|
ANNA SWIR
1909-1984
A few
centuries ago European poetry counted a number of poems on the dialogue
between
the soul and the body. This genre still exists, and here, in "I Talk to
A Body"
by Anna Swir, it is modified into the tender-humorous conversation of
woman
with her cherished possession.
I TALK TO MY
BODY
My body, you
are an animal
whose
appropriate behavior
is
concentration and discipline.
An effort
of an
athlete, of a saint and of a yogi.
Well trained
you may
become for me
a gate
through
which I will leave myself
and a gate
through
which I will enter myself.
A plumb line
to the center of the earth
and a cosmic
ship to Jupiter.
My body, you
are an animal
for whom
ambition
is right.
Splendid
possibilities
are open to
us.
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
TROUBLES
WITH THE SOUL
AT MORNING
CALISTHENICS
Lying down I
lift my legs,
my soul by
mistake jumps into my legs.
This is pot
convenient for her,
besides, she
must branch,
for the legs
are two.
When I stand
on my head
my soul
sinks down to my head.
She is then
in her place.
But how long
can you stand on your head,
especially
if you do not know
how to stand
on your head.
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
And yet, a
humorous poem written by a man addressing his belly couldn't have been
written.
A woman's belly is something very different emotionally. In any case,
it is a
proper partner for conversation.
I STARVE MY
BELLY FOR A SUBLIME PURPOSE
Three days
I starve my
belly
so that it
learns
to eat the
sun.
I say to it:
Belly,
I am ashamed
of you. You must
spiritualize
yourself. You must
eat the sun.
The belly
keeps silent
for three
days. It's not easy
to waken in
it higher aspirations.
Yet I hope
for the best.
This
morning, tanning myself on the beach,
I noticed
that, little by little,
it begins to
shine.
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Đọc Thơ Trước
Nửa Đêm
Ngu Yên
Anna Swir ('Swirszczynska)(
1909-1984 ) sinh
ở Warsaw. Tốt nghiệp đại học về Văn chương Ba lan. Bà làm thơ, viết
kịch và
truyện trẻ em. Qua đời vì bệnh ung thư 1984 tại Keakow.
NY
Note:
Krakow, không phải Keakow.
Bài thơ này, TV đã giới thiệu.
*
ANNA SWIR
1909-1984
Poetry
readings are not common in some countries. In others, among them
Poland, they
draw an audience that doesn't treat poetry as an aesthetic experience
only.
Rather, in
one way or another, such audiences bring to the event their multiple
questions
about life and death. This poem captures well the ignorance and
helplessness of
both the poet and her listeners.
Đọc thơ thì hơi bị hiếm ở vài xứ sở. Ở những xứ
khác, trong có Ba Lan,
thính giả kéo tới không chỉ để nghe đọc thơ, như 1 kinh nghiệm
thẩm mỹ, mà còn ưu tư về chuyện sống, chết, ba cái lăng nhăng khác nữa. Bài thơ dưới đây nắm bắt đúng cái sự
ngỡ ngàng, vô tri, bất lực, giữa
người đọc, và người nghe, thơ.
POETRY
READING
I'm curled
into a ball
like a dog
that is
cold.
Who will
tell me
why I was
born,
why this
monstrosity
called life.
The
telephone rings. I have to give
a poetry
reading.
I enter.
A hundred
people, a hundred pairs of eyes.
They look,
they wait.
I know for
what.
I am
supposed to tell them
why they
were born,
why there is
this
monstrosity called life.
Đọc thơ
Lạnh,
Tôi cuộn người
thành trái banh
Như giống chó
thường làm
Ai sẽ nói
cho tôi biết
Tại sao tôi
sinh ra
Tại sao cái
quỉ ma này
gọi là
cuộc đời
Chuông điện
thoại
Tôi phải đi
một đường đọc thơ
cho thính giả
mê thơ
Tôi đi vô
Cả trăm người
Cả trăm cặp
mắt
Họ nhìn
Họ đợi
Tôi biết họ
đợi gì
Đợi tôi nói
với họ
Tại sao họ
sinh ra
Tại sao có cái
quỉ ma gọi là cuộc đời
Translaled from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
Hay, bài này, cũng của ANNA SWIR
ANNA SWIR
1909-1984
THE SEA AND THE MAN
You will not tame this sea
either by humility or rapture.
But you can laugh
in its face.
Laughter
was invented by those
who live briefly
as a burst of laughter.
The eternal sea
will never learn to laugh.
Translated from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Natha
Biển và Người
Mi sẽ không thuần hóa biển
Bằng, hoặc khiêm nhường, hoặc say mê
Mi chỉ có thể cười vào mặt nó.
Tiếng cười được phát minh
bởi những kẻ
Cuộc sống ngắn ngủi
Như 1 phát cười
Biển vô tận
Chẳng bao giờ học cười.
Như Milosz
viết, chuyện đọc thơ không phải xứ nào cũng có. Bài thơ của Anna Swir
không phải
là về chán thơ, không thèm làm thơ nữa, tại sao Mai Thảo trốn thơ, sau
Lò Thiêu
mà còn làm thơ... mà là về cái chuyện đọc thơ, và trong những cuộc
đọc thơ
như thế, ở xứ Ba Lan của ông, thính giả hỏi đủ thứ chuyện, không chỉ về
thơ.
Xứ Bắc Kít cũng có trò đọc thơ này, trong thời gian chiến tranh Chống
Mẽo cứu
nước, và bi giờ, hết rồi. Và bi giờ, nhìn lại, thì Gấu biết là "bịp"!
[GCC sẽ đi 1 đường về kỷ
niệm này, sau]
V/v Krakow.
Zagajewski ra đời ở đây.
Thi sĩ Ba Lan hình như ông nào, bà nào cũng có viết,
làm thơ về Krakow
Krakow's
story: a Unesco City of Literature built out of books
Không chỉ
Zagajewski.
Szymborska
Are you
sure you don’t smoke?”
“Không hút
ư, thực hả?”
Bánh
Ngọt và Rượu Brandy với Szymborska
~ Posted by
James Hopkin, February 10th 2012
Vào khoảng
trưa ngày hôm qua, 9 tháng Hai, 2012, một điệu nhạc không chờ đợi, bất
ngờ, có
thể nghe được ở quảng trường chính của thành phố Krakow, Ba Lan. Thay
vì bản nhạc
truyền thống"hejnal", từ tháp nhà thờ St. Mary, thì tiếng kèn vang
lên một điệu nhạc buồn được viết ra để đi kèm với “Không gì hai lần”,
một bài
thơ của Wislawa Szymborska, nhà thơ Nobel văn chương Ba Lan, đã mất
tuần lễ trước,
thọ 88 tuổi.
Cách đó một
dặm rưỡi, tổng thống và thủ tướng Ba Lan cùng những nhân vật chức sắc
quan trọng
Ba Lan, trong tuyết rơi thật nặng, đã cùng tụ họp để tiễn đưa tro than
của nhà
thơ xuống lòng huyệt, tại nghĩa địa thành phố Rakowicki, theo âm
điệu của
một trong những bản nhạc mà bà yêu thích, "Cà Phê Đen" của Ella
Fitzgerald.
Quá xứng hợp.
Szymborska đã sáng tác một toàn bộ tác phẩm kết hợp sự thấu đáo, am
hiểu thật sâu
thẳm về nỗi buồn với cảm nhận, đánh giá chính xác, về cái phần sáng sủa
hơn,
vui tươi hơn, của cuộc đời. Học sinh toàn cõi Ba Lan, chúng gần như
thuộc lòng
những bài thơ của bà, như “Mèo Trong Phòng Trống”, “Yêu Từ Cái Nhìn Đầu
Tiên”,
“Chẳng Gì Hai Lần”, chúng làm chúng ngỡ ngàng vì cái vẻ giản dị dễ
thấm, và hứng
khởi. Lặng lẽ, thơ của bà đòi hỏi sự quả quyết, thầm thì lời cố vấn, và
dâng
tặng một trí tuệ dẻo dai, và một cảm quan tuyệt vời về hình dáng. Mặc
dù xb
chừng trên chục tập thơ, bà tiếp tục làm thơ, gần như cho đến khi mất.
Nổi tiếng vì
riêng tư, kín đáo, bà ít khi nhận lời phỏng vấn, nhưng đã gật đầu cho
phép tôi,
vào năm 2000, cho tờ báo Anh, the Guardian.
“Đừng hỏi về những bài
thơ”, bà
nói, vui vẻ gạt bỏ những câu có tính kinh điển, học viện. “Hãy hỏi tôi
về những
núi non”. Khi tôi nói, bữa nay là sinh nhật của tôi, bà vỗ tay hài lòng
và vô
nhà bếp, mang ra bánh ngọt và rượu brandy, và hai gói thuốc lá. Bà
chẳng thú gì
khi tôi lắc đầu chê thuốc lá, và còn gặng hỏi, “Không hút ư, thực hả?”
Then in her
mid-70s, Szymborska was alert and attentive, and ever so slightly
flirtatious.
I listened to the hour-long tape again this week. Her voice, like her
work, is
melodic, teeming with notes that run from sadness to glee, the latter
accompanied by laughter and clapping. "I'll remind you in infinite
detail," she writes in "Archaeology", "Of what you expected
from life besides death."
Rồi
thì, vào giữa thập niên của cái tuổi bẩy bó của mình, như hồi xuân, bà
trở nên
tỉnh táo, cảnh giác, chú tâm, và có thể, còn thích thích, nếu có người
tán tỉnh mình. Tôi lại ngồi nghe cả giờ cuộn băng dài. Giọng bà, như
thơ của bà, mới sến làm sao, đầy những “nốt” chạy từ buồn bã tới hân
hoan, kèm tiếng
vỗ tay rộn ràng, và tiếng cười ròn rã,
“Tôi sẽ nhắc nhở bạn trong thiên thu chi
tiết,”
[như dòng thơ của bà, trong “Khảo cổ học”]
“Về cái điều mà bạn mong ước, đợi
chờ, hoài vọng,
về cuộc đời,
bên cạnh cái chết”.
Nhân nhắc đến
Krakow, bèn post bài thơ viết về Thảo Cầm Viên của thành phố, của nhà
thơ đồng
hương của Szymborska, Zagajewski.
THE BOTANIC
GARDEN
In the
Krakow Botanic Garden
I came upon an Asiatic tree
bearing the
name Chinese Metasequoia-a lovely
tree
with ragged, palmate needle-leaves.
But why
metasequoia-not just a regular sequoia?
Does the metasequoia
grow beyond itself?
Does it tower above the other trees?
Have even
plants begun to draw upon
the arcane
jargon
of certain
academic sages?
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Thảo Cầm Viên
Trong Thảo Cầm
Viên Krakow
Tôi mò ra một
cây Á châu
Có cái tên Siêu Bách Tầu -
một cây thật dễ thương,
lá
giống như những cây kim hình chân vịt, rách tả tơi.
Nhưng tại
sao một siêu bách mà không là cây bách bình thường?
Liệu thứ siêu
bách đó lớn lên vượt quá cả chính nó?
Liệu cái tàn
lá kia sẽ phủ lên những cây khác?
Liệu có những
loài cây lớn lên,
và phủ lên những biệt từ đám kinh viện dành cho chúng?
UNWRITTEN
ELEGY
FOR KRAKOW'S
JEWS
My family
lived here for five hundred years - DR. M. S.
But Joseph
Street is the saddest, spare as a new moon,
not a single tree though not
without charm,
the dark
charm of a province, of parting, a quiet burial;
in the
evening shadows gather here from every neighborhood,
and even some brought by
trains from nearby towns.
Joseph was
the Lord's favorite, but his street knew no
happiness,
no pharaoh
distinguished it, its dreams were sorrowful,
its
years were lean.
In the
Church of Corpus Christi I lit candles for my dead,
who live far off-I don't
know where
-and I sense
they warm themselves in the red flame too,
like the homeless by a fire when the
first snow falls.
I walk the
paths of Kazimierz and think of those who are
missing.
I know that
the eyes of the missing are like water and can't
be seen-you can only drown in
them.
To hear
footsteps in the evening-and see no one.
They walk
on, although there's no one here, the tread of
women in
boots
shod with
iron, beside the hangman's quiet, almost tender
steps.
What is it?
As if black memory moves
above the
city, like a comet withdrawing from the stratosphere.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Bi
khúc chưa viết
cho những người Do Thái ở
Krakow
Gia đình tôi
sống ở đây 500 năm
rồi - DR. M. S.
Nhưng con phố Joseph
Street
thì buồn nhất,
và gầy, như 1 vừng trăng non
Tuy nhiên, không 1 cái cây riêng lẻ nào mà không có sự mê hoặc
Sự mê hoặc âm u của một thị trấn, của sự ra đi, của sự chôn cất
Vào buổi chiều những cái bóng từ mọi khu xóm tụ tập về đây
Còn có cả những cái bóng đến bằng xe lửa từ những thành phố kế cận
Joseph [HV] là con cưng của Chúa,
nhưng con phố của anh ta
thì đếch biết hạnh phúc là cái chó gì!
Hà, hà!
Chẳng có một vì vua pharaoh nào nhận ra nó
những giấc mơ của nó thì u sầu, những năm tháng thì mới gầy guộc làm
sao.
Ở nhà thờ Church of Corpus
Christi, tôi đốt nến cho những người chết
của tôi
họ sống ở đâu đó, xa vời, làm sao tôi biết được –
và tôi cảm thấy
họ tự ấm họ lên trong ánh lửa đỏ,
như những người vô gia cư kế bên ngọn lửa, khi tuyết đầu mùa đổ xuống.
Tôi đi bộ trên
những lối đi ở
Kazimierz và nghĩ tới những người mất tích
Tôi biết mắt
của họ thì giống như nước,
Và không thể
được nhìn thấy – bạn chỉ có thể chết chìm ở trong đó.
Nghe những
bước chân của họ vào buổi chiều - và chẳng nhìn thấy một
ai
Họ bước đi,
mặc dù chẳng có ai ở đây,
tiếng bước
chân của những
người đàn bà mang giầy bốt,
bịt móng sắt,
bên cạnh tiếng bước chân lặng lẽ, dịu dàng, êm ái
của tên treo
người, kẻ sát nhân,
gã đao phủ.
Cái gì vậy?
Như thể một hồi ức đen chuyển động ở phiá bên trên thành
phố
Như ngôi sao chổi rút ra
khỏi tầng
bình lưu.
ANNA SWIR
1909-1984
Poems about an old woman
are rare, as if there were a tendency to relegate her to the realm of
half-existence. But Polish poet Anna Swir returns to that subject
several times with love and compassion.
Thơ về bà già thì hiếm,
như thể, có khuynh hướng coi bà già thuộc ‘nửa cõi’, [chân trong chân
ngoài, huyệt; hay, giường?].
Tuy nhiên nhà thơ nữ Ba Lan, Anna Swir, trở lại với đề tài này vài lần,
với tình yêu và cảm thông
THE GREATEST LOVE
She is sixty. She lives
the greatest love of her life.
She walks arm-in-arm with
her dear one,
her hair streams in the wind.
Her dear one says:
"You have hair like pearls."
Her children say:
"Old fool."
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Mối tình vĩ đại nhất
Nàng sáu bó,
sống mối tình lớn lao nhất của nàng.
Nàng dạo bước, tay trong
tay với người tình
Tóc nàng chảy dài theo gió
Người yêu nịnh nàng:
“Tóc em như ngọc trai”.
Mấy đứa con của nàng thì
gật gù:
“Đúng là bà già khùng!” (1)
Note: Bài thơ này, để ở
mục “Cali”, là vì nó làm nhớ đến 1 kỷ niệm tuyệt vời liên quan tới Cali
Tháng Tám, và hơn thế nữa, đến mối tình cực nhảm, cực già, và cũng cực
thê luơng của GCC!
Hà, hà!
Lần đó, Gấu
qua Tiểu Sài Gòn, ở nhà họa sĩ NDT, và 1 buổi sáng, có 1 bà bạn của phu
nhân họa
sĩ, tới thăm. Bà đẹp quá, trắng nõn, và bất thình lình Gấu “chẳng xém 1
tí”, mà
liền mê bà. Lạ làm sao, bà cũng bị xúc động, đến quên tất cả. Khi Gấu
chợt tỉnh,
thì bà cũng chợt tỉnh, không còn là 1 thiếu nữ nữa, như Gấu là 1 tên
già sắp ngỏm.
Và bà, mặt đỏ
ửng, bẽn lẽn nói, chẳng ăn nhập gì với tình cảnh, và, như có vẻ xin
lỗi, “Tôi,
tôi sáu chục tuổi rồi đấy!”
Sau đó,
khi
bà bạn ra về, phu nhân họa sĩ NDT cười ngất, ối giời ơi, anh Gấu ơi, bà
đó già
hơn cả tôi đấy!
Bà chứng kiến
suốt, cú sét đánh, của cả hai!
Thơ
Mỗi Ngày
Anna Swir
ANNA SWIR
1909-1984
Poems about an old woman
are rare, as if there were a tendency to relegate her to the realm of
half-existence. But Polish poet Anna Swir returns to that subject
several times with love and compassion.
Thơ về bà già thì hiếm,
như thể, có khuynh hướng coi bà già thuộc ‘nửa cõi’, [chân trong chân
ngoài, huyệt; hay, giường?].
Tuy nhiên nhà thơ nữ Ba Lan, Anna Swir, trở lại với đề tài này vài lần,
với tình yêu và cảm thông
THE GREATEST LOVE
She is sixty. She lives
the greatest love of her life.
She walks arm-in-arm with
her dear one,
her hair streams in the wind.
Her dear one says:
"You have hair like pearls."
Her children say:
"Old fool."
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Mối tình vĩ đại nhất
Nàng sáu bó,
sống mối tình lớn lao nhất của nàng.
Nàng dạo bước, tay trong
tay với người tình
Tóc nàng chảy dài theo gió
Người yêu nịnh nàng:
“Tóc em như ngọc trai”.
Mấy đứa con của nàng thì
gật gù:
“Đúng là bà già khùng!” (1)
Note: Bài thơ này, để ở
mục “Cali”, là vì nó làm nhớ đến 1 kỷ niệm tuyệt vời liên quan tới Cali
Tháng Tám, và hơn thế nữa, đến mối tình cực nhảm, cực già, và cũng cực
thê luơng của GCC!
Hà, hà!
Lần đó, Gấu
qua Tiểu Sài Gòn, ở nhà họa sĩ NDT, và 1 buổi sáng, có 1 bà bạn của phu
nhân họa
sĩ, tới thăm. Bà đẹp quá, trắng nõn, và bất thình lình Gấu “chẳng xém 1
tí”, mà
liền mê bà. Lạ làm sao, bà cũng bị xúc động, đến quên tất cả. Khi Gấu
chợt tỉnh,
thì bà cũng chợt tỉnh, không còn là 1 thiếu nữ nữa, như Gấu là 1 tên
già sắp ngỏm.
Và bà, mặt đỏ
ửng, bẽn lẽn nói, chẳng ăn nhập gì với tình cảnh, và, như có vẻ xin
lỗi, “Tôi,
tôi sáu chục tuổi rồi đấy!”
Sau đó, khi
bà bạn ra về, phu nhân họa sĩ NDT cười ngất, ối giời ơi, anh Gấu ơi, bà
đó già
hơn cả tôi đấy!
Bà chứng kiến
suốt, cú sét đánh, của cả hai!
ANNA SWIR
1909-1984
I have
translated a number of poems by Anna Swir (in reality, Anna
Swirszczynska),
because I value her for the intensity and warmth of her poetry,
dictated by
eros, or by empathy and pity for suffering people. Her poems on war and
the
Nazi occupation in Poland are among the best in their conciseness. She
was also
a militant feminist and author of uninhibited love poems.
THE SAME
INSIDE
Walking to
your place for a love feast
I saw at a street corner
an old
beggar woman.
I took her
hand,
kissed her
delicate cheek,
we talked, she was
the same
inside as I am,
from the same kind,
I sensed
this instantly
as a dog
knows by scent
another dog.
I gave her
money,
I could not
part from her.
After all, one needs someone who is close.
And then I
no longer knew
why I was
walking to your place.
Translated from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
Tôi đã dịch
một số bài thơ của Anna Swir (tên thực, Anna Swirszczynska), bởi vì
tôi rất chịu
sức căng, sự ấm áp của thơ bà, được phán ra thật bảnh, bởi sự ướt át,
hay bởi lòng thấu cảm, thương hại dành cho những con người đau khổ.
Những bài
thơ về chiến tranh, về Nazi chiếm đóng Ba Lan, là trong số những bài
bảnh nhất,
do cái sự súc tích, kiệm lời của chúng. Bà còn là 1 nhà nữ quyền dấn
thân, và tác
giả một số thơ tình “vượt rào”
Bên trong như
nhau
Đi bộ tới nơi
bạn ở để dự một bữa tiệc tình
Tôi nhìn thấy
ở góc phố
Một bà già hành
khất
Tôi cầm tay
bà
Hôn má mảnh
khảnh của bà,
Chúng tôi nói
chuyện
Bà, bên
trong của bà, y chang bên trong của tôi
Từ cùng một
thứ
Tôi cảm thấy
điều này liền lập tức
Như một con
chó ngửi ra liền mùi của một con chó khác.
Tôi cho
bà
tiền
Và không làm
sao rời bà.
Thì cũng thường
thôi, nói cho cùng
Ai đó, thì cần ai
đó, cận kề.
Thế là tôi
quên mất,
Tại làm sao
tôi đi bộ tới chỗ bạn ở.
ANNA SWIR
1909-1984
Anna Swir is
the author of a moving cycle of poems about her father and mother, of
whom she
speaks with attachment and gratitude, which seems to me striking in
view of a
common tendency, particularly among young poets today, toward just the
opposite. It is not without importance to know her biography. She was
the only
daughter of a painter who was abysmally poor. She grew up in his
atelier in
Warsaw.
I WASH THE
SHIRT
For the last
time I wash the shirt
of my father who died.
The shirt
smells of sweat. I remember
that sweat from my childhood,
so many
years
I washed his
shirts and underwear, I dried them
at an iron
stove in the workshop,
he would put them on unironed.
From among
all bodies in the world,
animal, human,
only one
exuded that sweat.
I breathe it in
for the last
time.
Washing this shirt I destroy it
forever.
Now
only
paintings survive him
which smell of oils.
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Anna Swir có
1 vòng thơ thật cảm động về bố và mẹ, và bà nói về họ với sự quấn quýt
và lòng biết
ơn. Bà là cô con gái độc nhất của họ, và ông bố là một họa sĩ nghèo thê
nghèo
thảm. Bà lớn lên trong xưởng vẽ của ông bố tại Warsaw
Tôi
giặt chiếc
áo sơ mi
Đây là lần
chót tôi giặt chiếc áo sơ mi
của ông già tôi, người đã mất.
Chiếc áo ngửi
có mùi mồ hôi.
Tôi nhớ mùi
mồ hôi này từ còn là một đứa con nít
Bao nhiêu năm
rồi
Tôi giặt chiếc
áo sơ mi và quần áo lót của ông già tôi
Tôi phơi khô
nhờ cái lò sắt ở xưởng vẽ
Và ông già tôi
sẽ mặc mà chẳng cần ủi
Từ tất cả
những
thân xác trên thế giới
vật, người
chỉ có một,
toát ra mùi mồ hôi đó
Tôi hít nó lần chót.
Giặt áo lần
cuối
Là tôi tiêu
huỷ nó, đời đời
Bây giờ chỉ
còn những bức tranh sống sót ông già tôi
Vì ngửi chúng có mùi
dầu.
Anna Swir
(1909 - 1984)
Virginity
One must be
brave to live through
a day. What
remains
is nothing
but the pleasure of longing—very precious.
Longing
purifies as
does flying, strengthens as does an effort,
it fashions
the soul
as work
fashions the
belly.
It is like
an athlete, like a runner
who will
never
stop
running. And this
gives him
endurance.
Longing
is
nourishing for the strong.
It is like a
window
on a high
tower, through which
blows the
wind of strength.
Longing,
Virginity of
happiness.
Anna Swir
(1909 - 1984)
Happy as a
Dog’s Tail
Happy as
something unimportant
and free as
a thing unimportant.
As something
no one prizes
and which
does not prize itself.
As something
mocked by all
and which
mocks at their mockery.
As laughter
without serious reason.
As a yell
able to out yell itself.
Happy as no
matter what,
as any no
matter what.
Happy
as a dog’s
tail.
Anna Swir
(1909 - 1984)
Myself and
My Person
There are
moments
when I feel
more clearly than ever
that I am in
the company
of my own
person.
This
comforts and reassures me,
this
heartens me,
just as my
tridimensional body
is heartened
by my own authentic shadow.
There are
moments
when I
really feel more clearly than ever
that I am in
the company
of my own
person.
I stop
at a street
corner to turn left
and I wonder
what would happen
if my own
person walked to the right.
Until now
that has not happened
but it does
not settle the question.
|
|