*


 


Nobel văn chương 2012



Please, sir, I want some Mo
Prospero


The brutal genius of Mo Yan: A sneak peek into his upcoming novel POW!
Thiên tài tàn bạo của Mạc Ngôn


"Gấu nghi rằng, sau hai cú thất bại với anh Tẫu, qua Cao Hành Kiện và Lục Hiển Ba, Viện Hàn Lâm Thụy Điển bèn đổi chiến thuật, ban ngay cho 1 anh VC Tẫu, Nobel văn học!"

Kính chào anh NQT,

Xin phép anh cho em hỏi “VC Tẫu” đọc là gì?
Nếu đọc là Việt cộng Tẫu chắc không ổn.
Em thường trích bài của anh gửi qua email cho các bạn không thoát được tường lửa, vẫn thấy ngài ngại, thỉnh thoảng vẫn đổi liều VC (TÊN NƯỚC KHÔNG PHẢI VN) thành CS. Mong anh giải thích.
Kính,

Phúc đáp:

“Cái này” là Gấu đùa, như Yankee mũi tẹt, thí dụ. Nhưng truy nguyên, thì nó từ Martin Amis, trong Koba, The Dread. Theo ông ta, chủ nghĩa Nazi không có hậu duệ, nhưng CS thì đủ thứ cóc nhái. (1)
Trong những thứ cóc nhái này, thì VC bảnh nhất, vượt cả Thầy. Những CS Nga, Tầu… thì đều là… “con cháu” của VC!

Cả thế giới trở thành “bãi đánh hàng” của VC, xá gì ba cái lẻ tẻ!

Trân trọng. NQT

(1)

Chủ nghĩa Bolshevism có thể xuất cảng được, và sản xuất ra những hiệu quả gần như là đồng nhất với nguyên bản, ở khắp nơi. Chủ nghĩa Nazi không thể sao chép. So sánh với nó, những nhà nước phát xít khác chỉ là trò tài tử.
Amis: Koba The Dread


*

Sự thất bại của chủ nghĩa CS Tầu, là do áp dụng y bong, à la lettre, bảng hiệu "Hãy huỷ diệt cái cá nhân, và giữ dịt cái tập thể".

Le grand écrivain revisite soixante ans de l'histoire de la Chine communiste, livre un portrait implacable de son pays et partage les souffrances de son peuple.

Mao, Bouddha et moi

L'enfer est une métaphore de la Chine. La seule différence, c'est que les démons ne vous mettent pas une balle dans la tête, ils vous disent: « OK, on va examiner votre cas », et vlan, vous voilà réincarné en ânon ou en goret. ..
Địa ngục là một ẩn dụ về TQ. Có tí khác biệt là quỉ sứ không để một viên đạn vô đầu bạn, mà phán, hãy tái sinh, làm con trâu, con bò phục vụ Đảng tiếp, để chuộc tội!

Le Nobel à celui qui ne parle pas
Một Nobel cho 1 tay không nói

Với những kẻ chưa từng đọc ông, trong có tôi….
PA

Mạc Ngôn, cái “nick” của ông, Kim Dung đã từng ban cho 1 nhân vật của mình, “Nói không được”.

PA khui chi tiết: Nobel văn chương gốc TQ, Cao Hành Kiện, trốn qua Tây ở. Còn Mặc Ngôn, thì được coi là 1 Rabelais Tẫu!
Ông quên Nobel Toán của Mít.  Xin được làm Tẩy, vào phút chót, trước khi công bố Nobel!

Bitter Bamboo

Both worlds, ancient and twentieth-century, are stews of slaughter, torture, famine, flood, and, for the peasant masses, brutalizing overwork. Both protagonists are immature weaklings. Nevertheless, unlike many braver and more engaged characters in these fictional annals, they survive to tell their tales. Their wanton weakness and self-absorption, and the natural poetry both are capable of, rebuke the societies that have made life on earth hellish. Bad societies offer no incentive to grow up.

Tre Đắng

Cả hai thế giới, cũ, và thế kỷ 20, thì đều là những hắc điếm, nhà thổ, của làm thịt người, tra tấn, đói khát, và - đối với tập thể dân quê, lao động quá độ, quá sức con người, thật là dã man, tàn bạo. Cả hai loại nhân vật được đưa vô tiểu thuyết thì đều là những con người yếu ớt, không trưởng thành nổi. Tuy nhiên, không giống như ba thứ nhân vật can đảm hơn, dấn thân hơn, ở trong những cuốn biên niên giả tưởng, họ sống sót để kể ra những câu chuyện của họ. Sự yếu đuối của họ, tự buông xuôi, và chất thơ ca tự nhiên mà cả hai đều có thể có được, thì bèn dõng dạc nói "Không" với những xã hội đã làm cho cuộc sống trên trái đất trở thành địa ngục.
Những xã hội tồi tệ không khuyến khích con người trưởng thành, làm người.

Khi ban Nobel cho Mạc Ngôn, Gấu tin là những Ông Hàn đã nhắm vào vấn nạn trên:
Làm sao cho tre Á Châu không còn đắng nữa.

Họ đã từng thành công với Bà Aung San Suu Kyi, và xứ sở Miến Điện.
*

Speaking to Granta earlier this year, Mo Yan – one of a group of Chinese writers to travel to the UK for the London Book Fair – said that avoiding censorship was a matter of subtlety. "Many approaches to literature have political bearings, for example in our real life there might be some sharp or sensitive issues that they do not wish to touch upon. At such a juncture a writer can inject their own imagination to isolate them from the real world or maybe they can exaggerate the situation – making sure it is bold, vivid and has the signature of our real world. So, actually I believe these limitations or censorship is great for literature creation," he said. (1)

Nói chuyện với tờ Granta đầu năm, trong lần dự Hội Sách ở London, Mạc Ngôn cho rằng cái chuyện luồn lách kiểm duyệt thì rất ư là tế vi. Có nhiều đề tài nhạy cảm trong đời thường, nhà văn rất ngại đụng. Với 1 đề tài như thế, nhà văn phải tiêm vô sự tưởng tượng của riêng mình, để cô lập, tách nó ra khỏi đời thực, và có khi còn phải cường điệu nó, làm sao cho nó thật trơ tráo, sống động, và có cái dấu ấn của đời thực. Thành thử tôi thực sự tin là những giới hạn, và kiểm duyệt rất tốt cho sáng tạo văn chương.

Quả có thế. Đám ly khai Mít không hiểu điều này, cứ nghĩ chửi nhà nước thì là…. văn chương, là trở thành nhà văn, có lương tâm có đạo đức nữa chứ!

Borges cũng nói, kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ, là theo nghĩa này.

Theo Gấu, vấn đề không hẳn như vậy.
Cái chuyện làm sao viết được, có tác phẩm tốt trong 1 chế độ khốn nạn như VC nó đặt 1 nhà văn có tài đứng trước nan đề, liệu có thể viết, được lòng nhà nước, mà vẫn có tác phẩm tốt ?

Ở đây, phải viện đến Brodsky thì mới rõ ra được. Ông phán, một khi bạn "mà cả" với đạo hạnh, là vứt đi. (2)

(2)

When you start 'editing' your ethics, your morality - according to what is or isn't allowed today - then you're already courting disaster.

Brodsky nhắc tới Susan Sontag. Một lần bà nhà văn Mỹ này nói, phản ứng đầu tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là hỏi, tôi có làm điều chi lẫm lỗi, và bây giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một cách nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn lại đứng lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the phoenix principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với nó.

Theo truyền thuyết, phượng hoàng tái sinh, từ tro than của nó. (3)

Mạc Ngôn cũng đụng vô đúng cú này, và ông bị chê là quá cận với định chế, với cung đình, không xứng được Nobel, "too close to the establishment to merit the Nobel".

Nobel đâu phải thứ thường! Càng ngày, nó càng trở nên 1 cái gì hơn cả 1 giải thưởng văn học.
Và vì thế, mỗi lần cho ai là có chuyện. Cao Hành Kiện khi được mà chẳng bị chửi ư ?
Tất nhiên, không phải anh Tẫu chửi mà là “cả nhân loại”, tức Tây Phương, và nhất là Mẽo.
Czeslaw Milosz ?
Bị chính ông ta chửi, khi tự coi mình là nhà thơ bửn! Và chính ông ta, cũng xác nhận, ở vào cái thời này, không có tí cứt trên người là đừng hòng viết lách gì hết!
Gunter Grass cũng đâu có thoát!
Chính ông ta chửi ông ta, khi tự khui ra, người tôi cũng đầy cứt!
Elfriede Jelinek, Herta Mulller, Kertesz...  chẳng ai thoát bị chửi.

Và có lẽ phải mượn đúng hình ảnh Brodsky nhắc tới trên đây, để ban cho Nobel: Con Phượng Hoàng, cứ mỗi lần bị chửi, là 1 lần chết, để lại sống dậy, từ lớp tro than của nó!

Theo nghĩa đó, Gấu tin là, Nobel năm nay, tuyệt nhất!
Nó làm sáng lên rất nhiều trường hợp văn chương.
Thí dụ, Tô Hoài, Kap, như trong 1 bài Gấu đang viết về họ! (1)

Kap ở trong cái chốn nhơ bửn đến như thế, là xứ Ba Lan, bị cày nát bấy, đến như thế, mà vẫn viết được, mà còn đếch thèm để ý đến cái gọi là sự thực là gì nữa!

Cái sự kiện anh Tẫu thèm Nobel đã biến thành 1 thứ mặc cảm.
Tẫu thèm Nobel như thèm Biển Đông!
Thử cho nó coi, biết đâu, tre Á Châu sẽ không còn đắng nữa, chăng!

Liu Xiaobo đã có lần chửi, con nít, “childish”, về mê Nobel đến biến thành khùng của Tẫu.
Trớ trêu là, chính ông được, thứ bảnh nhất, Nobel Hòa Bình, và đi tù vì nó!


V/v Mạc Ngôn đợp Nobel, tờ Người Kinh Tế đi cái tít mới cực thần kỳ:

Liệu có bắt buộc phải cho [ông ta & Tẫu] không?

Đọc, chỉ nội cái tít, là Gấu đã nghi, tụi mi đi đúng vô con đường “lèm bèm” của ta rồi:
Không cho nó [Tẫu], là tre Á Châu cứ đắng hoài, và trở thành Ác Ác Châu hoài hoài!

[Note: Ác Ác Châu, không phải, Ác Á Châu. Á biến thành Ác!
Hãy nhớ câu của Tatyana Tolstaya, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!] (1)

Nên nhớ, lại nên nhớ: Lò Thiêu là sản phẩm của Âu Châu, con đẻ của Thời Kỳ Ánh Sáng. Lò Cải Tạo, Cái Ác Ác Châu, cứ theo như câu của Tolstaya mà suy ra thì có từ ngàn đời, từ trước khi có loài người!

Đúng cái thứ Ác mà Mạc Ngôn đụng tới, như ông trả lời phỏng vấn:

-"Mông To Vú Nẩy" "Phong nhũ phì đồn, chắc là gây chấn động, khi vừa ra lò?
Mạc Ngôn: Trước khi bị chỉ trích thậm tệ, nó đã được xb lần đầu vào năm 1995. Kiểm duyệt lúc đó còn căng lắm. Tôi bị chửi, về một quan điểm lịch sử không thể chấp nhận được. Trong cuốn truyện, tôi cho hai anh em chọn hai hướng đối nghịch nhau, một gia nhập Đảng CS, một theo Quốc Dân Đảng. Chưa hết, cái tay theo Tưởng Giới Thạch lại rất ư là khả ái, trong khi tay kia thì bị Đảng coi là đồ vứt đi, vì không có lập trường. Cuốn sách bị cấm, trước khi được tí ti giải thưởng và được tái bản mùa thu năm rồi.
Như vậy là, chân dung người mẹ và biểu tượng nhập thân vào nhân vật này, lại không gây sốc?
-Cái tít cuốn sách nói lên tính mắn đẻ của bà. Với tám đứa con, trai và gái, bà tượng trưng cho sự mầu mỡ, rộng lượng của đất mẹ Trung Quốc. Suốt sáu chương đầu, là một bà mẹ cao cả, vĩ đại, chịu đựng những đau khổ của cuộc chiến, rồi của nạn đói. Nhưng sau đó, người ta khám phá ra rằng, những đứa con của của bà có tới bẩy ông bố khác nhau, vì chồng bà bất lực, và nếu không có con trai, bà sẽ bị phế truất, thế là bà phải ngủ với những người đàn ông, dù không yêu. Khi cuốn sách ra lò, người ta chê trách tôi là vẽ nên một bà mẹ Trung Quốc chẳng ra gì, nhưng không phải như vậy, tôi tố cáo sự sống dai như đỉa của cái ác có từ hồi phong kiến, nó bắt người đàn bà phải ngủ với những người đàn ông, dù không yêu, để được là mẹ và để giữ địa vị của bà trong gia đình.
Một trong những đứa con không thể rời vú mẹ cho tới khi năm tuổi. Ông muốn nói gì qua hình ảnh này?
-Đây là mặc cảm Oedipe được nói huỵch toẹt ra. Đứa con yêu  bà mẹ, và chỉ muốn sống bằng cách bấu vú mẹ, dứt không ra, quyết không rời. Người ta có thể coi đây là hình ảnh những đứa con không bao giờ muốn rời khỏi đất mẹ, nhưng tôi muốn tố cáo tính phụ thuộc của người đàn ông Trung Quốc, nhất là mấy ông đảng viên. Có ông nào muốn ra khỏi Đảng đâu. Có muốn phản kháng, li khai thì hãy ráng đợi tới lúc chót đời.
Nhưng chính ông cũng là Đảng viên?
-Đúng như thế, và thế mới thảm. Bởi vì, bỏ Đảng là một chuyện rất nhiêu khê, phiền phức, và hơn nữa, thật giản tiện cho tôi biết bao nếu vẫn cứ là đảng viên. Lại càng dễ dàng hơn, nếu tôi không chĩa mũi dùi vào Đảng. 

Chinese literature
Do Nobels oblige?

Oct 12th 2012, 7:43 by C.S.M. | BEIJING

*

IN 1917, Chen Duxiu, a Chinese revolutionary, asked: “Pray, where is our Chinese Hugo, Zola, Goethe, Hauptmann, Dickens or Wilde?” 

China has long fretted that it lacked a great modern literary voice with international appeal. In the decades since Mao the tendency has transmogrified into a full-blown “Nobel complex”. The quest for a Nobel Prize in Literature was made the object of official policy by the Chinese Communist Party, eager for validation of its national power and cultural clout. It has also been a heartfelt desire for those Chinese intellectuals and writers who have felt inferior in global influence and reach.

Almost a century later, Chen’s plea has been answered. Yesterday a Chinese writer, Mo Yan, won the 2012 Nobel prize for works described by the Swedish Academy as “hallucinatory realism”, which mix folk tales, history and the modern day.

Mr Mo has not only broken the streak of European writers who have dominated the Nobel Prize in recent years. He is being hailed as the first Chinese citizen to win the Nobel Prize in Literature. Technically this is true, but it would be more accurate to say that he has won the first Nobel that the Communist Party can celebrate. 

In 2000, Gao Xingjian, a Chinese-born dissident with French citizenship, won the Nobel for writing that was laden with criticism of the Party and banned from sale on the mainland. China declared that his prize had been awarded with “ulterior political motives”, huffing that the award was not worthy of a comment. Mention of Mr Gao is still banned in state media (although Mr Mo, for one, has applauded his “enormous contribution” to literature). China’s other Nobel laureate, Liu Xiaobo, who won the peace prize in 2010, is serving a lengthy prison sentence for other crimes committed with words. 

Mr Mo writes within a system of state censorship. Unlike exiled dissident writers—who enjoy recognition abroad but little influence at home—he is widely read and respected within China. He is also a Communist Party member and vice-chairman of the state-run China Writers’ Association. For him, the government has sung a very different tune. 

Yesterday evening, most unusually, state news broadcasts were interrupted for the announcement of the prize. Thousands of China’s micro-bloggers showered congratulations on Mr Mo. Many here believe this to be the first time a Chinese person has ever won a Nobel. 

Mr Mo was born with the name Guan Moye in 1955, into a peasant household in Gaomi, Shandong province, in eastern China. He left school at the age of 12 to work in a farm and factory, and started to write after joining the People’s Liberation Army in 1976. He is regarded as a key member of a canon of influential authors from the 1980s, alongside Yu Hua and Su Tong, who all wrote about the experience of life under Communism following Mao’s death. Mr Mo is best known for “Red Sorghum”, an epic spanning three generations, starting with the Japanese invasion in the 1930s—which was eventually made into a film directed by Zhang Yimou. 

Along with the accolades for his writing, Mr Mo has garnered criticism for his comfortable—some say cosy—standing within the Party. Earlier this year he contributed to a handwritten, commemorative edition of Mao’s “Yan’an Talks on Literature and Art”, which preach that art should serve society. 

Others have questioned whether the prize will boost Chinese literature—or simply prop up the status quo, under which more rebellious writers suffer. Chen Xiwo, a maverick author whose banned short story “I Love My Mum” uses incest and matricide as metaphors for the decay of society, believes the prize sends a dangerous message to other Chinese writers. Namely, that they can win worldwide applause for buckling under China’s repressive political system. Artist Ai Weiwei has judged the choice of Mr Mo “an insult to humanity and to literature”.

Mr Mo has batted away similar criticism in the past. In an interview with Granta he said that “censorship is great for literary creation”. Mr Mo’s rural stories feature an absurdist brand of magical realism and opaque images set within China’s past, a technique, he implied, that he employs to avoid the censor’s wrath. This has not always worked. In 1988, his novel “The Garlic Ballads”, about a peasant uprising, was banned for a period after its publication. 

“Frog”, his latest novel, addresses China’s one-child policy. It tells the story of a midwife who has been complicit in forced abortions and sterilisations. She has a hallucinatory vision of thousands of frogs, whose croaks sound like the cries of aborted babies. Not light fare, nor the stuff of happy-faced propaganda. Mr Mo is “not afraid of offending people”, in the words of Charles Laughlin, a professor of Chinese literature at the University of Virginia. Mr Mo’s award is a “triumph” for literature, in Mr Laughlin’s view. As he sees it Mr Mo’s writing is not a platform for politics; nor should it have to be. The prize is purely recognition of great literary writing.

There is something ironic in the conviction that Chinese writers should, perforce, indict the Party. It is worth remembering that not all Chinese writers yearn to be held up as the lonely “Chinese voice” that rebels against a repressive state. Neither do all Chinese writers need to make a forced choice between exile and artistic compromise.

China may have come unknotted from its Nobel complex. But Mr Mo will find it hard to outrun politics forever. The pen name he chose for himself means “be silent”, which  might have been a warning of sorts. The day after he won the big prize, on October 12th Mr Mo told reporters in his hometown that he hopes Mr Liu can “achieve his freedom as soon as possible”. This marks a startling shift for Mr Mo, just as he was being criticised for having failed to comment directly on the plight of the other laureate. He might be expected to begin speaking out much more, as he adjusts to the glare of worldwide fame.

Theo nghĩa chính trị đỉnh cao thì Oz không thể được, vì sẽ làm đổ thêm máu giữa Do Thái Israel, và Ả Rập Palestine, Kundera không, vì thời của ông qua rồi, vô Pléiade ngay từ khi còn sống, Kadare, rất có thể, vì đằng sau ông, là hy vọng về 1 thế giới cựu thuộc địa, giống trường hợp 1 anh Tẩy ăn Goncourt mới đây.
DTH không thể nào được, vì tuy cũng nằm trong dòng này, nhưng giọng văn hằn học, đầy hận thù, đúng là thứ văn phong tồi tệ của Bắc Kít dù ly khai, dù dòng chính!
Mà thường là ly khai thì lại tởm hơn dòng chính, chứng cớ, cứ đọc mấy ông VC trở cờ  là thấy liền!

Hà, hà!

Đâu có phải tự nhiên mà Mạc Ngôn, câu đầu tiên phán, sau khi được Nobel, là về Lưu Hiển Ba.
Ông ta biết thiên hạ đang trông chờ gì ở ông.

Tôi [Mạc Ngôn] sợ điên lên, là theo nghĩa đó.

Gấu nghi rằng, sau hai cú thất bại với anh Tẫu, qua Cao Hành Kiện và Lục Hiển Ba, Viện Hàn Lâm Thụy Điển bèn đổi chiến thuật, ban ngay cho 1 anh VC Tẫu, Nobel văn học!

Note: Đây là đòn “Gậy ông đập lưng ông”, của Mộ Dung Phục, trong “Lục Mạch Thần Kiếm”, mi lừng danh, thần sầu bằng đòn nào, thì ta sẽ dùng chính đòn đó, để thịt  mi. Có vẻ như mấy ông Hàn rất mê chưởng Kim Dung, khác hẳn Sến, khi Gấu nhỏ nhẻ vấn an, đã từng đọc Kim Dung, “em” mắng xơi xơi, anh nhè tôi mà hỏi đã từng đọc thứ văn chương hạ cấp đó ư?

Hà, hà!

Brodsky rất tởm chính trị, nhưng khi bị lịch sử lọc ra thì đành đóng vai của mình, 1 cách tuyệt hảo.
Đâu có khốn nạn như HC, thí dụ, khi được lịch sử lịch sự mời, thì bèn ngồi nắn nót viết tự kiểm, hay NBC, thì bèn nhận cái nhà cho bố mẹ Bắc Kít, để đền ơn sinh thành!

Nhục nhã thật.

Hãy mở giùm tôi cánh cửa này...(1) 

Vào một ngày thứ Năm, tháng Mười, một người đàn ông tên là Sture Allen sẽ cử hành một nghi lễ nho nhỏ. Liền sau buổi trưa, ông ngồi trước cái bàn thời Louis thứ XV, trong một văn phòng với những đồ vật vốn thuộc hoàng gia Thụy-điển. Và khi chiếc đồng hồ bằng vàng của ông gõ một tiếng, ông mở cánh cửa thông qua Đại sảnh, Viện Hàn Lâm Thụy-điển.
"Năm nào tôi cũng chỉ làm như vậy". Ông mở cửa bước vào Đại sảnh, gặp gỡ báo chí. Họ đang đợi ông. Sự thực họ đang chờ thông báo, ai là người trúng Nobel văn chương, từ người thư ký thường trực của Hàn Lâm Viện. Allen, năm nay 69 tuổi, chẳng phải học giả, thi sĩ hay văn sĩ. Ông chỉ là nhà ngôn ngữ học được huấn luyện để làm việc với những chiếc máy tính (computer), nhưng chức vụ "người truyền giao thông điệp" của ông là một ân sủng đối với đồng sự. Và thông đìệp của ông, thời giá của nó: trên một triệu đô-la.

"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc"... là giới báo chí lại xôn xao, xì xào, ai sẽ là người được Nobel văn chương.

Thường là đoán trật. Năm nay (1998), những tên tuổi được nhắc nhở, là Bei Dao, nhà thơ lưu vong Trung-hoa. Hugo Claus, người cùng chạy đua với ông, là một thế giá từ bấy lâu nay của nền văn chương viết bằng tiếng Flemish. Còn hai cột trụ của văn chương Bồ-đào-nha hiện đại, một là José Saramago [giải thưởng sau cùng vào tay ông]; cuốn tiểu thuyết "Năm Từ trần (The Year of the Death of) của Ricardo Reis" của ông được coi như một đại tác phẩm; người kia là Antonio Lobo Antunes, một nhà tâm thần học, tác phẩm của ông dựa trên kinh nghiệm khi ông làm việc với Quân đội Bồ-đào-nha tại Angola vào những năm 1970. 

Chưa nhà văn viết bằng tiếng Flemish đoạt Nobel. Cách đây ba năm, Claus đã tưởng rằng (mistakenly told), ông là người đầu tiên được vinh dự này. Michael Specter, tác giả bài viết tóm tắt ở đây (Hội chứng Nobel, the New Yorker Oct 5, 1998), kể lại, hai năm trước, ông viếng thăm nhà văn người Estonian, Jaan Kross. Ông này đã từng nghe xì xào nhiều lần, và đã một lần được báo trước (advance warning) rằng, lần này đúng là ông đấy! "Người ta bảo tôi đừng rời máy điện thoại. Ôi chao chuyện đó dễ ợt! Thời giờ cứ thế trôi, rồi tôi hiểu ra, chưa tới lượt mình. Cũng chẳng sao, nhưng đã có đôi lúc, tôi mơ màng sờ được nàng!"

Người mơ sờ được nàng, lâu nhất, qua những nét chữ bằng vàng trước tên mình: FNPW (Famous Nobel Prize Winner, Nhà văn đoạt giải Nobel nổi tiếng), có lẽ là nhà văn người Mỹ, Norman Mailer. Sau hai mươi mốt năm lăn lộn với tình, giữa chốn giang hồ, ông như có một cái máy dò Geiger, ở trong đầu, về những đợt phóng sạ, từ những giải thưởng này nọ.
Nhưng ông không phải là nhà văn Hoa-kỳ độc nhất, ôm ấp giấc mơ tuyệt vời như vậy. Khi tôi (M. Specter) gọi điện thoại cho Joyce Carol Oates, cách đây không lâu, để hỏi bà có ý nghĩ gì về giải thưởng, bà hào hển: "Sao, sao, ông nghe thấy gì?"

Danh sách chót, thường là năm người, năm nay sáu. Những tờ thăm được bỏ vào một chiếc lọ cổ bằng bạc.

Cuộc chiến đấu giữa mấy Ông Hàn, cũng gay go ngoạn mục vô cùng. Nhất là trong việc gạt bỏ một số thế giá văn chương dư sức đoạt giải, thí dụ như Jorge Luis Borges. Ông không được, chỉ vì lý do: Borges đã từng được (nhà độc tài) Pinochet ban giải thưởng, như một ông già (as an old man). Vậy là đủ để gạt nhà văn vĩ đại nhất của Mỹ-châu La-tinh, vĩnh viễn, khỏi giải thưởng. 

Tuy thường được giải thích, cuộc chiến đấu giữa mấy ông mang tính hàn lâm, nhưng thực sự chỉ là cá nhân. Họ bị cấm không được xì ra cho báo chí, nhưng giả sử cho phép, họ cũng chẳng có thì giờ, vì còn quá bận rộn lo cấu xé lẫn nhau! 

Giải thưởng, lẽ dĩ nhiên, đã được trao cho một số tác giả thật tuyệt vời của thế kỷ chúng ta: Yeats, Mann, Faulkner, Hamsun, và Beckett, nhưng không phải như thế là đủ. Joyce, và Nakokov, thí dụ vậy, đã chẳng được vinh dự này, và người "vừa đập cánh cửa vừa khóc", chắc phải là nhà văn Nga, tác giả cuốn sách, và cuốn phim đã và đang gây chấn động, Lolita.
"Vladimir Nabokov có lẽ là người than van nhiều nhất, về chuyện hụt giải" (one of the most-lamented non-laureates, The New Yorker). Khi Nobel về tay Solzhenitsyn, ông tức giận tuyên bố, đại khái, cái trò "chống Cộng đầu tiên" phải thuộc về tôi. Hai người từ chối, một, Pasternak, là do chính quyền Xô-viết làm áp lực. Còn người kia là Jean-Paul Sartre. Ông từ chối, vì theo ông, "vô nguyên tắc". (Sau khi ông mất, 'hậu duệ' của ông đã nài nỉ mấy Ông Hàn cho lại họ nhưng bị từ chối). 

Omerta, luật là vậy, nhưng đôi khi cũng đến tai công chúng. Người đầu tiên phạm luật là Artur Lundkvist; gà của ông là nhà thơ Neruda. Ông đã thề sống dai hơn nhà văn Anh, Graham Greene, chỉ để gạt tên ông này ra khỏi Nobel. Ông cũng là người không chịu William Golding, Nobel 1983, "một hiện tượng Anh nho nhỏ, chẳng có chi đặc biệt".
Tuy nhiên chuyện thực sự xấu xa xẩy ra vào năm 1989, khi Ature Allen, lấy quyền thư ký thường trực, ngăn chặn Viện Hàn Lâm tỏ thái độ, khi cái đầu của Salman Rushdie bị ra giá, qua vụ Quỉ Thi. Việc này đã làm hai Ông Hàn "quit job". Chủ tịch PEN Thụy Điển tuyên bố: "Chuyện quá đơn giản. Một quốc gia lớn kết án tử một nhà văn chỉ vì dám bầy tỏ quan điểm của mình, vậy mà một trong những thế giá văn chương lớn lao nhất thế giới như Nobel, đã chẳng dám lên tiếng. Bởi vì Mr. Allen là một tay thư ký bàn giấy. Sau việc này, uỷ ban Nobel chỉ là một trò hề đối với tôi." 

Thành lập năm 1786, thời gian bốn mươi năm đầu, chỉ có hai người, ở bên ngoài Âu và Mỹ-châu được giải, nhưng từ Cuộc Chiến Lớn II, được nới rộng. Năm 1968 về tay nhà văn Nhật Kawabata; Nigeria: Wole Soyinka (1986); Ai cập: Naguib Mahfouz (1988); Nam Phi: Nadine Gordimer (1991). Toni Morrison, nhà văn Mỹ gốc Phi châu đầu tiên được giải (1993), nói với tác giả bài viết: Nếu một người da trắng được giải, họ sẽ không nói, đây là chính trị. Bởi vậy tôi chẳng để tâm đến chuyện phê bình. Giả dụ một nhà văn Mỹ gốc Phi, hay một người thuộc Thế Giới Thứ Ba - một người không ở Mỹ, trung tâm của vũ trụ - được giải, vậy là có vấn đề chính trị. Chính trị là một từ thực, nó có một cái nghĩa. Nhưng dùng ở đây, nó chỉ là một từ phân biệt sắc tộc.

Trường hợp nhà thơ CS Neruda, cũng có nhiều điều thú vị, qua kể lại của Per Wastberg, người năm ngoái được bổ sung, khi có hai ghế trống. Ông năm nay 64, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, vốn được coi như nhà ngoại giao, hoạt động nhân quyền, và cũng là nhà văn Thụy Điển đầu tiên công khai lên tiếng yêu cầu nhà nước rút đại sứ ra khỏi Iran, khi xẩy ra vụ Rusdhie.

"Là một người Thuỵ-Điển cũng căng lắm," ông nói, "Đi bất cứ nơi đâu, khi được giới thiệu đây là nhà văn Thuỵ Điển, thế là mọi người nhẩy bổ lên!", ông nói, không hoàn toàn có vẻ diễu cợt. Ông kể lại lần gặp gỡ đầu tiên với nhà thơ ý thức hệ lớn CS, Pablo Neruda: Tôi gặp ông ta vào năm 1965, tại Bled. Khi biết tôi là một người Thuỵ Điển, ông liền mời dùng cơm. "Nhà thơ nhà nước" CS này sống như một ông hoàng xa xỉ. Ông ta hoàn toàn bị Nobel hành, và luôn nghĩ, ông có một địch thủ, ở trong uỷ ban, qua Gunnar Elelof. Ông này tin rằng Neruda có một vai trò, trong chuyện thủ tiêu Trotsky. Neruda khi đó là lãnh sự tại Mexico, đã lên tiếng phủ nhận. Có lần ông nói, ông nguyện sống dai hơn Elelof, để được giải. Và lời nguyện của ông đã thành! 

Thành viên Hàn Lâm Viện luôn nhấn mạnh, Nobel không dính dáng gì đến chính trị, nhưng chạy trời không khỏi nắng. Nhà văn Phần-lan Frans Eemil Silanpaa được Nobel năm 1939, chỉ vì Liên bang Xô Viết có dự định xoá sổ xứ sở này. Milosz ăn giải 1980, cùng năm với sự ra đời của công đoàn Đoàn Kết. Trường hợp Borges: một điều không thể tha thứ được, theo nhiều người. Lẽ dĩ nhiên có chính trị ở đây. Hãy coi danh sách những người đoạt giải. Nếu bạn tôn vinh Stalin ở Thuỵ-điển, chẳng sao, bạn có thể được Nobel. Nhưng nếu bạn lỡ mặc bộ đồ đồng phục Nazi, khi còn là một đứa bé, như vậy là kể như xong.

Bạn nghĩ thế nào? 

Chú thích:
Hãy mở giùm tôi cánh cửa này, tôi đập, và khóc ròng.
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant.
Thơ Apollinaire 

Jennifer Tran

Bitter Bamboo

Both worlds, ancient and twentieth-century, are stews of slaughter, torture, famine, flood, and, for the peasant masses, brutalizing overwork. Both protagonists are immature weaklings. Nevertheless, unlike many braver and more engaged characters in these fictional annals, they survive to tell their tales. Their wanton weakness and self-absorption, and the natural poetry both are capable of, rebuke the societies that have made life on earth hellish. Bad societies offer no incentive to grow up.

Tre Đắng

Cả hai thế giới, cũ, và thế kỷ 20, thì đều là những hắc điếm, nhà thổ, của làm thịt người, tra tấn, đói khát, và - đối với tập thể dân quê, lao động quá độ, quá sức con người, thật là dã man, tàn bạo. Cả hai loại nhân vật được đưa vô tiểu thuyết thì đều là những con người yếu ớt, không trưởng thành nổi. Tuy nhiên, không giống như ba thứ nhân vật can đảm hơn, dấn thân hơn, ở trong những cuốn biên niên giả tưởng, họ sống sót để kể ra những câu chuyện của họ. Sự yếu đuối của họ, tự buông xuôi, và chất thơ ca tự nhiên mà cả hai đều có thể có được, thì bèn dõng dạc nói "Không" với những xã hội đã làm cho cuộc sống trên trái đất trở thành địa ngục.
Những xã hội tồi tệ không khuyến khích con người trưởng thành, làm người.

Khi ban Nobel cho Mạc Ngôn, Gấu tin là những Ông Hàn đã nhắm vào vấn nạn trên:
Làm sao cho tre Á Châu không còn đắng nữa.

Họ đã từng thành công với Bà Aung San Suu Kyi, và xứ sở Miến Điện.

Nobel văn chương 2012
Kadare đợp Nobel năm nay!
Gấu phán vào phút chót!
Và như thế có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp được, vì Kadare là "Tướng Về Hưu" của Albany, và sau ông là thế giới cựu thuộc địa, trong có Mít!
Một anh hùng Núp của đội quân VC ma!
Hà, hà!
Nobel prize in literature 2012: Mo Yan wins

The first ever Chinese winner of the Nobel prize in literature
According to Alison Flood's news story (which is on its way):

His win makes him the first Chinese writer to win the Nobel in its 111-year history: although Gao Xingjian won in 2000, and was born in China, he is now a French citizen, and although Pearl Buck took the prize in 1938, for "her rich and truly epic descriptions of peasant life in China and for her biographical masterpieces", she is an American author.

Anh Tẫu đầu tiên được Nobel văn chương, bởi là vì Cao Hành Kiện trở thành mũi lõ khi được, như anh Mít NBC, Nobel Toán, thoáng nghe tin hành lang, bèn xin qua dân Tẩy, chỉ 1 phút trước khi công bố!


Mo Yan and China’s “Nobel Complex”

 John Updike on Mo Yan

Bitter Bamboo

Both worlds, ancient and twentieth-century, are stews of slaughter, torture, famine, flood, and, for the peasant masses, brutalizing overwork. Both protagonists are immature weaklings. Nevertheless, unlike many braver and more engaged characters in these fictional annals, they survive to tell their tales. Their wanton weakness and self-absorption, and the natural poetry both are capable of, rebuke the societies that have made life on earth hellish. Bad societies offer no incentive to grow up.


*

Sinh năm 1956 tại Shandong, Guan Moye, bố nông dân, lớn lên tại miền quê, gia nhập quân đội nhân dân giải phóng 1976, bắt đầu viết 1981. Tới 1985, dùng bút hiệu Mo Yan [kẻ không nói] khi cho xb cuốn Le Radis de cristal , và lập tức nổi tiếng. Sau đó, là chừng tám chục cuốn, tiểu thuyết, tiểu luận, tuyển tập truyện ngắn. Trong số đó, Bộ Lạc Cao Lương, Le Clan du sorgho (1986), dựng thành phim bởi  Zhang Yinou, Trương Nghệ Mưu  với cái tên Cao Lương Đỏ, Le Sorgo Rouge, hay Xứ Nhậu, Le Pays de l' alcool (2000).  Cuốn sách cho thấy, tính hiện thực quái dị của tác giả thừa sức xâm nhập vào những đề tài hắc búa của chính trị.

Mo Yan's China: 'a world of magic, sexual exploitation, ignorance and senseless violence'
Thế giới của Mạc Ngôn thì thần kỳ, thấy gái là làm thịt, bóc lột sex, ngu si, và bạo lực vô nghĩa

The Swedish Academy, which decides on the award, said the novelist's "hallucinatory realism" merged folk tales, history and the contemporary, and created a world reminiscent of those forged by William Faulkner and Gabriel García Márquez.
Viện Hàn Lâm phán, chủ nghĩa hiện thực hoảng loạn, ảo giác, như phê xì ke, hầm bà làng trong đó là một món lẩu của truyện dân gian, lịch sử, và đương thời, một thế giới làm nhớ tới thế giới giả tưởng của William Faulkner và Garcia Marquez

"He writes about the peasantry, about life in the countryside, about people struggling to survive, struggling for their dignity, sometimes winning but most of the time losing," said the academy's secretary, Peter Englund.
Ông ta viết về dân quê, đời sống nhà quê, về những con người phải chiến đấu để đừng chết, đừng mất phẩm giá, họa hoằn thắng, hầu hết thua

Mo could not be reached for comment, but he told the judges he was "overjoyed and scared", Englund said. (1)
Nghe đợp Nobel, ông ta sướng điên lên, và sợ cũng điên lên!


Thursday, October 11, 2012 9:12 AM

Cam on bac Tru cho em doc (tieng Viet) nhung thong tin som sua ve Nobel Van Chuong nam nay.
Kinh chuc bac cung bao quyen an khang.

Phúc đáp:
Đa tạ.

Thú thực, tôi đoán trật, nhưng khi 1 ông Tầu được thì lại ồ 1 tiếng.
Bởi là vì sau Cao Hành Kiện, Nobel Văn chương, và Liu Xiaobo, Nobel Hòa bình, thì phải có cú này để xoa dịu anh Tẫu, cả ở Biển Đông nữa!

Hà, hà!

Nói như thế, không có nghĩa là Mạc Ngôn không xứng đáng.
Quá xứng đáng là đàng khác!
NQT

Không phải Hàn Lâm Viện Thụy Điển không tính đến những yếu tố chính trị khi trao giải Nobel cho 1 tác giả.
Những Milosz, Brodsky, Cao Hành Kiện, Pasternak… rõ ràng có tính chính trị, vượt lên cả văn học, và đây là ý tưởng của Brodsky, Cái Đẹp Mới Cứu Rỗi Nhân Loại.

Làm sao mà 1 ông Murakami được Nobel cho được.

Bởi thế Gấu mới phán, đỉnh cao của văn học là chính trị!
Cũng là từ câu của Brodsky mà ra:

“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”

Coetzee, trong 1 bài viết về Brodsky

Theo nghĩa chính trị đỉnh cao thì Oz không thể được, vì sẽ làm đổ thêm máu giữa Do Thái Israel, và Ả Rập Palestine, Kundera không, vì thời của ông qua rồi, vô Pléiade ngay từ khi còn sống, Kadare, rất có thể, vì đằng sau ông, là hy vọng về 1 thế giới cựu thuộc địa, giống trường hợp 1 anh Tẩy ăn Goncourt mới đây.
DTH không thể nào được, vì tuy cũng nằm trong dòng này, nhưng giọng văn hằn học, đầy hận thù, đúng là thứ văn phong tồi tệ của Bắc Kít dù ly khai, dù dòng chính!
Mà thường là ly khai thì lại tởm hơn dòng chính, chứng cớ, cứ đọc mấy ông VC trở cờ  là thấy liền!

Hà, hà!

Đâu có phải tự nhiên mà Mạc Ngôn, câu đầu tiên phán, sau khi được Nobel, là về Lưu Hiển Ba. Ông ta biết thiên hạ đang trông chờ gì ở ông.
Tôi và sợ điên lên là theo nghĩa đó.