked in warehouses and as a karate teacher, and he has taught poetry at Stanford University and the University of Iowa. Since his visit to London's class he has written two additional volumes of poetry, Book of My Nights (200I), which won the William Carlos Williams Award, and Behind My Eyes (2008).
* 

LEE: I feel a poetic truth is closer than any truth that we can approach. The closer something is to poetry, the closer it is to reality. Let's just take the lyric poem as an example-the manifold quality of a lyric poem, the instantaneousness of a lyric poem, the feeling that many consciousnesses are simultaneously being enacted-that is closer to reality. The lyric moment is reality. But we don't always live in that reality. The lyric moment is closer to the truth, to me, than a narrative which is a fictive process.
My hope when I was writing this book was that I could proceed by a deeper compass than narrative fictive logic. I don't think I escape narrative in this book, but I wish I could.

Note: Câu trả lời trên chứa chất trong nó tham vọng viết văn của GNV:

Văn phải được chuyên chở bằng thơ. Gấu này không thể chịu nổi văn Bắc Kít, câu cụt thun lủn, chưa viết đã hăm he lên lớp, hăm he giải thích, hăm he chính luận.
Không tin, đọc SCN là thấy liền!

Gấu nhớ là, khi viết xong câu văn dưới đây, trong truyện ngắn đầu tay, Những Ngày Ở Sài Gòn, Gấu sướng mê tơi, lấy xe chạy rong suốt 1 cõi Sài Gòn, ta sẽ là nhà văn, ta sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết nối liền hai thành phố….
Ui chao, sao mà rồ dại một cách tuyệt vời như thế cơ chứ!

Niên học cuối cùng của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết. (1)

Cuối cùng/bắt đầu/ xô đẩy/… câu văn chạy tới đâu, tình yêu BHD rạt rào tới đó!


Self-Help for Fellow Refugees

If your name suggests a country where bells
might have been used for entertainment

or to announce the entrances and exits of the seasons
or the birthdays of gods and demons,

it's probably best to dress in plain clothes
when you arrive in the United States,
and try not to talk too loud.

If you happen to have watched armed men
beat and drag your father
out the front door of your house
and into the back of an idling truck

before your mother jerked you from the threshold
and buried your face in her skirt folds,
try not to judge your mother too harshly.

Don't ask her what she thought she was doing
turning a child's eyes
away from history
and toward that place all human aching starts.

And if you meet someone
in your adopted country,
and think you see in the other's face
an open sky, some promise of a new beginning,
it probably means you're standing too far.

* *

Or if you think you read in the other, as in a book
whose first and last pages are missing,
the story of your own birthplace,
a country twice erased,
once by fire, once by forgetfulness,
it probably means you're standing too close.

In any case, try not to let another carry
the burden of your own nostalgia or hope.

And if you're one of those
whose left side of the face doesn't match
the right, it might be a clue

looking the other way was a habit
your predecessors found useful for survival.
Don't lament not being beautiful.

Get used to seeing while not seeing.
Get busy remembering while forgetting.
Dying to live while not wanting to go on.

Very likely, your ancestors decorated
their bells of every shape and size
with elaborate calendars
and diagrams of distant star systems,
but with no maps for scattered descendants.

* *

And I bet you can't say what language
your father spoke when he shouted to your mother
from the back of the truck, "Let the boy see!"

Maybe it wasn't the language you used at home.
Maybe it was a forbidden language.
Or maybe there was too much screaming
and weeping and the noise of guns in the streets.

It doesn't matter. What matters is this:
The kingdom of heaven is good.
But heaven on earth is better.

Thinking is good.
But living is better.

Alone in your favorite chair
with a book you enjoy
is fine. But spooning
is even better.

Li-Young Lee

Cẩm nang dành cho Bạn Quí Tị Nạn

Nếu cái tên của bạn gợi ra 1 xứ sở mà tiếng chuông có thể được sử dụng để làm vui,
Hay để thông báo thời tiết giao mùa, hết thu rồi đấy nhé!
Hay sinh nhật của quỉ thần
Nếu thế, thì tốt nhất, bạn nên mặc quần áo giản dị
Khi tới Mẽo,
Và đừng la lớn, khi nói chuyện.

Nếu như bạn đã từng chứng kiến VC đánh đập,
Và kéo ông già của bạn ra khỏi nhà
Thẩy lên đằng sau 1 chiếc xe tải đang nổ máy
Trước khi bà mẹ của bạn kéo vội bạn vô lòng,
Lấy vạt áo che mặt bạn,
Thì hãy cố tránh, đừng phán đoán bà nặng nề
Đừng hỏi bà nghĩ gì khi bà che mắt đứa con của bà,
Khỏi lịch sử,
Khỏi cái nơi tất cả những nỗi đau của con người bắt đầu.

Và nếu bạn gặp 1 người nào đó
Ở cái xứ sở đã nhận bạn như là 1 đứa con nuôi
Và bạn nghĩ là bạn nhìn vô mặt kẻ khác đó
Mơ mòng ra
Một bầu trời mở rộng
Một hứa hẹn khởi đầu mới,
Nếu như thế,
Thì có thể là do bạn đứng hơi bị xa.

* *

Hay là, nếu bạn nghĩ bạn đọc ra, ở nơi người khác, như trong 1 cuốn sách
Trang đầu và trang cuối bị mất
Câu chuyện về nơi bạn ra đời,
một xứ sở bị xóa sổ hai lần
một lần bởi lửa, một lần bởi quên lãng,
Và, nếu như thế, thì là do, bạn đứng gần quá.

Trong bất cứ trường hợp, cố đừng để cho người khác
Mang gánh nặng hoài nhớ, hay hy vọng của bạn

Và nếu bạn là một trong những người
Mắt phải chửi bố mắt trái,
Như thằng cha Gấu
Vừa lùn lại vừa lé,
Thì, biết đâu đấy
Đó là một đầu mối

Nhìn kiểu khác, cách khác, là 1 thói quen
Mà những tên tị nạn trước bạn nhận ra, thật hữu ích
Để sống sót
Đừng khóc than, mình xấu như ma, không xinh đẹp

Hãy quen nhìn, khi không nhìn
Hãy giả đò bận rộn tưởng nhớ, trong khi quên mẹ hết mọi chuyện
Chết vì sống, trong khi đếch muốn tiếp tục 

Rất dễ xẩy ra điều này:
Tổ tiên của bạn đã trang trí những cái chuông của họ
Bằng mọi hình dáng, và kích thước
Với những tấm lịch tỉ mỉ
Những sơ đồ những hệ thống trăng sao xa vời
Nhưng họ quên không trang trí những tấm bản đồ dành cho con cháu của họ, tản mác đâu đó, thời này thời nọ

* *

Nhưng tôi đoán, bạn không thể nói, bằng thứ ngôn ngữ cha bạn la lên với mẹ bạn, từ phía sau chiếc xe tải,
“Hãy để cho Thằng Cu Gấu nhìn thấy cảnh này”
[Cảnh bố Gấu bị tên học trò làm thịt]

Có thể, đó không phải là thứ ngôn ngữ mà bạn sử dụng ở nhà.
Có thể đó là 1 thứ ngôn ngữ bị cấm đoán
Hay có thể, có nhiều tiếng than khóc quá
Và còn tiếng AK/M16 ở ngoài đường phố nữa chứ!

Chuyện nhỏ, để ý làm chó gì!
Điều này đáng kể:
Vương quốc Thiên Đàng thì tốt
Nhưng Thiên Đàng nơi Trái Đất bảnh hơn nhiều

Nghĩ thì tốt
Cải lương cũng tốt
"Phật lương" càng tốt
Nhưng sống, đã hơn.

Thay vì viết ba cái cà chớn, giả đò viết đó
Một mình trong chiếc ghế bảnh choẹ của bạn
Với cuốn sách mà bạn enjoy
[Tu Bụi, hay Túi Bụi?]
OK
Nhưng tán gái, cua ghệ sướng hơn nhiều.


Cicadas

The hawk, a little lost,
I thought,
circled over an azure sea.
The cliffs warmed and grew.
We swam a long time, buried in the water.
A minibus dropped off mongoloid children
with pale faces
like unfinished marble statues.
My skin tasted salty,
I'd become a rock, a mineral.
We read our hot books lazily.
Resin melted in the pines.
We exist between the elements,
between fire and sleep.
Pain chases
or outstrips us.

Adam Zagajewski

Ve Sầu

Diều hâu, hơi lạc lõng
Hẳn thế,
Lượn vòng vòng trên biển xanh.
Vách đá ấm lên, lớn ra
Đôi ta tắm thật lâu, chìm trong nước.
Một chiếc xe mini-bus đổ ra những đứa trẻ bị bịnh
Mặt nhợt nhạt
Như những pho tượng cẩm thạch chưa hoàn tất
Da Gấu mặn
Gấu biến thành một hòn đá, một cục khoáng.
Đôi ta đọc những cuốn sách nóng của chúng ta
một cách lười biếng
Nhựa thông tan ra trong những thân cây.
Đôi ta hiện hữu ở giữa những phần tử
Giữa lửa và ngủ
Nỗi đau rượt đuổi
Hay bỏ xa đôi ta

Ui chao, quỉ thế, đọc bài thơ, thì bèn nhớ đến Quán Con Ve Sầu ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao.
Cũng gần nhà Gấu.
Bạn C mê ăn tối, và nhìn thiên hạ nhảy đầm ở đây lắm.
Chủ, một anh Tây, [quỉ thế, lại nhớ anh Tây quen Greene, trong Ways of Escape], chiều chiều dạo bộ với đấng con trai

*

*

Bạn nhìn bức hình, thì nhà hàng La Cigale, Con Ve Sầu ở phía sau lưng bạn. Cà phê Duyên Anh cũng đâu đó. Rồi “Con Bò Khùng” Crazy Cow [?], một “snack bar” nổi tiếng thời Sài Gòn đầy Mẽo. [Hình 1967-68]