Bếp lửa
trong văn chương
"Nơi chốn không chết
như con
người, nhưng chúng tang
thương dâu bể đến nỗi chẳng còn chi được giữ lại, về một thời nó đã
là..."
, W. Trévor viết về miền thơ ấu (Ái Nhĩ Lan) của ông.
Tôi
chỉ muốn thêm vô: "... chẳng còn chi được giữ lại,
cho một con người ngày xưa đã từng ở đó."
Tôi
cũng có đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa,
mỗi lần ghé một thành phố. Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn, (Garcia
Marquez),
muốn bỏ Macondo, tìm một đất lành khác, Anh giải thích: "con người
thuộc
về nơi chốn, khi dưới đất có một người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng,
nhưng quyết liệt, "nếu cần một cái mả, tôi sẽ ra đó nằm." Còn nhớ một
cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy
là động
mồ động mả, ông bà mình làm sao ngủ yên ?...
Sự
không đọc "một số" tác giả, ở một vài người,
theo tôi, có thể là do ngần ngại không dám gặp lại một số nhân vật, một
vài nơi
chốn quá thân thiết với họ. Hà-nội, thí dụ vậy. Như một nơi chốn. Như
một nhân
vật quá đỗi thân thương; Eurydice, chẳng hạn. Đó cũng là lý do, theo T.
Tolstaya, khiến thi sĩ Joseph Brodsky không thể trở về: ông sợ những
ngôi mộ bị
đào bới, sợ quá khứ, kỷ niệm, những gì nhà thơ đã làm được, cho St.
Petersburg của ông.
Còn
nhớ, cuốn truyện đầu tay, khi ra ngoài này, tôi
"ngỡ ngàng" thấy được tái bản, "đau xót" khi đưa cho một
người bạn coi, và khi anh ta trả lại, với lời trách nhẹ nhàng, đại
khái, treo
đầu dê, bán thịt chó. Ra ý, tên truyện, Những ngày ở Sài-gòn, chỉ thấy,
Hà-nội.
Đó
là cuốn sách sau cùng, thành phố được nhắc tới, "một
thành phố của hương thơm và mặt trời ve vuốt". Một anh bạn làm nghề
xuất
bản, liền sau đó đã bị Phòng Kiểm Duyệt từ chối một tập truyện. Cũng
không thể
khác được, chiến tranh lúc đó đã trở nên ác liệt.
Khi
Nguyễn Tuân than, "chúng ta" có ít trang sách
về Hà-nội, tôi nghĩ, ông không muốn chấp nhận, "một số" trang sách
viết về nó. Về một Liên, ở đâu đó trong Hà-nội, của Thanh Tâm Tuyền
(Ung Thư;
Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy). Lại càng không thể chấp nhận một anh
chàng Đại,
trước khi bỏ Hà-nội ra "bưng", đã để lại một cái bầu cho một cô gái.
"Nó là một thằng hèn! Tôi sẽ đập vào mặt nó!", nhân vật chính trong
Bếp Lửa đã giận giữ, về người bạn của anh...
Có
thể, Nguyễn Tuân không biết tới những trang sách đó,
những tác giả đó. Cũng vậy, Lê Đạt chắc cũng chưa từng đọc, bản dịch
bài thơ
Hoàng Hạc Lâu, của Vũ Hoàng Chương.
Theo
thi sĩ, và cũng còn là ông thầy Việt văn của người viết
- năm học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn là
một căn
hộ, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn - bản dịch của Tản Đà dùng vần
bằng, thể
thơ lục bát, cho nên không diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục phản" -
toàn "vần trắc" - trong nguyên bản. Bất phục phản! Nhân một cơn say,
ông nổi hứng, dịch một lần nữa, tạo thế chân vạc cho bài thơ.
Họ
Vũ vốn là dân toán, ông vẫn bị ám ảnh bởi những hệ thống
trục tọa độ, khi làm thơ. Nhưng cái tam giác của ông, vô tình làm tôi
nhớ tới
tam giác bếp núc của C. Lévi-Strauss.
Văn
minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn
quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú
vật. Rồi
chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước,
trong
sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân
của C.
Lévi- Strauss. Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng
mê
"khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ
mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới
khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.
Bắt
chước Vũ Hoàng Chương, C. Lévi-Strauss, tôi cũng tưởng
tượng ra một thế chân vạc của Hà-nội. Ở đây, không có nguyên bản, cứ
coi như
vậy. Chỉ có dịch bản. Một Hà-nội, của những người di cư, 1954. Một, của
những
người ra đi từ miền Bắc. Và một của những người tù cải tạo, chưa bao
giờ biết tới
Hà-nội, như của Nguyễn Chí Kham, trong lần ghé ngang, trên chuyến tầu
trở về
với gia đình.
"Treo
đầu dê, bán thịt chó". Quả thế thật. Khi
viết Những ngày ở Sài-gòn, là lúc tôi quá nhớ Hà-nội. Mới lớn, vừa mới
kịp yêu
mến cái cột đèn, cái Hồ Gươm, cái Tháp Rùa, đùng một cái, phải bỏ hết.
Vào Nam,
cố biến nó thành hiện thực, qua hình ảnh một cô bé Hà-nội. Mối tình tan
vỡ, chỉ
vì người nghe kể, là một cô bé miền Nam:
"Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có
sương mù...".
Hà-nội
của Nguyễn Chí Kham khác hẳn. Cũng khác hẳn, Hà-nội
của những người ra đi từ miền Bắc. Ga Hàng Cỏ của Nguyễn Chí Kham không
có cảnh
đưa tiễn những người đi vào Nam chiến đấu, và một cô gái, trong một
truyện ngắn
của Lê Minh Hà, (Trăng Goá, Văn), chỉ ngửi thấy chỗ nào cũng sặc mùi
nước đái,
và đó là một trong những lý do khiến cô chấp nhận lời cầu hôn, của "thủ
trưởng" đám bộ đội trẻ. Xin đừng nghĩ đến sự thô tục ở đây. Chỉ có mùi
nước tiểu "quyến rũ" đó mới tương xứng với lưỡi bom, liếm đến đúng
căn nhà của cô học trò thì dừng lại, như có hẹn với cô gái, tuy đã đi
sơ tán,
nhưng hôm đó phải trở về Hà-nội để lấy phần gạo. Như thể lưỡi hái B.52
đến lúc
đó mới thở hắt ra hết hơi nóng của nó.
Sartre
(Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính",
coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo
dựng
(réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái
tạo thế
giới của những nghệ sĩ và của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch,
nguy hiểm
trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình yêu."
Tôi
đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại được đọc những trang sách
tuyệt
vời, về Hà-nội. Có thể là do một câu thơ và viễn ảnh khủng khiếp nó gây
ra ở
nơi tôi. "Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một
"Apocalypse Now" (Tận Thế Là Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội.
Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy suốt cuộc chiến sau đó, không phải
chiến thắng,
mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng với nó, là biểu tượng của cả một
dân tộc ?
Bạn
hãy thử tưởng tượng Hà-nội, như một cuốn sách, một bài
thơ, một văn miếu, và cơn thử thách của nó: lửa. Trong Farenheit 451,
Ray
Bradbury tưởng tượng, một Nhà Nước ra lệnh huỷ diệt mọi cuốn sách. Và
một bà
già đã chịu chết trong thư viện của bà, giữa những cuốn sách đang cháy.
Người
ta túa ra khắp nơi, để học thuộc lòng những cuốn sách bị huỷ diệt. Họ
trở thành
những cuốn sách sống. "Chỉ cần một kẻ ném lửa, tương tư, rồi bắt đầu
đọc
một cuốn sách, là sự ghê tởm, tính quái vật của Nhà Nước lộ rõ." (Thử
thách lửa, L'épreuve du feu, M. Delon, Magazine littéraire, Văn Học
Pháp, số
tháng Chạp, 96). Ở đây, có một điều gì thật trớ trêu, của định mệnh:
một cách
nào đó, sự hung bạo của ngọn lửa, cũng "hung bạo" như giấc mơ của
loài người, về một cuốn sách toàn thể, về một con người toàn thể. Nhân
vật
trong Lột Xác của Nguyễn Tuân còn mơ tưởng một cuộc phần thư, chính
thân xác
của mình.
Nhưng
thư viện và cơn thử thách của nó, lửa, với Hà-nội, chỉ
mang tính "ẩn dụ". Với Sài-gòn, nó bắt nguồn từ cuộc hỏa thiêu thư
viện đầu tiên của nhân loại, thư viện (thành phố) Alexandrie. Người ta
buộc tội
ông tướng Ả Rập, Amrou Ben Al-As, người đã chiến thắng Ai Cập vào năm
642, là
thủ phạm. Ông tướng này đốt thư viện thành phố, sau khi "thăm dò" ý
kiến Omar, người kế tục Mahomet. Ông này trả lời: "Nếu tất cả những
cuốn
sách đều hợp với (tinh thần) Coran, chúng vô dụng, phải đốt hết. Nếu
không hợp,
chúng nguy hiểm, phải đốt hết."
Sartre
viết, Husserl không hề là một nhà hiện thực. Nhà thơ
như Trần Dần, nhà văn như Lê Minh Hà, lại càng không. Đừng coi những
dòng kể
của bà về Hà-nội, là hiện thực chủ nghĩa, theo một nghĩa thô bạo nhất
của nó.
Vẫn Sartre, trong bài viết đã dẫn, "Hiểu, là vỡ òa về...",
(Connaitre, c'est "s'éclater vers"), và đó là ý nghĩa câu nói nổi
tiếng của Husserl: Ý thức chỉ là ý thức về một điều gì (Toute
conscience est
conscience de quelque chose): y hệt như vết bom ngưng lại, vì biết
rằng, có một
người, sau này sẽ viết ra, điều này.
Trong
một truyện ngắn khác, của cùng tác giả, "bãi dâu
xanh mênh mông, hoa muồng muồng vàng rực, đình tám mái sân đầy cứt
chim..." như phô hết sự quyến rũ của chúng dưới bầu trời: máy bay Mỹ
đánh
phá khắp nơi.
Hà-nội
của Nguyễn Chí Kham đi từ văn chương ra ngoài đời.
Một Hà-nội của tưởng tượng, của mơ tưởng, hoang tưởng, không tưởng...
Chỉ là
những chi tiết, mọc lên từ hư không, dứt ra từ tưởng tượng. Anh tù cải
tạo, tới
Hà-nội, tần ngần, ngơ ngẩn, giấu biệt "căn cước" của mình, nhất là
những ngày tù ghê rợn. Bố anh là quân nhân. Mẹ anh làm nghề nấu hàng
cơm. Anh
giúp mẹ đưa cơm tháng cho cô giáo. Rồi nhờ cô kèm thêm. Anh học trò
ngày xưa,
thành sĩ quan như bố, đi cải tạo, mang theo cùng với anh vầng trăng thơ
ấu,
chiếu vào hai mái đầu. Cô giáo trong Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi (tập tuyện,
nhà xb Tân
Thư, Cali, 1997), mơ mộng
về một
cái chết của người chồng phi công. Anh mất tích, như một lần thất bại
không thể
mang trả bầu trời, những cơn mưa, những cánh rừng... cho người vợ ở nhà.
Với
Hà-nội của Nguyễn Chí Kham, chúng ta lại phải đương đầu
với một hoàn cảnh trái ngược, tựa thể bầu trời mùa thu, chiếc áo trắng
phất phơ
bay trong gió, những chiếc lá bàng... toàn những tưởng tượng, trong
tiểu thuyết
(như trong Đôi Bạn, của Nhất Linh...), bỗng biến thành hiện thực. Cái
cô học
trò mà anh tù cải tạo gặp ở nhà ga, trên cùng chuyến tầu, như mang bóng
dáng cô
giáo, của cậu học trò ngày nào. Làm sao mà không chia sẻ với vầng trăng
thơ ấu
một kỷ niệm đẹp đẽ như vậy!
Vẫn
cái tam giác bếp núc: liệu chúng ta có thể nhìn ra, hiện
tượng mất cân bằng "sinh thái", - sự phân phối nước - ở hai nhánh văn
chương, tạo thành dòng văn học hải ngoại? Phạm Thị Hoài, trong bài viết
về vị
thủ lĩnh trong bóng tối, (Văn Học, Cali),
có nhắc một câu của Trần Dần, tôi đợi bọn trẻ chôn tôi. Bà cũng coi,
văn chương
phản kháng ở trong nước, hiểu theo một nghĩa nào đó, là Nhân Văn II.
Người đọc
vẫn chờ đợi Nhân Văn II đi hết lưỡi lửa của nó, chờ đợi bao nhiêu chua
chát,
cay đắng, bao nhiêu cái xấu, cái ác của nhân vật, hoàn cảnh, trong tác
phẩm của
Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... qua đi. Những trái
núi, bờ
đê, "đập ngăn chặn Thái Bình Dương" (M. Duras) phải được dẹp bỏ, hoặc
trở nên dư thừa, khi những "cây non" như Lê Minh Hà vượt cao hơn, sẵn
sàng đương đầu với sức nóng mặt trời. Thâm tâm những tác giả "đàn anh,
đàn
chị" kể trên vẫn hằng mong như vậy. Và đó là ý nghĩa "hoài bão"
của Trần Dần.
Trong
hoàn cảnh đó, người tù Nguyễn Chí Kham thấy thật cần
thiết, phải giấu biệt những khổ đau, (như một nạn nhân, của Hà-nội?),
khi ghé
thăm thành phố.
Con
người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết
(Faulkner). Tổng số những kinh nghiệm về khổ đau, anh có rồi. Về thời
tiết, chỉ
thiếu Hà-nội. Người tù đi qua cầu Long Biên, thò tay sờ lên thành cầu,
như rụt
rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu vết bom đạn. Anh đang trên đường
vào
Hà-nội, mang theo với anh tro than của những cuốn sách...
Nguyễn
Quốc Trụ
Chú thích hình:
Nguyên Ngọc
& Nguyễn Quốc Trụ tại một
quán cà phê bên Bờ Hồ Hà Nội (Tháng Sáu 2002)