|
Trịnh Công
Sơn vs Lịch Sử
Milosz,
trong một bài trả lời
phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm
1951.
Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa
thu cũng
trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho
xong. Và
hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý
nghĩ đó, theo tôi,
những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS đã được "thanh
toán".
Milosz
cho rằng, cuốn sách
không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng
đụng vô
tường, hết đường lui.
Cũng
trong bài viết, ông nhắc
đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao
giải
thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do
thơ.
Bản
thân Milosz cũng được nổi
tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.
Tôi
nghĩ, Trịnh Công Sơn có
gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ
nhạc
phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như
Milosz, ông đụng lưng vô
tường, khi viết nó.
Nhưng
tình ca, mới là nhạc
phản chiến đời đời của ông.
Và của
loài người.
Hãy hát
tình ca của ông, theo
nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có
gì có thể thay thế cho
tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca
của TCS, là hồi ức,
là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã mất.
“Cái từ
giải phóng chúng ta
khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai chữ: Tình Yêu.”
*
Tôi thu tôi
lại...
Hạt bụi nào...
He has turned into the
life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of
which he sang
Akhmatova
Người
thi sĩ ấy biến thành
mầm sống
Thành
hạt mưa dịu dàng nhất
mà chàng hát về nó
D.M.
Thomas trích dẫn, cho
chương Death of a Poet, [trong
Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta], nói về
cái
chết của Pasternak.
Trịnh Công Sơn:
Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc
L'oiseau sacré
chante le destin tragique
*
Un jour se noyer et flotter
[Cũng sẽ chìm trôi]
Ah ! la lune en
haut
Assis je suis en
bas
La course de l'eau
la limpidité
Mon âme l’eau
trouble
Les hérons
s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la
vie proches
Mais les pas
ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en
haut
Assis je suis en
bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau
sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de
l'infini
Se noie disparaît
sans appel de retour
Lời Việt::
Nhật nguyệt í-a
trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong
veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay
qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a
không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a
trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong
queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim
thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô
biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm
Partir et
revenir
[Một cõi đi về]
Les
années
écoulées les départs
Partir tourner la
vie les fatigues
Les épaules aux
deux bouts de la lune
Le reflet
transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera la
parole des arbres
Quelle sera la
parole de l'herbe étrangère
Un seul coucher du
soleil dans l'ivresse
Quelle vie légère
appartient déjà au passé
Ruine du printemps
ruine de l'été
Un jour d'automne
l'écho du galop au loin
Nuage couvre la
tête soleil sur les épaules
Les pas s'en vont
les rivières savent rester
Soudain l'otage de
l'amour m'appelle
A l’intérieur
apparaît l'ombre de l’être
Le détour de la
pluie dans l'âme
Une pluie fine
Cent ans l'infini
la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu sera
chez moi
Les chemins les
détours les cercles en ruine
Le côté a' herbe
le côté de rêve
Chaque parole du
crépuscule
Chaque parole de
la terre des tombes
Voix de la mer des
fleuves de leurs sources.
Alors qu'on rentre
on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers les
monts
Revenir vers le
large
Les bras de la vie
n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent
impossible souffle tout au long de la
jeunesse
Trinh Cong Son
Traduit par Le Huu
Khoa
Connu avec Pham
Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam
actuel, Trinh Cong Son se
veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ».
Son œuvre
raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour
et de
la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la
souffrance,
ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des
guerres
offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme,
du
taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de
l'être.
Được biết đến cùng
với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt
Nam hiện
nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát
"những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu
vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp.
Từng
bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những
bài ca
của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy
đi cầy
lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu
có, tư
tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra
nỗi vô
thường của kiếp người.
Le Huu Khoa:
Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
*
Note:
Tks K. Gấu
TCS:
Kẻ Sĩ?
Một ý khác
của Lữ Phương cho
rằng bài viết của Trịnh Cung như là một gợi nhớ về cái thời huy hoàng
của chế
độ Việt Nam Cộng hòa, một điều lạc lõng trong thái độ kêu gọi hòa giải
hiện
nay. Nếu Lữ Phương hiểu được tâm lý của kẻ bại trận chắc ông sẽ có một
cái nhìn
khác. Nó giống như bố mẹ đánh oan một đứa con mà không cho nó có một cơ
hội nào
để tự bào chữa cho hành động của nó, đứa bé khóc nhưng trong lòng cứ
rấm rứt,
còn bố mẹ cứ bảo thôi lỡ rồi con, quên đi. Nhưng làm sao quên được khi
mà trong
lòng cứ rấm rứt. Hãy để những kí ức được viết ra, viết để rồi quen, để
giải
tỏa, và khi người đọc thấy đó là những điều rất bình thường, đã thuộc
về lịch
sử thì lịch sử đã được đóng lại, và một giai đoạn mới được mở ra.
Nguồn talawas
Ui
chao, kẻ bại trận hết
"được
bị gọi" là Ngụy, nay trở thành "đứa con bị bố mẹ đánh oan", thì… phi ní
lô đia [hết
nước nói]!
Tâm lý
kẻ bại trận nào như vậy?
Nếu Lữ
Phương hiểu được tâm lý của kẻ bại
trận chắc ông sẽ có một
cái nhìn
khác. Cái nhìn khác? Liệu có như cái nhìn sau đây:
Tuy 30
năm mới có
ngày hôm nay, nhưng dân Mít Miền Nam, Ngụy hay không
Ngụy, đều biết họ thua trận.
Nhưng
thua trận như vậy coi bộ khó hơn thắng trận rất nhiều!
Thảo nào được ‘còm’
nức nở,
hay quá, nhứt thằng cha này!
Bởi
vậy, Gấu ‘tởm’ là đúng
quá rồi.
Phải là
một tên điên khùng
mới
có thể viết những dòng như trên, khi ví von, những kẻ bại trận, là cả
một miền đất,
như những đứa trẻ bị bố mẹ Bắc Kít đánh oan, nhưng lại không cho nó cơ
hội để mà
tự bào chữa!
Tên
viết đã điên, mà cái tên
dám đăng lên thì Gấu này quả thực là bội phục.
Quái
làm sao, vẫn còn có kẻ
vẫn cúc cung tận tụy viết bài cho nó, mới
lại càng bội phục.
Trong
đó có cả mấy đứa con bị bố mẹ Bắc Kít đánh oan nữa!
Tuy
nhiên, điên mà viết được
câu "Nếu Lữ Phương hiểu được tâm lý
của kẻ bại
trận", thì thực là thú vị!
Hắn làm
sao mà hiểu được!
Bởi thế
mà "Bùi thi sĩ" bực
vô cùng khi có kẻ tán nhảm về cái tên cúng
cơm của ông:
Nhục
còn chưa có, nói chi
Vinh!
*
Những
bài đánh TC, bênh TCS ở
trong nước, kể cả của những đấng bạn quí của ông, như HPNT, NDX… sự
thực đâu có
phải là bênh TCS. Chúng đánh bóng chúng, và cùng lúc đánh bóng chế độ.
Cứ giả
dụ như chế độ ra lệnh, đánh TCS, là bèn tự ý đục bỏ hết. Cái ông TC, sự
thực
thì cũng thuộc loại quá đát, muốn đánh canh bạc chót, lôi thằng bạn đã
ngỏm ra
đập, theo kiểu đốt đền, [đốt đền thờ, không phải đốt đèn], may ra hưởng
chút
xái, khi qua bên kia, có gặp thì cười trừ, huề cả làng.
Bởi vì cái gọi là tham vọng
chính trị, chắc cũng chỉ là chuyện dzui thôi mà. Ghê gớm chi đâu?
TCS chưa từng phải sửa lời một
bản nhạc nào, vậy cũng đã quá bảnh rồi.
Vả chăng, nói như Steiner, âm
nhạc vượt qua ngưỡng cửa thiện ác, xấu tốt. Thành thử không thể lấy
thước thiện
ác, để mà đo TCS.
[Note: Ui chao, sao mà binh TCS dữ ha? Hay là mê o Huệ nào rồi?]
*
Đến như thế này thì hơi bị
thảm, thật!
Có nhiều người cho rằng:
"Điều kỳ quặc nhất và thành công nhất của Trịnh Công Sơn trong những
nhạc
phẩm của ông là đều kể lại những chuyện tình bi thảm của một người
không có khả
năng cho, một kẻ tàn phế trong tình yêu và phải chịu một cơn khát vĩnh
cửu".
Anh suy nghĩ gì về người nói
điều đó? Anh hãy chọn một nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn để minh họa cho
điều đó
?".
Bản thông báo còn cho biết
vòng chung kết cuộc thi và lễ trao giải diễn ra từ ngày 3 - 11/6/2006.
Nhưng, ngay cả phản ứng của
những người được coi là thân cận nhất của TCS, cũng hơi bị lạ. Hoàng
Phủ Ngọc
Tường, thay vì viết Thư Ngỏ gửi cho Nhà Nước VC, hoặc tệ lắm, Nguyễn
Khoa Điềm,
lại nhè báo Thanh Niên để mà nên hay chẳng nên:
"Báo Thanh Niên nên có
thái độ với cuộc thi có tính điên rồ và trò chơi thiếu văn hóa này".
Có thể, ông nghĩ, vụ này do báo
Thanh Niên khui ra, nhưng theo Hai Lúa, 'nó' vượt ra khỏi tờ báo này
rồi.
Nó bảo cho cả thế giới biết,
cái ông nhạc sĩ hát rong, nói "Không" với chiến tranh đó, được cả thế
giới trân trọng đó, chẳng là cái thá gì cả!
(1): Post
lại
trên Tin Văn,
phòng hờ nguồn bị cháy.
*
Subject: Ve TCS
To:
Chào Ông,
"...cái
ông nhạc sĩ hát rong, nói
"Không" với chiến tranh đó, được cả thế giới trân trọng đó, chẳng là
cái thá gì cả!"
Ông phán một câu
như...Thánh
Thán!
Tôi vẫn nghĩ từ lâu
nhạc của
TCS cũng xoàng như những nhạc phổ thông khác. Nhưng các ông gọi là Văn
Nghệ Sĩ
trong và ngoài nước cứ xúm lại ca ngợi ...lời hát của TCS. Quả là buồn
cho cái
cách phê bình thiếu tính chuyên nghiệp.
Kính,
PS: Xin đừng post
Email của
tôi làm gì. Gây tranh luận vô ích!
Đành phải mạn phép
bạn post
cái mail lên đây, coi như của một độc giả nào đó. Vì Hai Lúa
này cũng muốn viết
thêm về TCS nhân "vụ án" PD, và những chấn động tiếp theo mới đây ở
trong nước, Và cũng nhận được vài cái
mail về TCS.
Beautiful
feelings make bad
art.
Tình cảm đẹp làm ra thứ nghệ
thuật dởm
Without the devil’s help
there would be no art.
Không có sự giúp đỡ của Quỉ,
không có nghệ thuật
Gide viết về Dos [Lukacs trích
dẫn, trong Chủ nghĩa hiện thực ở thời của
chúng ta]
Hai ý trên đều có thế áp dụng
cho nhạc TCS.
Câu đầu - Gide phán, sau khi ông
đi thăm Liên Xô về - cho thấy TCS không thể là VC được.
Câu thứ nhì. Con quỉ ở đây, là
con quỉ chiến tranh.
*
Milosz,
trong
một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp
tháng
Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn
tất vào
mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán
một lần
cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da
vàng của
TCS đã được "thanh toán".
Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my
line]. Ông
viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu,
của
Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết
Bác
sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.
Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông
nổi tiếng
cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc
dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.
Hãy hát tình ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam
hòa bình
đã mất.
“Cái từ giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai
chữ:
Tình Yêu.”
*
Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...
He has turned into the life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó
D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong
Solzhenitsyn:
Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
*
Man is not merely one who
lives, taught Alain in a rare moment of
pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi
là hơi
bị tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
"Ở
bẩn sống lâu" hay "không thành công thì thành
nhân", bạn muốn thứ nào?
Trong "Lessons of the Masters" [Harvard University Press, bìa mỏng,
2005], ông 'nghiên cứu sinh' Steiner vinh danh Alain, một trong những
Vị Thầy
Suy Tưởng, Maitres à Penser. Steiner viết, Alain - thầy của
Simone
Weil, André Maurois - dậy học trò một câu thật quái dị: đừng
thành công
[ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức,
the
supreme moral rule.
Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải... bẩn! Phải chiều theo
luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải
thỏa hiệp.
"Nỗi khổ" của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính
là sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người
nghệ
sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".
Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành
công thì
rất ư là thành công, nhưng không... sống sót!
Nhưng cũng vẫn Alain, đã gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza
[Thầy đọc
Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con
Người, [man's
highest good], đó là:
[Hãy] kinh nghiệm niềm vui của tư tưởng và [hãy] tha thứ cho Lão Tặc
Thiên. Tha
thứ cho ông trời già độc địa.
[to experience the joy of thought and to pardon God].
Trời kia mà còn "tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
Vụ Án
Gấu có, chỉ
một kỷ niệm với
TCS, như đã kể ra trong bài viết, thật
ngắn, ngay khi ông vừa nằm xuống.
Có thể nói, bài của Gấu là bài đầu tiên trong những bài ai điếu TCS.
Ông "trúng đạn" [có được cái vé đi chuyến tầu suốt], chưa kịp té xuống
tới đất, là đã có bài ai điếu rồi!
Sau này, Gấu vẫn thường tự hỏi, tại sao mà mình bắn nhanh như vậy !
Mãi mới hiểu ra, đó là nhờ cái cảm giác bực mình, trong cái lần gặp gỡ
đầu tiên
và cũng là độc nhất tại Quán Chùa.
*
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh
bạn trẻ
nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm
anh, và
thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với
hai đứa
chúng tôi, anh dùng giọng Bắc.
Những
ngày TCS
Sắp đi như ông, Gấu mới hiểu ra rằng thì là, chính nhờ ông, nhờ cái cảm
giác bực
mình đó, mà Gấu có được những người bạn "Huệ" thật là tuyệt vời, như
Joseph Huỳnh Văn, ngày nào còn Sài Gòn, và... ngày này không còn Sài
Gòn.
|