NTT Page
Đảo: hổn
hển hay không hổn hển
Tập
truyện
Đảo của Nguyễn Ngọc Tư gồm toàn những thứ rất khó
viết, vì nó viết về các cảm giác.
"Hổn hển hay không hổn hển" là sự tình rối bời của người vợ khi làm
tình với chồng, trong truyện "Xác bụi": hổn hển thì chồng vui, nhưng
không hổn hển thì người tình cũ đang là vong hồn lẩn quất ngoài kia sẽ
vui. Biết làm thế nào đây, cuộc đời người phụ nữ là một cái bẫy, tình
ái cũng là một cái bẫy.
Tập này có một truyện ngắn mà tôi rất
ngưỡng mộ ngay khi đọc lần đầu tiên cách đây cũng khá lâu, "Tro tàn rực
rỡ"; chắc hẳn tác giả cũng thích nó, nên nó được xếp làm truyện cuối
cùng của tập.
Bởi tập truyện ngắn này thật ra hết sức phức tạp, tôi nghĩ là nên bắt
đầu với một truyện cụ thể, chính truyện "Tro tàn rực rỡ" này: ở xóm
Thơm Rơm có cặp vợ chồng Tam và Nhàn, cứ lên cơn là Tam đốt nhà (thật
ra nhà giống túp lều rách nát hơn), nhưng những cuộc đốt đó không phải
tai nạn hay một chuyện gì mang màu sắc lộn xộn, loạn tả, bởi khi đốt
thì Tam sẽ "say sưa" ngắm đám cháy, còn Nhàn thì "đắm đuối" ngắm chồng.
Nó giống một thứ nghi lễ. Toàn bộ câu chuyện được kể qua giọng một
người phụ nữ khác, lấy chồng sau đám cưới Tam và Nhàn một thời gian
ngắn, và có một mối quan hệ rất khó diễn tả với cặp vợ chồng kia.
Ở cái xóm nghèo này, những vụ cháy ấy dần thành chuyện rất quen, được
người ta xúm đến xem như xem tuồng. Cái
bạo lực của sự buồn tẻ ấy,
theo tôi, là đặc điểm chính của tập truyện
Đảo.
Những truyện khác cũng ngập tràn bạo lực.
Cánh đồng bất tận thật
ra cũng đầy bạo lực, nhưng đến
Đảo thì bạo lực thấm vào
mọi thứ, muôn trùng bất tận bạo lực của cõi sống tẻ nhạt ghê người, của
những lặp lại phát ớn, chồng đi nhậu say về đêm đêm, đợi vợ dìu vào
nhà, thậm chí lên đập cửa rồi lại đi xuống dưới đợi vợ ra dìu, người
đàn bà trong "Mưa qua trảng gió" lặp đi lặp lại những ngày dài đẫm
trong mưa bất tận, người phụ nữ trong "Biến mất ở Thư Viên" không biết
bao nhiêu ngày đến hiệu sách cũ lật giở những quyển sách mong tìm lại
hình bóng một người yêu biến mất.
Vị của
Đảo là vị của bạo lực tầm thường, đã được tác giả,
như một cách hoán dụ, thể hiện trong "Vị của lời câm", một truyện ngắn
đặc biệt xuất sắc khác trong tập: người phụ nữ trong truyện ấy nhai từ
ngữ như những thứ hữu hình. Cùng sự hung bạo được thể hiện rất mềm mại
ấy xuất hiện trong truyện "Đánh mất cô dâu", cái truyện đặt ra vấn đề
nhà văn đối xử với nhân vật như thế nào. Rốt cuộc, quan hệ giữa người
với người, kể cả với những con người hư cấu, cũng đầy tính chất bạo lực.
Tập truyện này, tôi không muốn trích dẫn câu nào; nó có quá nhiều câu
hay. Hãy đặc biệt để ý đến những câu kết truyện, hiếm khi nào trong văn
chương Việt Nam có những câu kết đắt giá đến thế.
Thói quen lần mần tỉ mỉ khiến tôi đi tìm xem từ nào là "chủ âm" trong
tập truyện này. Trong
tiểu thuyết Sông, từ ấy là
"trôi". Còn trong tập truyện
Đảo, có lẽ từ ấy là "vói". Các
nhân vật đều như thể muốn vói đi đâu đó, vượt khỏi nhàm chán buồn tẻ
cuộc đời. Nhưng đi đâu? Bỏ đi cũng chẳng giải quyết vấn đề gì, như ta
có thể thấy rất rõ trong "Sổ lồng", "Đi bụi" hay thậm chí "Chụp ảnh gia
đình". Trở về còn tệ hơn nữa ("Lưu lạc" và "Củi mục trôi về").
Trong "Áo đỏ bắt đèn", tôi cũng nhận ra tác giả dùng lại địa danh "Hiệu
Oanh" đã xuất hiện rất đáng nhớ trong tập thơ
Chấm.
Sông,
Chấm và
Đảo, ba từ này có lẽ
đã khoanh định một vùng lãnh thổ văn chương không ngớt độc đáo của
Nguyễn Ngọc Tư.
Tập truyện
Đảo có những thứ theo tôi là kiệt tác truyện
ngắn: "Biến mất ở Thư Viên", "Đảo", "Vị của lời câm" và "Tro tàn rực
rỡ". Nhưng, để nói cho sòng phẳng,
Đảo cũng có hai truyện
hụt hơi hẳn so với không khí và chất lượng chung của cả tập, là "Mùa
mặt rụng" và "Đường về Xẻo Đắng".
Blog NL
Như thế, “Đảo”
có mấy truyện đã được Tin Văn giới thiệu.Theo GCC, truyện của Cô Tư mà
đội cho
chúng cái vương miện, "Lưu Đày và Quê Nhà", thì thật là hoành tráng. Đề
tài của
thế kỷ. To be [Hổn hển] hay Not to be [Không Hổn Hển], thì cũng được.
Quê Nhà ở
đây, nếu THNM, coi là miền đất “Ta Ra” đã mất thì cũng vưỡn được.
Gấu Cái rất
mê Cúi Xuống Là Đất, không
biết có trong
Đảo? Rồi Khói Trời Lộng Lẫy?
Hai truyện
ngắn NL chê, theo GCC, cũng vẫn được, tuy có yếu hơn 1 chút, so với mấy
tuyệt
tác kể trên.
Tks All
NQT
Xác
Bụi
Nguyễn Ngọc Tư
Nhu luôn chứng
tỏ sự có mặt của mình bằng cái mùi giấm bâng quơ, mà nói thiệt, có
thanh thoát
lãng mạn gì cho cam, nó cứ chua lè chua loét. Trong mớ vũ khí mà Nhu
vẫn thường
tấn công vào những lúc em chập chờn nửa mê nửa ngủ, chỉ có hoa bần là
mát lành
nhất, nhưng cũng mỏng manh nhất. Nhu cần thứ gì đó xộc thẳng vào tim óc
em, để
cái nhớ phải nhảy dựng lên, chong lên ý nghĩ tìm Nhu, phải tìm Nhu.
Đầu năm Tẩy,
đọc truyện tình của Cô Tư, tuyệt thật.
Cái tít mới
lại càng tuyệt. (1)
"Bản của
Tư gửi", như thường lệ, có tí “hỏi ngã” chưa được chỉnh, Gấu Cà Chớn
bèn bệ
về, đánh bóng lại, post lên, để lấy hứng, viết
về "mà nói thiệt, có thanh thoát lãng mạn gì cho cam":
Gấu cũng có
1 vài kỷ niệm cà chớn như vậy với BHD!
Hà, hà!
Không phải
do đọc Xác Bụi mà nhớ ra:
Vẫn nhớ, vẫn tâm niệm, sẽ có ngày viết ra, nhưng lại
tiếc, sợ… thế nhân mắt trắng dã, đọc
không ra, lại còn về hùa với đám đệ tử Thầy Kuốc, chửi thằng cha Gấu Cà
Chớn, cứ
cái gì đính đến BHD là bệ về thờ, như... vết
bàn chân trên mặt ruộng của bà vợ của 1
nhân vật của Võ Phiến!
Hà, hà!
Nhưng đọc Xác Bụi mà không
lôi câu thơ thần sầu Brodsky đã từng trích dẫn, thì cũng nhảm,
đại nhảm
"Hãy nhớ
Gấu Cà Chớn nhe", hạt bụi thì thầm. (2)
"Remember
me,"
whispers the
dust.
("Hãy
nhớ đến tôi,"
Hạt bụi thì
thầm.)
Peter Huchel
(thi sĩ Đức)
[Joseph
Brodsky trích dẫn, trong "Ca ngợi buồn phiền", "In Praise of
Boredom"]
Chừng đó
thôi cũng đủ, chúng cứ đay đi đay lại thời con gái của em. Đôi khi mùi
tương
thoảng qua mặt, em mắc cười nghĩ Nhu chơi trò này thiệt nhảm. Nhưng em
vẫn
không kìm được rùng mình như vẫn luôn rùng mình mỗi khi Nhu ào về mang
theo một
cảm giác thân thiết gợi nhớ về mối tình đã cũ.
Nhu vẫn thường
về trong chiêm bao của em, trong nhân dạng thằng con trai mười chín
tuổi. Trẻ
hoài. Nhu đu nhánh bần, nói vói xuống, “ê, nhớ anh không?”. Hoặc thò
đầu ra khỏi
đám bông lau trắng xốp thở dài sườn sượt, “ở đây lạnh quá chừng”. Hoặc
khọt khẹt
ho, “rễ cây nó xuyên qua cổ anh rồi”.
- Đừng quên
anh, Dịu!
[To U. GNV]
(1) Cái tít
trên Sầu Riêng, Blog của Cô Tư, cũng thú lắm: Món gì giữa hai ngón chân cái?
Làm GCC nhớ "danh
ngôn thần sầu": Đàn bà ưa gãi ngứa giữa hai ngón chân, nhất là giữa hai
ngón chân
cái!
Hà, hà!
Xác
Bụi
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Cái tối trước khi Nhu đi, em
cầm tay Nhu luồn vào ngực mình, giọng
ríu lại “…nè”. Vì run rẩy mà nuốt mất chữ “Em cho…”. Nhưng Nhu kịp
hiểu, bàn
tay hấp háy. Rõ ràng là em chỉ hổn hển, không vùng vẫy tí nào vậy mà
hai đứa vẫn
đạp ngã hũ giấm. Sáng ra bước vô nhà củi, má em hết hồn tưởng đâu có
trộm: mấy
bó lá dừa khô dùng để nhen lửa bị tháo bung, giấm chảy chèm nhẹp ra
đất, khạp
tương thì rơi nắp.
Mùi giấm chuối chua khẳm lẫn
lộn mùi đậu tương mằn mặn. Tiếng gà lục
cục động ổ. Âm thanh lá dừa khô rột rẹt sột soạt lào xào theo mỗi
chuyển động của
đôi người. Mấy trái vú sữa chín cây rụng sau cú bay lên của đám chim
đêm. Lùi
xa hơn, là mùi cám ở nhà máy chà gạo, nơi em và Nhu lần đầu gặp nhau.
Mùi bông
bần ngát con đường xóm mà hai đứa thường về sau khi coi hát. Đó gần như
là tất
cả những gì Nhu có cùng em.
Chừng đó thôi cũng đủ, chúng cứ
đay đi đay lại thời con gái của
em. Đôi khi mùi tương thoảng qua mặt, em mắc cười nghĩ Nhu chơi trò này
thiệt
nhảm. Nhưng em vẫn không kìm được rùng mình như vẫn luôn rùng mình mỗi
khi Nhu
ào về mang theo một cảm giác thân thiết gợi nhớ về mối tình đã cũ.
Nhu vẫn thường về trong chiêm
bao của em, trong nhân dạng thằng
con trai mười chín tuổi. Trẻ hoài. Nhu đu nhánh bần, nói vói xuống, “ê,
nhớ anh
không?”. Hoặc thò đầu ra khỏi đám bông lau trắng xốp thở dài sườn sượt,
“ở đây
lạnh quá chừng”. Hoặc khọt khẹt ho, “rễ cây nó xuyên qua cổ anh rồi”.
- Đừng quên anh, Dịu!
Sau này, Nhu chỉ nói mỗi câu
đó, bằng lời nhẹ như gió, hoặc bằng vẻ
mặt buồn rượi, da diết, sương khói… làm em choàng dậy, mồ hôi đầm đìa
bết dính
tóc vào gối. Hôm em lấy chồng, đêm tân hôn Nhu thả vú sữa lơi lịch
bịch, mang
bao nhiêu mùi giấm mùi tương mùi cám vào buồng, em không biết có nên
rên lên để
chồng vui hay thôi. Em rên thể nào Nhu cũng mếu máo nghĩ, thôi rồi, em
ấy quên
mình rồi, quên sạch.
Nhưng em đâu có quên Nhu dễ
dàng như vậy. Có thể vì Nhu không để
em quên. Từ Nhu chết, em nghĩ mọi thứ quanh mình không có gì là bâng
quơ hết,
lá xóc nóc nhà xào xạc cũng là bước chân của anh bồ cũ. Những mùi hương
phảng
phất nửa đêm. Một đóm sáng nhói lên trong đêm tối, tan nhanh như một
thứ ảo ảnh.
Những giấc mơ mang bóng dáng Nhu buồn rượi. Những hình ảnh quen thuộc
trong góc
nhà xuồng như đóng cọc vào lòng mỗi khi em bước vào đó lấy trứng gà
trên ổ. Cái
cảm giác Nhu ở quanh đây làm em cười giòn cũng ngại. Chồng em đã quen
việc nửa
đêm vợ tự dưng ngồi dậy ngó quanh, thuộc cái nỗi ám ảnh của thằng bạn
cùng xóm
tên Nhu, nhận ra nỗi đắn đo hổn hển hay không hổn hển của vợ.
Chồng ít chạm vào người em, và
hay đi đánh cờ đêm với ông láng giềng.
Cửa nẻo lạnh lẻo. Em nghĩ tìm thấy Nhu đã, đưa anh về đất quê nhà, rồi
không
còn ngoái lại nữa, nhà cửa chắc ấm lên.
Anh Hai của Nhu vẫn thường nói
lạ lắm, nhà bên đó toàn người ruột
thịt, nhưng không ai mơ thấy Nhu lần nào. Em nghe, vừa thích vừa nặng
nề. Nhu
chỉ tin cậy và trông đợi vào mình thôi. Mình mà không tìm Nhu thì mặt
mũi nào.
Ý tưởng đó bị hoãn đi hoãn lại
nhiều lần, khi thì vì em có bầu, rồi
mẹ chồng bệnh, kế tới sinh con, nuôi đứa đầu vừa dứt mũi dãi lòng thòng
thì lại
nghén đứa thứ hai… Cũng có khi vì manh mối về Nhu mỏng quá, lúc đi thì
bảo đi cạo
mủ cao su, nhưng tin tức lần cuối là ở bãi vàng. Nhu về thường hơn. Lần
gần nhất
Nhu lẻn vô chiêm bao khoe cánh tay xăm ba chữ “hận mụt măng”. Tỉnh dậy,
em suy
đoán trên thân xác Nhu có một bụi tre.
Đàn bà ở xóm Lung hình như ai
cũng lấn bấn với người thân xiêu lạc.
Mẹ chồng kể hồi đi lấy cốt ba chồng, mẹ cứ khăng khăng với đám thợ đào
bới là mất
khúc xương giữa hai đùi, “tôi đếm kỹ rồi, còn thiếu khúc đó”. Em cười
đến chảy
nước mắt. Mẹ lấy ba khi mới mười sáu tuổi, khờ căm, vẫn nghĩ sinh con
từ bên
hông. Ba bị pháo dập nằm ở miệt Trảng Bom, mẹ chưa kịp gần gũi đàn ông
khác,
nên không biết cái đoạn xương ấy chỉ là mẫu sụn thỉnh thoảng huênh
hoang ta đây
dũng mãnh.
Nghĩ, mẩu giữa hai ngón chân
cái Nhu chắc thành đất lâu rồi. Nhớ
thân thể Nhu và những va chạm vừa hoảng loạn vừa bổi hổi, vừa xa xôi
vừa máu thịt,
cảm giác đó em không tìm lại được ở chồng. Nên nhiều khi tiếc đến chảy
nước mắt
ra chớ không phải vừa. Rắn rỏi, chắc nụi, Nhu đã làm em tê mê ú ớ, ngay
lần đầu
tiên của hai đứa. Thích quá chừng. Hồi chưa có tin báo Nhu bị vùi đâu
đó ở bãi
vàng, em cứ nghĩ mai kia Nhu về, lại ôm nhau ấy nhẩn ấy nha vào nhẩn ra
nha lên
nhẩn xuống nha bù cho đêm nào vội vã. Em nhớ đầu gối Nhu bị xước khi
quỳ trên nền
đất cứng đanh. Nhớ tấm lưng Nhu hay đưa cho em gãi, xuýt xoa khen đã
ngứa quá.
Gương mặt xương có đôi môi dày, và mớ tóc cháy nắng cứng đờ khi gại
trên ngực
em làm em kêu nhột… dần rã đi ở nơi nào đó, những ý nghĩ ấy gợi cho em
nỗi tuyệt
vọng âm thầm.
Nhưng em không cho mình cái
quyền được quên. Cảm giác em nói rằng
Nhu đang ở bên mình. Kệ em đã là mẹ của hai con vợ của ông chồng hiền
lành cộc
tính, Nhu luôn chứng tỏ sự có mặt của mình bằng cái mùi giấm bâng quơ,
mà nói
thiệt, có thanh thoát lãng mạn gì cho cam, nó cứ chua lè chua loét.
Trong mớ vũ
khí mà Nhu vẫn thường tấn công vào những lúc em chập chờn nửa mê nửa
ngủ, chỉ
có hoa bần là mát lành nhất, nhưng cũng mỏng manh nhất. Nhu cần thứ gì
đó xộc
thẳng vào tim óc em, để cái nhớ phải nhảy dựng lên, chong lên ý nghĩ
tìm Nhu,
phải tìm Nhu.
Có lần, trong lúc cho con ăn,
em bận nối những ảo ảnh tìm một manh
mối nào đó, lơ đãng để con mắc xương gà. Vừa khóc vừa vác con chạy lại
trạm xá,
em nghĩ chuyện này phải kết thúc ở đây. Phải kết thúc.
Em đi tìm những ông thầy Ba cốt
cô Bảy, nhờ họ vẽ cho một con đường
tìm Nhu. Lúc đầu xách nón đi hai thằng con kêu khóc. Sau này tụi nó vẫy
tay cười
rất tươi. Sau nữa tụi nó hỏi sao lúc này má không đi thầy?
Hôm người nhà Nhu bày mâm cúng
vái để bật gốc bụi tre gai ở bãi đất
hoang cách quê nhà hơn một ngàn cây số bới tìm xương cốt thằng con trai
yểu mạng,
em cũng rủ chồng con đi cùng. Hai đứa trẻ đẻ năm một phá như quỷ sứ,
thấy người
lớn không để ý, liền cầm hai đoạn xương ống làm vũ khí đánh nhau choang
choang,
miệng còn giả âm thanh chém gió của phim kiếm hiệp. Giây phút đó, dù
rất cố gắng,
nhưng em vẫn không tìm được chữ nào tử tế, sang trọng để gọi tên mấy
thứ bày ra
trên tấm vải liệm kia ngoài hai chữ: đống xương.
Cả mùi người, chúng cũng không
còn giữ lại.
Mấy đoạn cốt tanh bùn này đã
làm cho em đổi tóc xanh thành tóc trắng.
Lúc em kêu la chạy theo tụi nhỏ đòi lại hai cái xương, chúng cứ tưởng
mẹ giỡn,
vì nghĩ thứ này mà quan trọng gì. Cho đến khi nhìn mẹ đổ sụp ra đất,
tụi nhỏ
cũng chưng hửng. Có gì đâu mà khóc lóc ghê vậy.
Giây phút đó,
em tự hỏi mình đã
làm chi cuộc đời mình?
Mối tình xưa
Đoàn
làm phim tài liệu về nhà báo liệt sỹ Nguyễn Thọ tạm trú
ở trụ sở ấp văn hóa. Họ đã ở lại Mỹ Hưng thêm năm ngày, nhưng vẫn chưa
mời được
dì Thấm tham gia. Trần Hưng, tác giả kiêm đạo diễn phim, vốn là người
kỹ tính,
cầu toàn, anh bảo, làm phim Nguyễn Thọ mà không quay được chân dung
người yêu
ông, mối tình năm cũ của ông thì thà ở nhà chăn heo cho vợ còn sướng
hơn. Nên
cả đoàn phải nán chờ trong căn nhà bỏ phế bấy lâu, đất nền bị heo ủi
lục cục
lòn hòn, bìm bìm leo xanh rờn một bên rèm cửa.
Mấy
ông già trong xóm lại thấy cảnh tình nheo nhóc, thở dài,
tụi bây ở lì vậy không biết có ăn thua gì hôn đây, thằng Mười, chồng
con Thấm
tính tình khó khăn, ngang ngược, hổng giống ai.
Nên
chỉ con người này thản nhiên khi thấy đài truyền hình Xê
Tê tới, thản nhiên biểu vợ từ chối. Ngoài ông Mười ra, ở đây, ai cũng
muốn được
vô phim để kể về một Nguyễn Thọ anh dũng, tài hoa, đứa con thương nhớ
của vùng
đất Mỹ Hưng này, cho nói chút xíu thôi cũng được. Với Nguyễn Thọ thì
làm phim
nhiều tập mới xứng, nhóc chuyện. Hai mươi sáu năm rồi, nhưng mỗi ông
già bà già
đều nhớ thằng Thọ về lần nào cũng chui vô bếp lục cơm nguội ăn với mắm
sống, có
bộ đồ nhuộm pin đèn mặc chết bỏ luôn. Đám bạn đồng lứa nhớ Nguyễn Thọ
hồi nhỏ
đen thui, mặt mũi lúc nào cũng đóng rong rêu vì mới lặn lội dưới đìa
lên, hiền
mà cộc dễ sợ. Mấy ông bạn cùng tổ công tác vừa đọc truyện Mối tình nho
nhỏ của
Nguyễn Thọ vừa khóc, “Hỏng có nhà văn nào được như nó, viết truyện ngắn
mà ai
cũng mê, thuộc lòng như bài ca cải lương, đám cưới, đám giỗ, đám ma đều
đem ra
làm văn nghệ được hết”. Có ông khóc tồ tồ, “Cuống rún thằng Thọ còn
chôn ở đất
này mà tụi ác ôn không biết đã thủ tiêu xương cốt nó ở đâu?”. Trần Hưng
rất hài
lòng với những đoạn phim vừa thu được, nó nổi bật lên phần đời của
người chiến
sỹ này, giản dị mà cao quý, bình thường mà phi thường. Và chỉ thiếu một
câu
chuyện tình nữa thôi, một chân dung nữa thôi, bộ phim sẽ sâu sắc, xúc
động lắm.
Chỉ cần dì Thấm thôi.
Nhưng
đã cầu cứu chính quyền, thằng Thảo từ bên ngoại dong
về năn nỉ má nó, lớp trưởng bối ở xóm cũng lại bảo: “Thằng Mười mầy cho
con
Thấm lng víi qu¸ khø sao?) vµ còng v× c¸ch «ng d¹y th»ng Th¶o (®¸ng lÏ
con cña
NguyÔn Thä ph¶i ®îc n©ng niu, chiÒu chuéng). MÆt mµy th× th©m s×, kh
nó đi một
lần nữa thôi. Chuyện làm phim phiếc nầy nọ coi vậy cũng là làm việc
nước” nhưng
ông Mười vẫn nín thinh, ngồi vấn thuốc, uống trà, nhìn xa xôi. Mấy ông
già dội
ra, chống gậy te te về, bụng chửi, cái thằng, coi mặt chữ điền bự vậy,
cái
miệng rộng vậy mà ích kỷ, hẹp hòi. Nó không cho con Thấm đi chắc tại
ghen chớ
gì. Thằng Thọ chết ngắc rồi mà còn ghen.
Bảy
năm trước, lúc ông Mười gom hết thảy bốn chín cái thư
của Nguyễn Thọ gửi dì Thấm đem đốt hết, cũng không ai cản được. Mấy ông
viết sử
của tỉnh kêu trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải
chi
còn, đem in vô tập những bức thư tình hay nhất mặc dù chưa ai được xem
Nguyễn
Thọ viết ra làm sao). Nhưng thư đã thành tro rồi, ông Mười nói ông
không cần
biết chuyện giữ gìn bút tích của Nguyễn Thọ để làm tư liệu lịch sử, lưu
lại cho
thế hệ mai sau gì hết, ông thấy chướng mắt nên đốt, có bậy thì đem ông
bỏ tù
đi.
Nhưng
có ai bị bỏ tù với lý do lãng xẹt như vậy đâu. Chỉ
thằng Thảo, con của dì Thấm và Nguyễn Thọ là buồn lòng, bỏ về ngoại ở.
Dì út
Thía không chồng ôm đứa cháu nhỏ vô lòng, biểu mai mốt lớn rồi cháu
hiểu. Có gì
mà phải đợi lớn, hồi đó tới giờ, thằng Thảo có chọi chết gà nhà nào, có
bẻ trộm
trái ở vườn ai, bà con đều xuề xòa bỏ qua, nó là con Nguyễn Thọ mà, tội
nghiệp.
Họ còn bảo ở ngoài tỉnh nhiều đứa cậy ông cha mình có công còn làm
chuyện bậy
dữ hơn nữa kìa. Chỉ có ông Mười là răn đe, dạy dỗ, ghìm nó như ghìm con
ngựa
bất kham. Thằng Thảo dần trở thành một đứa đàng hoàng, tử tế, nhưng gặp
bất cứ
chuyện gì, trong lòng nó cũng có vết tì, tại mình hỏng phải là con ruột
của
ổng. Lâu ngày, ý nghĩ ấy đầy như nước lên tròm trèm trên mặt đập. Và
khi ông
Mười ngồi dựa cái cà ràng đốt xấp thơ của ba Thọ, nước đã vỡ bờ, nó lầm
lì xếp
hai cái quần cụt với mấy cái áo bỏ xuống bến đón tàu. Dì Thấm không thể
giữ nó
lại. Ông Mười lặng lẽ ngồi đốt thuốc, ngó cái lưng tôm của thằng Thảo
dưới bến,
lòng trĩu như đeo đá. Ông mà không thương nó à, không thương nó sao?
Ông thương
nó bằng chang con ruột ông đó chớ. Bây giờ nó không hiểu, chừng nào nó
lớn, yêu
thương ai đó, nó sẽ biết mà. Thằng Thảo đi rồi, nhà thành ra nặng nề,
dì Thấm,
người hiểu ông Mười nhất cũng giận, không thèm nói chuyện, có gọi thì
cũng
trống không, “Coi nhà giùm cái”, “Còn thuốc gò hút hôn? Đi chợ nè”,
“Cơm chín
rồi nghen”, ông Mười buồn cười quá, hỏi “Cơm ai nấu?”, dì trả lời “...
nấu chớ
ai”.
Chuyện
nguôi nguôi đi, nhà vẫn buồn, nhưng ông Mười không
đau lòng như những bữa từ ngoài ruộng về, ông nhìn thấy vợ cầm xấp thư
ở góc
nhà, ngồi khóc lặng. Ông thương vợ, cứ như hoài vầy thì đời được mấy
ngày vui.
Ông đem thư đi giấu trong kẹt bồ lúa, dì vẫn tìm ra, vẫn những bữa đi
đâu xa
về, dượng thấy đôi mắt vợ mình sưng húp. Buộc lòng ông đem thư đi đốt.
Chỉ còn
cách đó mới tìm lại nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm, vô tư
lự như
những ngày dì Thấm mới mười tám, hai mươi.
Cả
đời, ông chỉ mong người trong nhà hiểu mình chứ trông gì
người thiên hạ. Với cái tánh lầm lì, lạnh lùng, ít nói, có nói cũng
chậm rãi,
hưỡn đãi, thật khó để bộc bạch mình trước người. Về Mỹ Hưng với dì Thấm
từ sau
giải phóng, ông chưa cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảnh
ruộng
miếng vườn, cho bốn đứa con vừa chung vừa riêng nhưng đất quê vợ mãi
mãi không
yêu ông như một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy người yêu duy nhất của
Nguyễn Thọ
làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc
họp
mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay ông biết vui
hay buồn,
già đầu rồi chưa nói câu nào nghe ngọt ngào với vợ. Ông Mười nghe, buồn
quá mà
cười.
Ngay
bữa đầu Hưng đến, vừa bảo làm phim về Nguyễn Thọ, ông Mười
đã chụp cái nón lá lên đầu, bảo phải đi cưa củi. Hưng nấn ná lại với dì
Thấm,
hỏi dì có ngại không khi kể một chút về Nguyễn Thọ, đoạn ổng với dì yêu
nhau ấy
mà. Dì cười, ngẩng lên, khóe miệng nhẹ tênh, lắc đầu. Dì không ngại,
với làng
xóm láng giềng và cả với chồng. Thương người tử tế như anh Thọ thì ngại
gì với
bà con, lấy ngay thằng ác ôn nào mới mắc cỡ chớ, còn với ông Mười, dì
kể rồi,
bộc bạch hết chuyện xưa rồi, từ hồi hai người gặp nhau ở nhà máy chà Xã
Chọt.
Dì thuật tường tận những chỗ hai người gặp nhau, cả những lời thề hẹn.
Dì rót
trà mời Hưng, rồi bần thần nhìn ra sân, chỗ ông Mười hì hụi kéo cưa một
mình,
lưng đầm mồ hôi, dì bảo, thiệt tình tui hỏng có gì giấu ổng đâu, nhưng
chuyện
hồi đó với anh Thọ tôi nhớ hỏng hết. Già rồi...
Khách
ra về thì trời đổ mưa to, mưa mà nắng vẫn chang chang
trên đầu, trời hầm hập nóng, dì Thấm đi te ra chỗ đống củi, tần ngần
nhìn chồng
một chút rồi đằng hắng. Ông Mười không ngẩng lên. Dì lại e hèm, ngoảnh
nhìn
quanh quất kiếm chuyện để nói:
-
Củi bằng cườm tay để tui bửa cũng được, ông cưa chi mắc
công hôn?
Ông
không ngẩng lên:
-
Mắc công gì mớ bình bát nầy khô quá, tôi có bửa thử, nghe
dội búa, sức tôi còn vậy, ốm yếu như bà sao chịu nổi.
Dì
không nói nữa, ngồi dưới gốc ô môi, bới lại cái bới tóc
nhỏ teo ngắt như trái cau. Ông Mười chợt ngẩng lên, đưa khuỷu tay lau
mồ hôi
chảy tràn trên mặt, hỏi:
-
Tính đi không?
-
Không. Đi gì mà đi, lu bu muốn chết. Lên phim hỏng biết
nói cái gì, hư truyền hình của người ta.
Giọng
dì tỉnh rụi, như để bảo chồng đừng lo, chuyện phim gì
đó dì không để bụng, không thèm quan tâm đâu.
Tối
sau, Trần Hưng rủ thêm vài người tới nhà dì Thấm, anh
không quên xách theo chai rượu với mớ khô cá kèo mua đằng đầu xóm. Anh
nghĩ con
người này không dễ thuyết phục đâu, đem rượu lại coi có mở lòng ổng ra
được
không. Nhưng anh lầm, càng uống ông Mười càng im lặng, chỉ có đôi mắt
là dữ tợn
lên, đỏ ngầu ngầu dưới hai đám lông mày rậm rì chớm bạc phát ra những
tia nhìn
như xoáy thấu người khác. Nhậu đã đời cả đám cà xình cà xang về chỗ trụ
sở ấp
văn hóa mà không nói được gì hết, không thể nói. Trần Hưng nằm ngẫm
nghĩ, thấy
vừa rồi mình giống như con diều hâu ngồi nhậu với một con gà trống đang
xù lông
thủ thế bảo vệ vợ con nó.
Lần
thứ ba Trần Hưng lại nhà dì Thấm, anh đi một mình. Và
thêm một chai rượu nữa. Anh thôi làm diều hâu mà là một con gà trống
hiểu biết
khác, anh nói anh tới để từ giã, ngày mai đoàn phim về để làm hậu kỳ
cho kịp ra
mắt Ngày báo chí Việt Nam. Anh cười xòa, bị trắc trở như vầy cũng buồn,
nhưng
không sao đâu, có lần đi làm phim tụi tôi còn bị người ta vác đá rượt.
Làm công
việc này có lúc cũng đi moi móc nỗi đau của người khác ra, dày đi dày
lại...
Tôi cũng thương vợ như anh Mười đây, nhìn thấy vợ nó đau khổ, buồn bực
chuyện
gì, tôi cũng xót ruột lắm. Đôi mắt ông Mười dịu lại, ông xoay mãi ly
rượu trong
tay, rồi hớp từng hớp một, từ tốn như uống trà. Một hồi Hưng khật khừng
đứng
dậy từ giã, ông Mười mới lên tiếng, “Mai vợ chồng tôi lại”. Hưng nghe
mừng như
đánh lôtô trong bụng, thì ra trên đời nầy, ai cũng khao khát gặp được
tri âm,
gặp được người hiểu lòng mình.
Sáng
sau, ông Mười lấy xuồng đưa dì Thấm theo kinh Cỏ Chát
ra Gò Cây Quao. Nghe chồng biểu thì đi vậy chớ lòng dì Thấm cũng bần
thần. Cuối
vàm con kinh này là nhà ngoại dì Thấm, nhưng lần nào qua cúng giỗ, dì
đều chèo
vòng qua kinh Nhà Lầu để về. Bởi vì mỗi lần đi ngang, dì đều không nén
được nỗi
đau. Dưới kinh ngó lên, có thể thấy chòm cây xanh rì giữa đồng khơi. ở
đó, hồi
xưa là chỗ hẹn hò, dì quen thuộc từng bụi cây ngọn cỏ, từng bờ đất.
Nguyễn Thọ
cũng đã hy sinh ở đó, chỗ mé đìa lục bình, bên cây quao cụt ngọn.
Vì
vậy mà Trần Hưng mới dắt mọi người ra Gò Cây Quao để quay
cảnh kết, anh còn chu đáo rước cả thằng Thảo về. Đất đồng mùa này đã
cày, bờ
mẫu chơ vơ những bụi cỏ ống, bụi rạ bị đốt cháy nham nhở. Một đoàn
người lặc lè
đi dưới cái nắng tháng ba như chó le lưỡi. Ông Mười ngồi lại dưới
xuồng, đốt
thuốc, đăm đăm ngó khói lên trời.
Tới
chỗ chòm quao lớn giữa đồng, họ dừng lại. Trong khi đoàn
làm phim đang chỉnh trang máy, chọn góc quay, mọi người xúm lại cái cây
có
nhiều vết đạn nhất, kéo thằng Thảo lại, nhắc chuyện cũ mèm, “Hồi đó ba
mầy núp
ở đây nè, một mình nó ở lại chặn cho tụi thằng Ninh dẫn đám thanh niên
rút. Để
coi hồi đó là là tháng năm hen, anh Tám, cả xóm lúc đó cà núp cà ló vừa
dòm
chừng máy bay vừa cấy lúa”. Dì Thấm cứ lựng bựng không biết đứng đâu,
ngồi đâu.
Thằng Thảo kéo tay dì, tí ta tí tởn: “Ba Thọ chết ở đây nè má, lại coi
đi”. Dì
rầy, có gì mà coi, chuyện ba nó hy sinh mà. Trần Hưng lôi ra trong túi
áo xấp
hình Nguyễn Thọ đưa dì Thấm, đây là tư liệu quý giá nằm trong mớ hồ sơ
bên Mỹ
mới gởi ngược về. Trên những tấm hình trắng đen cũ kỹ hiện lên một mình
người
nằm cạnh cây súng đã gãy (nghe nói chính anh đập gãy sau khi bắn đến
viên đạn
cuối cùng). Một vuông ngực vỡ toác. Đôi mắt và đôi tay bị bọn ác ôn băm
nát.
Cái lồng ngực từng chứa một trái tim đỏ thắm, đôi mắt đã từng nhìn
người yêu
chan chứa, đôi tay đã từng iu ấp một đôi tay... Dì Thấm run rẩy nhìn
những bức
hình, hức lên một tiếng rồi rủ xuống như tàu chuối héo.
Trần
Hưng chỉ chờ có vậy, anh là tay trùm trong việc dẫn dắt
cảm xúc, anh hối người quay phim hướng vào khuôn mặt của dì Thấm đang
đầm đìa
nước. Trời ơi, cảnh này xúc động lắm, chân thực lắm, mấy nhỏ diễn viên
chuyên
nghiệp nhìn đây mà học. Trong một tích tắc, thằng Thảo lặng đi, nó nhìn
không
ra, không hiểu được người mẹ hồn hậu mủ mỉ hay cười của nó mới đây bỗng
biến
mất đâu rồi, chỉ còn lại một người đang quay quắt đau thương, vắt kiệt
mình như
cọng rạ cuối nắng.
Mãi
dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở
ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước
ra dỗ cho
dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo: “Mấy chú làm ơn dừng
lại một
chút” rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con,
lau khô
rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên
khuôn mặt
chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại,
dường
như ông cũng đau lắm, xót lắm.
Cậu
quay phim hỏi, quay nữa hôn, Hưng gật, xong lại lắc đầu,
bảo thôi, cảm thấy mình hơi có một chút nhẫn tâm.
Cuối
tháng sáu, phim được chiếu trên truyền hình, phim thiệt
là hay, thiệt xúc động, chân thực, đúng với phong cách Trần Hưng. Tất
nhiên,
phim không có cảnh ông Mười lau nước mắt cho vợ, nhưng những người có
mặt chứng
kiến buổi quay phim hôm ấy, cả thằng Thảo, là nhớ, cứ mỗi lần màn hình
lướt qua
vẻ mặt đau đớn, đẫm nước mắt của dì Thấm, họ lại nhớ tới một chiếc
khăn, một
bàn tay thô, một tấm lưng rộng.../.
Nguyễn
Ngọc Tư
(Tạp
chí Nhà văn)