|
The
Writer as Migrant
Phát
ngôn viên và Bộ lạc: The Spokesman and The Tribe
Ở
vào lúc khởi nghiệp, nhà văn
thường phải vật lộn với những câu hỏi, anh là ai, viết cho ai, mắc mớ
thế nào,
mà viết? [to whom, as whom, and in whose interest does he writes?]
Những
câu trả lời sẽ hé ra tầm
nhìn, đề tài, và có khi còn quyết định luôn văn phong của anh ta.
Hắc
búa nhất là câu hỏi, viết
cho ai? Bởi vì câu này liên quan tới ý nghĩa, cảm quan, về căn cước
và truyền thống của nhà văn, và cả hai món này, thì đều không luôn luôn
vũ như
cẩn, và có thể thay đổi.
Những
câu trả lời lúc thoạt đầu
của tôi, xem ra thật giản dị. Trong lời nói đầu của cuốn Giữa những im lặng,
Between Silences, cuốn thơ đầu của tôi, tôi viết, “Như là một kẻ
may mắn tôi nói
cho những người không may mắn, đã đau khổ, đã chịu đựng, và đã tàn tạ
cuối cuộc đời,
và những người đã sáng tạo ra lịch sử, và
cùng lúc, bị nó biến thành điên khùng, và bị huỷ diệt bởi nó”. Tôi nhìn
tôi như
là một nhà văn Trung Quốc viết bằng tiếng Anh nhân danh những con người
bị tiêu
trầm, không có cả một dịp may để mà cất tiếng nói. Vào lúc đó, tôi chưa
hề mảy
may quan tâm đến sự đa đoan rắc rối, và có những điều không thể
nào làm được,
của một người chọn một vị thế như thế, đặc biệt là một con người như
tôi.
Quá nhiều thành thực, chân thành, tâm địa tốt… là một điều nguy
hiểm. Nó có
thể làm nổ tung cái đầu [của thằng cha Gấu] ra!
Ha Jin
Chuyển dịch Vịt
Linda Lê đọc
Nhật ký của Kafka: Dịch từ câm lặng
Traduit du silence
Journal
intime
FRANZ KAFKA
Traduit
(de l'allemand) et
préfacé par Pierre Klossowski
Éd.
Rivages poche, 256 p., 9
€, à paraître le 9 avril.
En
1936, Pierre Klossowski
publia la version française d'un texte prophétique de Walter Benjamin,
qu'il
intitula : L'Œuvre d'art à l'époque
de sa reproduction mécanisée. À Adrienne
Monnier, impressionnée par son travail, il ne cacha pas ses réserves
sur cette
traduction, trop libre au goût du « visionnaire », rencontré à l'époque
où il
participait aux « agglutinations Breton- Bataille ».
L'écrivain
berlinois venait
de saluer en Kafka, mort douze ans auparavant, un habitant du pays de
l'oubli,
« réservoir d'où surgit la lumière ». Klossowski se souvenait sans
doute de ces
lignes quand, en 1945, avant l'édition presque définitive que devait
parachever
Marthe Robert, il proposa une traduction du Journal de Kafka, et dit, au sujet
de ces cahiers, en partie détruits par leur auteur et certainement
jamais lus
par aucun de ses proches, hormis Milena Jesenska: C'est le journal d'un
malade
qui désire la guérison, qui croit à la santé.
Georges
Bataille s'empara de
ces pages et les commenta en 1950, tout au long d'une étude, incluse
par la
suite dans La Littérature et le Mal,
où Kafka plaide coupable, ayant commis,
enfant, le « crime de lire », puis, une fois parvenu à l'âge d'homme,
le «
crime d'écrire », tout en demeurant dans la« puérilité du rêve ». La
littérature
fut-elle pour Kafka ce que la Terre promise fut pour Moïse? En octobre
1921, il
nota que si ce dernier n'atteignit pas Chanaan, ce n'est pas parce que
sa vie
fut trop brève, mais parce que c'était une vie humaine. Commencé au
moment où,
malgré quelques couacs, il composait Richard et Samuel, de concert avec
Max
Brod, le Journal de Kafka l'Éléate est le livre des impossibilités:
impossibilité d'écrire, d'écrire en allemand, ou d'écrire autrement,
impossibilité de tourner le dos à sa judéité, ou de l'accepter
pleinement,
impossibilité d'approuver le célibat, et de supporter la vie en commun
...
Rappelons
seulement les
allusions aux armes d'estoc et de taille dont le Journal est émaillé.
Ce sont
autant d'indications des luttes que menait un « isolé », à couteau tiré
avec le
monde (Klossowski, lui-même admirateur de Soren Kierkegaard, esquisse
dans son
introduction une compaaraison entre Franz Kafka et ce dernier). Résolu
à
défendre sa solitude, à se préserver des relations humaines, jamais
exemptes de
mensonges, il voulait s'en tenir à un cercle limité, mais pur. Cette
résistance
est d'une innocence d'autant plus diabolique que, selon Georges
Bataille, elle
s'accompagne d'un refus de l'action: la manière qu'avait 1'« exclu» de
s'incliner
devant l'autorité est « plus violente qu'une affirmation criée ». Dès
lors,
Maurice Blanchot l'avait relevé dans un texte de 1949, l'impossibilité
est plus
qu'une impossibilité: écrire, c'est s'empêcher d'écrire, mais c'est
aussi «
nommer le silence », réchapper au silence des sirènes.
LINDA LÊ
À LIRE DE FRANZ KAFKA
À la colonie
disciplinaire et
autres récits, éd. Babel.
192 p .. 7.50 €.
Récits posthumes et
fragments,
éd. Babel.
414
p .. 9.50 €.
Lettres à Max Brod,
1904-1924. éd. Rivages. 332 p. à paraître le 9 avril [2008]
*
La
littérature
fut-elle pour Kafka ce que la Terre promise fut pour Moïse? En octobre
1921, il
nota que si ce dernier n'atteignit pas Chanaan, ce n'est pas parce que
sa vie
fut trop brève, mais parce que c'était une vie humaine.
Nếu bạn không tới
được "làng kế bên", thì không phải đời bạn quá ngắn ngủi, nhưng bởi vì
đó
là cuộc đời của một con người!
* Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy
đời
như co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ
qua
chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm rong ruổi
sang làng
kế bên, mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng
không đủ
thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng Anh: The next
village.
My grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand,
for
instance, how a young man can decide to ride over to the
next village
without being afraid that –
not to mention accidents – even the span of a
normal
happy life may fall far short of time needed for such a journey".
*
Tiếc gì một lời khen cho
nhau
khi chúng tôi đã bị đuổi xua ra khỏi quê hương. Người ta nỗ lực để dìm chết tên
tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn chúng tôi
sống. Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi.
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn
của chúng tôi như không. Ne pas. Ai muốn nhận tên nhận tuổi thì
hãy leo vô diễn
đàn tiếng Anh tiếng Pháp mà viết. Nam Le, Le Thi Diem Thuy, Linda Le
viết tiếng
Anh tiếng Pháp thì OK. Mấy cái tờ báo Mẽo và Tây còn điểm sách, mấy cái
đài thổ
tả như BBC, VOA còn nhắc đến. Rồi cù lần Việt cứ thế mà theo đuôi hô hò
theo.
Còn cái bọn gio-o này không
ai muốn nhìn nhận.
Lê Thị Huệ, gió-o
*
Tiếc gì
một lời khen, mà sao
lại tiếc nó, không dành cho những người như Nam Lê, Linda Lê?
Tuy viết bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp, họ vẫn là người Việt vậy?
Bọn cù lần Việt cứ thế mà
theo đuôi hô hò theo?
Không
lẽ lại hô hò theo những
lời đầy cay đắng như trên đây, của bà Lê Thị Huệ?
Diễn
đàn Gió O, như bà Huệ tự
khoe, hoàn toàn do công sức của bà, vậy mà được khá đông anh em đóng
góp bài vở,
hãnh diện như vậy, mà chưa thấy đủ ư? Tin Văn một mình một chợ, chẳng
có ai đóng
góp bài, trừ một anh bạn thật thân, là TT, vậy mà có than thở chi
đâu?
Đâu chỉ
Tin Văn, còn hàng trăm
ngàn diễn đàn khác nữa, của người Việt hải ngoại, họ đâu cần nhà nước
biết đến,
nhưng đâu phải họ không mong mỏi hải ngoại biết đến, trong nước biết
đến, họ đâu cần nhà nước hay bất cứ nhà nào, công nhận?
Mấy
người như Nam Le, Linda Lê...
họ không thể viết văn bằng tiếng Việt, do đó họ bị mất cơ may, là người
Việt ư? Bà thử đọc họ, coi họ có còn là người Việt như Bà ?
Đúng
ra, chẳng nên lên tiếng,
nhưng như vậy, bà Huệ lại càng hiểu lầm, "Còn cái bọn gio-o này không
ai muốn
nhìn nhận”.
Theo như Gấu được biết Gió O còn được vài ba diễn đàn khác, làm link,
thí dụ Việt Xì Tốp Đi Thôi [Viet-studies], Tin Văn làm sao có được hân
hạnh đó? Bị cả trong lẫn ngoài nước coi như hủi, có sao đâu?
Người ta nỗ lực để dìm chết tên
tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn chúng tôi
sống. Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi.
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn
của chúng tôi như không. Ne pas.
Tôi không tin, những người cộng tác với gió-o muốn có mặt ở trong từ
'chúng tôi', của bà Huệ.
Họ bảnh hơn thế nhiều. Và tự trọng, cũng hơn thế, rất nhiều.
Có lần
tôi nhận được một cái mail của NDC, một trong những tác giả viết thường
xuyên cho Gíó O. Ông cám ơn tôi, vì có người "thay mặt tôi," biếu ông
một cuốn Chân Dung Văn Học,
của
tôi, trong có đoạn viết về ông. Hóa ra ông cũng người cùng quê với Gấu
này. Cũng dân Sơn Tây. Cá nhân tôi rất mê những bài viết của ông, và
của một vài tác giả khác nữa, thường viết cho Gió O. Những bài viết của
họ có tính chuyên môn, đặc biệt, và tôi tin chắc, có rất nhiều
độc giả theo dõi.
Có những tác giả như vậy cộng tác, quí hóa đến như
thế, mà cứ la lên là, người ta nỗ lực dìm chết... Lạ thật!
Bữa trước, một ông, trên diễn
đàn Da Mầu cũng đã bực mình vì cái chuyện, khi bỏ nước ra đi, Linda Lê
14 tuổi,
vậy mà quên tiếng Mẹ, làm sao bằng những bậc nữ lưu tăm tiếng của hải
ngoại, Gấu
không dám nhắc đến tên những người này, vì có thể làm cho họ bực mình,
và ông
ta phán tiếp, cộng đồng tung hô Linda Lê như vậy, là quá đủ rồi. Khổ
một nỗi,
Linda Lê không biết tiếng Việt, thì làm sao mà đọc được những lời tung
hô, hay
không tung hô?
Salman Rushdie, trong bài Quê
hương tưởng tượng, cho biết, phản ứng của dân Ấn về cuốn Những đứa con của nửa đêm
của ông: vẽ quá đen xã hội Ấn. Như thế dân Ấn coi bộ rộng lượng hơn
chúng ta. Nam
Lê được tờ báo văn học số 1 trên thế giới khen, không phải chỉ biết
viết về
Mít, về vụ bỏ nước ra đi, mà còn viết đủ đề tài, và đây là một dấu hiệu
đáng mừng.
Cái ông trên Da Mầu mà đọc được những dòng đó, còn bực mình biết mấy:
Mi đã quên
tiếng Mẹ, mà còn quên nỗi đau của Mẹ!
Gấu này
thực sự cũng không hiểu
tại sao khen những người làm cho chúng ta hãnh diện, mà lại bị coi
là cù lần?
Không lẽ khen Lê Thị Huệ viết văn hay quá?
Người ta nỗ lực để
dìm
chết tên tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn
chúng tôi sống.
Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi. Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn của
chúng tôi như không. Ne pas.
Người ta ở đây là
ai? Khó hiểu
quá.
Nếu người ta là nhà nước VC
trong nước, thì mừng quá rồi, có gì đâu mà than van ?
Cả thế giới? Họ đâu có đọc được tiếng Mẹ của chúng ta ?
"Cả một nước Việt Nam coi chúng tôi như không có mặt trên đời". Câu này hàm hồ. Và vô ơn, xổ toẹt những tác
giả trong
nước đã từng đóng góp bài vở cho Gió O. Chẳng lẽ bà Huệ quên, bà đã
khám phá ra
nhà thơ thiên tài Nguyễn Thế Hoàng Linh, và nhờ Gió O mà nay thi sĩ này
cũng được
cả nước biết đến?
Nhà thơ Nga, Brodsky, viết văn
và làm thơ bằng cả hai thứ tiếng, nhưng khi viết thư của ông cụ bà cụ
của ông, ông
viết bằng tiếng Anh, vì ông nghĩ, thứ tiếng ngoại đó sẽ đem đến cho ông
cụ bà cụ
một chút "tự do ngoại", thứ mà họ chưa từng được hưởng. (1) Không lẽ
chúng
ta không
thể nghĩ, như vậy, về những nhà văn của chúng ta, khi họ phải viết bằng
tiếng nước
người?
*
Thú thực, Gấu này, đã từng mong, từ những ngày ở trại tị nạn, nếu qua
được nước người, sẽ khởi nghiệp đời viết thứ nhì của mình, bằng thứ
ngôn ngữ ngày nào còn Yankee mũi lõ ở Miền Nam, Gấu phải làm bồi cho nó!
Nhưng do hoàn cảnh gia đình, do phải lo kiếm sống, nên đành bỏ giấc
mộng lớn này, và đây có lẽ là kỷ niệm buồn nhất trong đời viết văn của
Gấu! NQT
(1) Tôi viết thư nhà
này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự
do… có được thực tại dưới “qui tắc ngoại
về lương
tâm” [a “foreign code of conscience”]…. Viết về họ bằng tiếng Nga
chỉ có
nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý,
do cái
việc hư vô hóa một cách máy móc kia.
Brodsky: Thư Nhà
Trang Vila-Matas
Il faut savoir voir Lisbonne
pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout entière, par exemple,
dans la
première lumière du matin. Ou la voir complètement dans le dernier
reflet du
soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que, même si c'est la
première
fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes
d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et vous
avez à
chaque coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne
savez pas.
Mais vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.
PESSOA ET AUTRES MESSIEURS
le quartier littéraire de Lisbonne
Ôi chao giá như viết
nổi như
dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải
nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức
nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi
vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi
ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi
vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Đỉnh
cao chói lọi
Sinh
nhạt Bác
Viên gạch Bác
Quê hương
tưởng tượng
Có thể,
khi một nhà văn Ấn độ, viết, ở bên ngoài Ấn độ, anh ta bắt buộc phải
tìm cái
nước Ấn độ đó, ở trong một cái gương bể nát, mà một số những mảnh bể vỡ
đó, đã
tuyệt tích giang hồ, chìm vào quên lãng, đáy bể mò kim, nếu muốn mò.
Nhưng có một nghịch lý ở đây.
Cái gương vỡ kia sau cùng hóa ra lại có giá hơn cái gương giả như còn
lành lặn.
Hãy cho phép tôi thử cố gắng cắt nghĩa điều này bằng kinh nghiệm cá
nhân của riêng
tôi.
Trước khi bắt đầu đánh vật với Những đứa con của nửa đêm,
tôi trải
qua nhiều tháng trời giản dị chỉ để cố làm sao nhớ, càng nhiều càng
tốt, về thành
phố Bombay của thập niên 1950 và 1960; và không chỉ Bombay-Kashmir, mà
còn
Delhi và Aligarh, mà, trong cuốn sách, tôi đã dời tới Agra, chỉ để có
thêm một
chút mắm muối cho một câu chuyện tiếu lâm nào đó về Taj Mahal. Số lượng
những câu
chuyện trở lại với tôi nhiều đến mức tôi cũng thực sự kinh ngạc. Tôi
nhận thấy
mình còn nhớ cả được những bộ quần áo mà thiên hạ mặc trong một số ngày
nào đó,
cảnh tượng những trường học, và nhớ trọn nhiều câu chuyện ứng đối của
người dân
Bombay, có thể nói như vậy; tôi còn nhớ được cả những quảng cáo trên
đường phố,
những tấm bích chương phim ảnh, nhãn xe Jeep bằng đèn neon tại
Marine Drive, những quảng cáo kem đánh răng Ninaca hay Koynos, hay cây
cầu dành
cho khách bộ hành phía bên trên đường xe lửa, một bên đường mang những
dòng chữ
trứ danh, “Esso tống một con hổ vô trong máy xe của bạn”, và phía bên
kia, một
dòng chữ trứ danh chẳng kém, nhưng ngược ngạo hẳn: “Lái xe như Điên thì
thể nào
bạn cũng tới… Địa Ngục”. Những bản nhạc xưa cũ trở lại với tôi, từ bất
cứ xó xỉnh,
hoặc chẳng biết từ xó xỉnh nào, một lời ca tự chế của mấy tay hát rong,
bản
“Nửa đêm ngoài phố”, "Buồn vào l... không tên…"
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Giấc Mơ BHD
Và tôi nhớ ra rằng
thì là
Giorgio
Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta,
sẽ xẩy
ra một cái ngày, vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
Cuộc Tình
Bỏ Đi
Phỏng
vấn PHT
Dọn
Chắc
phải sớm đi Tây Nguyên
thôi.
Trước khi hàng ngàn người lính Trung Quốc mang thường phục tràn ngập xứ
cao
nguyên này. Lấy cuốc xẻng thay súng trường, máy ủi thay xe tăng, lời
ngọt ngào,
phủ dụ thay lời hung hăng, đe dọa, "lợi ích kinh tế" thay cho câu
"đánh dập đầu tiểu bá".
Trước khi núi và rừng bị cày nát để tìm tài nguyên cho nhu cầu công
nghiệp và
phát triển của người hàng xóm vĩ đại.
Trước khi những dòng suối đỏ ngầu màu bùn và chất thải từ công trình
quặng
bô-xít thế kỷ mà Nông Tổng Bí đã thỏa thuận cùng Hồ Tổng Bí.
Trước khi những cánh đồng cafe khát cháy vì nguồn nước khan hiếm được
"ưu
tiên" cho bô-xít. Trước khi những cánh rừng không còn màu xanh mà chỉ
còn
màu bùn đỏ.
Trước khi người dân các dân tộc Tây Nguyên học nói tiếng Tàu thay cho
tiếng
Việt, để có thể "giao thương" với các binh sĩ Tàu sẽ sinh sống và làm
việc cho đại dự án bô-xít khổng lồ. Trước khi những người dân này bất
mãn trước
cảnh núi rừng tổ tiên ngàn năm của họ bị chia xẻ, đào bới, xẻ nát mà họ
không
hề được hỏi ý kiến, được tham khảo hay được quyền phát biểu.
Trước khi mảnh đất giữa lòng Việt Nam bị một nhát dao xé nát
ngang
hông, chia Nam Bắc thành hai nửa. Xưa kia, những binh đoàn Bắc Việt từ
cao
nguyên lao xuống đồng bằng, khí thế như chẻ tre, giải phóng (hay chiếm
trọn)
miền Nam trong một thời gian ngắn kỷ lục. Thử hỏi giờ đây, chuyện gì có
thể xảy
ra nếu sau này, các binh đoàn Hoa lục cũng tiến theo con đường như thế?.
Trước khi Tây Nguyên trở thành một đặc nhượng kinh tế của người Hoa,
nơi họ
tiến hành chủ nghĩa thực dân mới, bóc lột khoáng sản, vơ vét tài nguyên
như họ
đã và đang làm ở Congo, ở Chad và những nơi khác tại châu Phi. Để bù
lại, các
quan chức và chính quyền sẽ nhận được những khoản tiền dễ dàng, không
phức tạp
khi giải ngân, không đòi hỏi phải giám sát chặt chẽ hiệu quả sử dụng và
phòng
ngừa tham nhũng như với các nguồn ODA của các quốc gia phát triển.
Phải sớm đi Tây Nguyên thôi.
Blog Linh
Xưa kia, những binh
đoàn Bắc Việt từ cao
nguyên lao xuống đồng bằng, khí thế như chẻ tre, giải phóng (hay chiếm
trọn)
miền Nam trong một thời gian ngắn kỷ lục. Thử hỏi giờ đây, chuyện gì có
thể xảy
ra nếu sau này, các binh đoàn Hoa lục cũng tiến theo con đường như thế?
Thì lịch sử lập lại. NQT
Văn chương và Siêu
hình: Về
cuốn Linh Sơn
|