|
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Gấu gặp lại
cô bạn ngày nào [cô bạn của Cõi Khác],
tại xứ lạnh, nhờ vậy mà làm được mấy bài
thơ. Trước Gấu cứ nghĩ, mình chẳng bao giờ làm được thơ, và khi làm
được mấy
bài thơ, thú quá, và cứ tưởng tượng ra bộ mặt ngạc nhiên của ông anh,
khi ông
nghe Gấu huênh hoang tuyên bố, sẽ viết về thơ của ông, cho số Văn đặc biệt dành
cho ông.
Mấy bài thơ,
sau được in trong tập Lần Cuối Sài
Gòn. Khi đó, không có địa chỉ của ông anh,
phải nhờ một người quen vẫn thường liên lạc với ông chuyển giùm.
Qua cô bạn,
và có thể, vì cô bạn, nhưng đúng ra, vì quá chán văn chương, Gấu bèn
học, thi,
lấy cái bằng bán bảo hiểm nhân thọ, và phải mặc còm lê, thắt cà vạt,
chụp cái
hình, đi vài đường quảng cáo trên báo địa phương, kèm địa chỉ, số điện
thoại,
và, để kiếm khách, đăng kèm bài viết [tưởng đã thoát, không phải viết
nữa]
Cô bé sinh
viên Bắc Kít đọc Gấu, từ những tờ báo đó, và cũng có số điện thoại của
Gấu, là
do vậy. Thời gian đó, Gấu chưa viết cho báo Cali.
*
Thế rồi bữa
đó, cô bé gọi cho Gấu.
Cô nói, cô đọc
Gấu. Gấu cũng chẳng hỏi đọc ở đâu, nhưng liền đó, cô nói giọng thủ thỉ,
đúng
cái giọng cô con gái con ông chủ nhà xuất bản, trong Eva, người duyệt
bản thảo
của anh chàng đạo văn [Đọc một cái là rụng rời chân tay, “đây rồi,
chàng đây rồi,
đúng là chàng rồi."], nhưng khác một chút, trong giọng thủ thỉ của cô
bé,
là ước mơ trở thành nhà văn, chứ không phải trở thành người yêu của Gấu
nhà
văn, "ôi chao, làm sao, làm thế nào, ước gì cháu viết được như thế, chú
viết
đúng như là cháu tưởng tượng ra, cháu sẽ viết như thế…"
Gấu sướng mê
tơi, nhưng chợt giật mình, hỏng rồi, hỏng rồi, có cái gì ngài ngại ở
đây, phải
coi chừng, coi chừng…
Vào thời
gian đó, có cái trò, mấy bà mượn một cô nào đó, gọi điện thoại, tán
tỉnh ông chồng
của mình, và sau đó, chọc quê đấng lang quân cứ tuởng bở.
Và khi cô bé
nói, nhà cô không có điện thoại, phải mượn điện thoại nhà cô bạn gọi
cho Gấu, Gấu
bèn nói, cô có số điện thoại của Gấu, có biết địa chỉ của Gấu, bữa nào
rảnh,
ghé thăm vợ chồng Gấu.
Nghe nhắc đến
Gấu Cái, cô bé cúp điện thoại.
Kỷ niệm đẹp
nhất trong đời viết văn của Gấu chỉ có vậy.
Rất nhiều
đêm, Gấu vẫn được nghe giọng thủ thỉ của cô bé, tiếp tục câu chuyện
dang dở
ngày nào.
Giọng Bắc
Kít. Đúng giọng Cô Hồng Con của Gấu. Đúng giọng Bông Hồng Đen của Gấu.
Đúng giọng
tất cả những cô gái Bắc Kít quê hương ngày nào của Gấu.
Sau này, Gấu
đoán, có thể cô bé đọc Cõi Khác,
hoặc Ký Ức Còn Mãi. Thời gian
đó, Gấu
cho
đăng, chỉ có hai truyện đó, đều viết về cô bạn, nhân gặp lại nơi xứ
lạnh, mà viết
được, và còn đẻ ra được thêm một dúm thơ.
Tất cả là nhờ
cô bạn.
Nhờ cô ra lệnh,
đọc vậy đủ rồi, viết đi.
Chắc là cô
muốn nói, viết về tôi đi, nhưng cũng ngượng!
*
Cái mẩu sáng
tác đầu tiên, khi tới xứ lạnh, Ký Ức
Còn Mãi, Gấu viết theo ‘order’, của một đệ
tử của NTV, tay này lúc đó phụ trách một đặc san sinh viên học sinh
Mít, Gấu nhớ
đại khái.
Cô bạn là
người đầu tiên đọc bản thảo, than, anh đâu phải là tôi, anh đâu phải là
đàn bà,
mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của tôi, như thế?
Còn Gấu Cái,
thì bực lắm, và, lẽ dĩ nhiên, chê, đúng là thứ văn cải lương, vãi lệ!
Mẩu văn sau
mất tiêu luôn cùng tờ báo, và Gấu viết lại, nhưng, mất mát, phiêu lạc,
quên
lãng, tất cả, chỉ còn một câu độc nhất:
Tôi cứ tưởng
tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con,
với cuộc
đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên giấc, lặng lẽ
thả từng
cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ
tiếng vọng
của một thời nào đã xưa, đã cũ…(1)
Câu độc nhất
còn nhớ lại được đó, là để nói về một… cô gái khác, khiến cô hiểu lầm,
‘chú viết
như vậy không được kín đáo’, cô viết mail than phiền.
Ấy là vì,
cô, dung nhan, phong thái y hệt cô bạn ở trong Cõi Khác, và trong Ký Ức Còn
Mãi. Cái cô than thở, anh đâu phải là tôi, mà sao đọc ra lòng dạ
của tôi, tại
sao bao nhiêu năm rồi, mà những tình cảm của anh dành tôi ngày nào vẫn
y như vậy?
Cái cô bạn,
mà Gấu những ngày còn trẻ, khi, vừa nghe nói tên một cái, là đã đinh
ninh, đây
là một nửa linh hồn của mình, vậy mà vẫn muộn màng, không kịp với số
mệnh, số mệnh
theo nghĩa, đến thần thánh, Thượng Đế, ma quỉ… bất cứ cái gì gì cũng
phải cúi đầu
khuất phục!
Ngay cả Gấu
Cái, lần đầu tiên nhìn thấy cô sau, cũng giật mình, sao mà giống ’cô
phù dâu’
ngày nào thế!
(1) Câu văn,
mãi sau này, Gấu tìm ra nguồn của nó, là của một nhà văn nước ngoài,
nói về
chuyện in thơ ở Mẽo, cứ như thả một cánh hoa xuống Grand Canyon, rồi
đợi tiếng
vọng của nó, đại khái như vậy.
Thú thực,
không hiểu, Gấu viết câu của Gấu, rồi mới đọc câu của người, hay ngược
lại.
Tuy nhiên, đọc
kỹ, thấy mùi vị hiện sinh, của Camus, trong Người đàn bà ngoại tình.
Truyện
ngắn
này, hay đúng hơn, toàn cõi văn của Camus là đều chỉ để nói về Lưu đầy
và Quê
nhà:
Quê nhà là cõi đã mất kia.
Coetzee đọc The
Pickkup của Gordimer, coi như được mặc
khải từ Người đàn bà ngoại tình của
Camus: Câu chuyện một người đàn bà Algeria gốc Pháp, steals away from
her
husband in the night in order to expose herself to the desert and
experience
the mystical ecstasy, physical as much as spiritual, that it induces.
[Coetzee: Nadine Gordimer] (1)
NQT
… “steals
away from her husband in the night in order to expose herself to the
desert and
experience the mystical ecstasy, physical as much as spiritual,
that it
induces.”
Tuyệt!
Đây
là cách đọc đúng nhất Người đàn bà ngoại
tình của Camus:
Phải có tí
trần tục, “mồ hôi, mồ hám”, “em đã biết
tay anh chưa”… mới được!
Tao
[VL] đã phải nhờ thằng Nguyễn
Thuỵ Long
đi lùng khắp mấy tiệm bán sách báo cũ mới có được mấy số này đấy! (1)
Đầu
năm 1949 tôi bỏ Sài Gòn về Hà Nội. Từ một thành phố yên ổn vui tươi trở
lại,
tôi rơi xuống một thành phố điêu tàn ngơ ngác. Những ngày đông lạnh lẽo
ngắn
thêm vì giờ giới nghiêm. Ngay giữa phố đông đúc như Hàng Bông, Hàng Đào
vẫn còn
nhiều nhà đổ nát tan hoang. Khoảng bẩy giờ tối hết xe điện, người ta
nhường phố
xá cho lính lê dương say rượu. Thỉnh thoảng về muộn tôi phải đi qua
những phố vắng
tanh, vội vã lẩn lút trên vỉa hè hay sau hàng cây như một tên ăn trộm.
Có khi
lính Tây đuổi tôi để được la hét cho đỡ buồn, tôi chạy quanh co hết phố
này
sang phố khác như chơi dượt bắt với chúng. Một hôm tôi bị rượt nà từ
phố Đường
Thành, chạy về Quan Thánh. Vừa băng qua vuờn hoa Hàng Đậu sang phiá Nhà
Thương
Khách thì từ một ngách tối một tên xồ ra chụp được tôi.
Tôi vùng vẫy và đánh trúng mặt nó khiến cái mũ trắng
rơi xuống
đất, tôi có thể chạy thoát. Nhưng tôi đứng nguyên một chỗ nhìn tên lính
cúi xuống
nhặt mũ, nó cười sằng sặc. Nó trẻ bằng tôi, mắt xanh như mắt mèo. Nó
quàng vai
tôi, mời tôi vào quán uống rượu. Tới mười giờ đêm, nó dìu tôi về tận
nhà. Trước
khi chia tay, nó ôm hôn lên đầu cổ tôi như mưa rồi khóc. Tôi tức giận
gạt mạnh
nó rồi lảo đảo vào nhà. Chị tôi sợ hãi đóng chặt ngay cửa. Tên lính còn
đứng lại
đập cửa la hét nguyền rủa hàng giờ sau mới chịu bỏ đi.
TTT
& ông em Dzư Văn Chất - ngồi sau - vườn Bờ Rô
Phải
đến khi TTT mất, Gấu lên San Jose gặp bạn C, nghe anh nói, thì mới biết
chuyện
cả hai anh em đã từng ở Sài Gòn, từ khi còn nhỏ, và mới hiểu ra những
dòng mở
ra Cuối Đường.
Bà
cụ C, sau khi ông cụ mất, lo buôn bán nuôi con, vô Nam, gặp cô em lấy
chồng Nam
Kỳ, và nhờ cô em trông nom hai ông con.
Chồng bà cô của bạn C, là Đại Tá Út, tỉnh
trưởng Bạc Liêu [hay Cà Mâu, Gấu không nhớ rõ], là người mà mỗi lần về
Sài Gòn, là bạn
C. thông báo, "Viện Trợ Mỹ tới rồi", những ngày Gấu học cùng lớp với
anh, lớp Đệ
Nhất, ban Toán [B.8] trường Chu Văn An, Sài Gòn.
Khi
thằng em
Gấu ra trường Thủ Đức, được phái về 1 đơn vị địa phương quân coi phi
trường Sóc
Trăng, Gấu chạy lên gặp bà cụ C. Bà nói với Đại Tá Út. Ông viết cho mấy
chữ vô
cái danh thiếp, và Gấu đưa cho thằng em trai trong 1 lần về phép.
Khi
nó mất, trong túi còn tấm danh thiếp.
Gấu gặp
tay
đơn bị trưởng, trung tá hình như vậy, lần đi lấy xác em mang về nghĩa
trang
quân đội Gò Vấp mai táng. Ông ta nói, nó có nói với tôi, và tôi đã tính
rút nó
về văn phòng, lo tờ báo, vì biết nó có 1 ông anh, nhà văn, làm báo…
Gấu gặp cả tay quân y sĩ. Ông nói, ông không giải phẫu lấy viên đạn ra,
vì sợ
nát khuôn mặt.
Khi sắp sửa rời Sài Gòn, gia đình Gấu bốc mộ thằng em, hoả táng, đem
tro cốt vô
chùa, và nhặt lên viên đạn nằm trong ót thằng em.
TTT rất mê
Malraux. Ông cũng chẳng giấu diếm điều này, cũng như ông đã từng phạng
cho Camus 1 cú thật ra trò, khi ông này vừa nằm xuống vì tai nạn xe
hơi.
Khi đọc Siu Cô Nương của Mặc Đỗ, ông phạng, trí thức
làm dáng, và sau đó, Mặc
Đỗ dùng đúng từ này, để chỉ 1 số nhân vật của TTT, trong Ung Thư.
Quả thế thực. TTT quả có làm dáng, như Malraux.
Trong số những
bài viết bên Malraux, có bài thật tuyệt của Vargas Llosa, Tin Văn đã
từng giới
thiệu, [thực sự mà nói, không vì Malraux, mà vì TTT, hà hà!]
Khác hẳn ông
anh, Gấu mê Camus, không mê Malraux.
Kịch cợm quá. Trong bài viết, của
Simon
Leys mà Gấu tóm tắt để giới thiệu Malraux, Nghệ Thuật Làm
Dáng, Gấu bỏ 1 giai thoại thật thú, vì khi đó ông anh còn
sống [Gấu
có gửi cho ông cuốn Lần Cuối Sài Gòn,
trong có bài đó]
Để Gấu kể thêm
vô.
Kết luận bài điểm sách, tác giả kể giai thoại, lấy ra từ cuốn tiểu sử
Malraux của
Cate; lần gặp gỡ giữa Malraux và Hemingway, khi Paris vừa được giải
phóng. Nghe
nói Hemingway đang cùng đám lính tuỳ tùng "giải phóng" khách sạn
Ritz, Malraux thắng bộ quân phục đại tá, vai 5 vạch bạc, tới "hỏi tội"
tác giả "Chuông Gọi Hồn Ai":
-
"Bonjour, André," Hemingway nhẹ nhàng nói.
-
"Bonjour, Ernest," Malraux trả lời.
- "Anh
chỉ huy bao nhiêu đệ tử?", Malraux hỏi.
- "Cỡ
mười, mười hai mạng. Nhiều nhất, hai trăm.".
Là phóng
viên chiến trường, Hemingway thấy không cần phải khoác lác về binh sĩ
dưới quyền.
- "Còn
tôi, hai ngàn."
Cái này thì
thực tình không chờ đợi. Lại càng khó nuốt trôi.
- "Tiếc
thật, khi giải phóng thành phố Paris nhỏ bé, đám này đã không nhờ đến
sự trợ
giúp của đằng ấy."
Giai thoại
tiếp theo, là, mấy tên lính dưới quyền Hemingway kéo ông thầy ra 1 chỗ,
hỏi - xin phép đúng hơn - mang thằng
khốn
[Malraux] ra đường đòm 1 phát!
Hitchens,
trong Arguably, cũng có 1 bài về
Malraux [André Malraux: One Man’s Fate]
điểm cuốn tiểu sử của ông, Malraux: A
Life, của Olivier Todd.
Cũng chê thấu
trời, và gọi Malraux là Vua Bịp [“that very rare thing: a perfect
charlatan”,
chữ của Isaiah Berlin, ông mượn lại dùng cho Malraux], nhưng Hitchens
thêm vô,
Malraux cực may mắn, đóng trọn vai trò, không 1 lần bị bể mắn!
Hitchens kể,
do thân cận với triều đại Kennedy, và sau cú bịp, gặp Mao, chỉ có vài
phút, về
phịa cả 1 bài viết hoành tráng, như là 1 cuộc gỡ giữa hai cái đầu của
thế kỷ, [Leys
có kể trong bài TV đã giới thiệu], Malraux được cả hai, Nixon và
Kissinger mời,
để chỉ giáo cho lần sắp đi Tàu, đoạn này Hitchens kể thú lắm, post
nguyên con
cho độc giả TV cùng thưởng lãm:
All his
life, he was able to parlay one meeting or acquaintance into another,
and to
stay one jump ahead of his reputation. This, combined with his
fascination for
the superman, allowed him to bring off the following coup. As de
Gaulle's
minister, he was able to visit China in 1965 and to persuade the rather
baffled
Chinese authorities to grant him an audience with Mao. Todd's account
of the
interview is by turns hilarious-Malraux claimed to have led "peasant
units" during the war against Germany – and revolting: Malraux's abject
sycophancy tired even the ailing despot. The meeting was brief and
platitudinous, but in later accounts, including his gloriously
mendacious Anti-Mémoires, Malraux turned it into a
major summit of great minds. In consequence, and also because he had
been seen
so of with the Kennedys, he was invited to brief Richard Nixon and
Henry Kissinger
before they set off on their visit to Beijing. Malraux must have know
he was on
very thin ice here, and could have been exposed as an impostor any
moment, bur
he carried off the bluff with considerable aplomb. It is even possible
that by
this stage he had come to believe his own story.
Nghệ thuật làm dáng
Phận Người
Được cái,
cũng lịch sự, Hitchens kết thúc bài viết về Malraux, bằng 1 câu mà ông
nghĩ có
thể đề lên bia mộ Malraux, trích trong Phận
Người, La Condition Humanine:
“Ce n'était ni vrai, ni
faux, c'était
vécu".
Đếch thực, đếch
giả, nhưng mà là đã sống.
Hitchens
cũng là 1 thứ xâm mình, chẳng sợ ai, [như….. GCC!]. Trong bài JFK:
In
Sickness and by Stealth, điểm cuốn tiểu sử Kennedy của Robert
Dallek: An Unfinished Life: John F. Kennedy,
1917-1963 [đã đăng trên TLS August 22, 2003, sau in lại trong Arguably],
ông kết tội Kennedy làm thịt tông tông Diệm, “hành vi của găng tơ”, và
cú ngụy
tạo đốt tòa lãnh sự Mẽo ở Dominican Republic, để lấy cớ đổ quân Mẽo xâm
lăng.

Khi nhan sắc
số 1 gặp cái đầu thông minh số 1
Có 1 điểm
trùng hợp lịch sử:
Bà Nhu không
hề nhắc tới cú đám tướng lãnh lấy tiền Xịa làm thịt hai ông Diệm &
Nhu.
Cũng thế là
Jackie, khi đám con của bà đốt sạch hồ sơ vụ Kennedy bị ám sát.
La Condition humaine
The Hero,
the Buffoon and History
Cuộc đời của
Malraux mới khốc liệt, đa dạng, mâu thuẫn, và có thể giải thích bằng
nhiều đường
hướng, mâu thuẫn, chỏi lẫn nhau. Nhưng, không nghi ngờ chi, cuộc đời
của ông
bày ra [offer] một sự kết hợp tuyệt vời của tư tưởng và hành động, ở
mức “đỉnh
của đỉnh”, bởi vì trong khi tham dự, gia nhập những biến động, những
thảm họa
long trời lở đất của thời của ông, thì, cùng lúc, ông còn là 1 con
người được
trời phú cho thông minh cực thông minh, sáng suốt cực sáng suốt, và,
chưa kể ở
trong ông còn cái mầm sáng tạo, nhờ thế, ông vẫn giữ cho mình được 1
khoảng
cách với biến động, với kinh nghiệm sống thực, và chuyển nó thành suy
tư, thành
chiêm nghiệm phê bình, hay những giả tưởng thần sầu.
Có 1 dúm nhà
văn, như ông, những người đồng thời với ông, hoàn toàn trực tiếp tham
dự biến động,
lịch sử: Orwell, Koestler, T.E. Lawrence. Cả ba ông này đều viết những
tiểu luận
thần sầu về cái thực tại bi đát mà họ sống ở trong nó, nhưng chẳng có
ai tóm bắt
được nó, và chuyển hóa nó thành giả tưởng một cái tài năng như Malraux.
Vargas Llosa
Note:
Nhận xét của
Vargas Llosa, về T.E. Lawrence, GCC không có ý kiến, vì chưa từng đọc
ông này,
nhưng về Koestler và Orwell, sai.
Malraux chưa
từng có tác phẩm giả tưởng nào vươn tới đỉnh như Trại Loài Vật, và Đêm
Giữa Ban
Ngày, chúng là những giả tưởng đánh động lương tâm của con người, trước
thảm họa.
Cái sự thực – hay dùng chữ của Vargas Llosa, cái thực tại bi đát mà họ
sống, và
từ chiêm nghiệm, và từ đó, đẻ ra giả tưởng, cũng khác nhau.
TTT, rất mê
Malraux, và đã để 1 nhân vật của ông thốt ra câu ‘dưng không trồi lên
sự thực’,
cái sự thực dưng không trồi lên này đúng là “cũng” của cả TTT và
Malraux.
Tác phẩm của
TTT mà chẳng từ sự thực thời của ông ư?
Không có Hà
Nội, 1954, và cuộc di cư khủng khiếp, làm sao có Bếp Lửa?
Nhưng Bếp Lửa là của TTT, trong đó,
ngoài những sự kiện lịch sử
trên, còn có 1 anh chàng Tâm
ngất nga ngất như, khật khà khật khừ, của riêng TTT.
Applebaum nhận
ra điều này, khi phán về Trại Loài
Vật và Bóng Đêm:
Thiếu, chỉ 1 trong hai cuốn,
là cả Âu Châu bị nhuộm đỏ.
Tuyệt!
Malraux, TTT
không có thứ tác phẩm đó.
Bản thân
GCC, nếu những ngày mới lớn, không được chích 1 mũi thuốc ngừa VC –
không đọc
Bóng Đêm Giữa Ban Ngày – chắc chắn đi vô rừng, vô bưng, làm đệ tử Hoàng
Phủ Ngọc
Tường, và biết đâu, tay cũng đầy máu rồi.
Vị trí của
Malraux, trong lịch sử thời của ông, chưa khủng bằng của Koestler, như
Steiner
phán trong bài viết tưởng niệm ông, La Morte d’Arthur:
Koestler,
sinh năm 1905, ở Budapest, đứng đứng chỗ của những chấm dứt cân não của
thế kỷ
20 -lịch sử, chính trị, ngôn ngữ, và khoa học - đụng vô.
K [….] stood
on the exact terrain where the nerve ends of the 20th century history,
politics, language, and science touch.
A SMALL HEART
To Jan Jozef Szczepanski
the bullet I fired
during the great war
went around the globe
and hit me in the back
at the least suitable moment
when I was already sure
I had forgotten it all-
his transgressions and mine
after all I like anyone else
wanted to erase the memory
of countenances of hatred
history consoled me
-I was battling violence
but the Book told me
-I was battling Cain
so many patient years
so many years in vain
I washed soot blood
hurt in mercy's stream
so that noble beauty
the glory of existence
perhaps even the good
might have a home in me
after all I like anyone else
had a longing to return
to the bay of childhood
the country of innocence
the bullet I fired
from a low-caliber
gun
despite laws of gravity
went around the globe
and hit me in the back
if it wished to tell me
nobody gets anything –
for free
so now I sit in solitude
on a sawed-off tree trunk
in the exact center point
of the forgotten battle
gray spider I spin
bitter meditations
on memory too large
and a heart too small
Zbigniew Herbert: The
Collected Poems 1956-1998
Note: Bài thơ này, gửi theo
TTT, thì thật là tuyệt.
Thi sĩ đã từng làm thơ “tự trào”, chưa từng bắn 1 phát súng, trong cuộc
chiến
vừa qua.
Gấu có bắn rồi. Thời gian “quân sự hóa” học đường, phải lên bãi tập,
cầm khẩu
súng lóng ngóng chĩa về phía huấn luyện viên, anh ta hoảng quá, nằm bò
ra mặt
đất, hét lớn, thằng ngu kia, chĩa súng lên trời, đừng bao giờ chĩa về
phía nào
hết!
Gấu tin là TTT cũng đã từng bắn
súng nhiều lần rồi, thời gian huấn
luyện, khi bị gọi động viên.
Ông phán chưa từng bắn, là theo kiểu chưa từng chĩa vô ai, để đòm 1
phát!
Một trái tim nhỏ bé
Viên đạn mà tớ bắn
Trong cuộc chiến lớn
Đi lòng dòng địa cầu
Đợp trúng lưng tớ.
Vào cái lúc cà chớn nhất
Khi mà tớ đinh ninh
Tớ quên mẹ nó rồi –
Cả tội lỗi của viên đạn, lẫn của tớ.
Nói cho cùng thì ai mà chẳng
như vậy
Đều muốn tẩy sạch hồi nhớ
Khỏi tất cả hận thù
Lịch sử an ủi tớ,
-Mi uýnh lộn với bạo lực
Nhưng Cuốn Sách thì lại biểu
-Mi làm thịt thằng em của mi,
Thằng em Nam Bộ tên là Cain.
Bao nhiêu năm trời kiên nhẫn
Bao nhiêu năm trời hão huyền
Tớ rửa nhọ máu
Bị thương trong dòng nhân ái
Và như thế cái đẹp phong nhã đó
Vinh quang của hiện hữu
Và ngay cả cái tốt
Có được cái nhà ở trong tớ
Sau cùng, thì tớ đâu có khác
bất cứ 1 tên Mít nào
Mơ trở về
Vịnh Tuổi Thơ
Xứ Ngây Thơ
Viên đạn mà tớ bắn
Từ khẩu súng nòng thấp
Mặc dù luật trọng lực
Đi lòng vòng trái đất
Đợp trúng lưng tớ
Như thể nó muốn nói
Nghèo mà ham
Làm đếch gì có cái gì free!
Và bây giờ tớ ngồi trong cô đơn
Trên 1 khúc gỗ
Đúng ở trung tâm
Của trận đánh đã bị lãng quên
Như con nhện xám
Tớ xoáy mãi vào những nỗi niềm cay đắng
Ui chao
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Ui chao
Nhớ em thì nhiều
Mà trái tim ta sao nhỏ quá!
A SMALL
HEART
To Jan Jozef
Szczepanski
the bullet I fired
during the great war
went around the globe
and hit me in the back
at the least suitable moment
when I was already sure
I had forgotten it all-
his transgressions and mine
after all I like anyone else
wanted to erase the memory
of countenances of hatred
history consoled me
-I was battling violence
but the Book told me
-I was battling Cain
so many patient years
so many years in vain
I washed soot blood
hurt in mercy's stream
so that noble beauty
the glory of existence
perhaps even the good
might have a home in me
after all I like anyone else
had a longing to return
to the bay of childhood
the country of innocence
the bullet I fired
from a low-caliber
gun
despite laws of gravity
went around the globe
and hit me in the back
if it wished to tell me
nobody gets anything –
for free
so now I sit in solitude
on a sawed-off tree trunk
in the exact center point
of the forgotten battle
gray spider I spin
bitter meditations
on memory too large
and a heart too small
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems 1956-1998
Note: Bài
thơ này, gửi theo TTT, thì thật là tuyệt.
Thi sĩ đã từng làm thơ “tự trào”, chưa từng bắn 1 phát súng, trong cuộc
chiến vừa
qua.
Gấu có bắn rồi. Thời gian “quân sự hóa” học đường, phải lên bãi tập,
cầm khẩu
súng lóng ngóng chĩa về phía huấn luyện viên, anh ta hoảng quá, nằm bò
ra mặt
đất, hét lớn, thằng ngu kia, chĩa súng lên trời, đừng bao giờ chĩa về
phía nào
hết!
Gấu tin là TTT cũng đã
từng bắn súng nhiều lần rồi, thời gian huấn
luyện, khi
bị gọi động viên.
Ông phán chưa từng bắn, là theo kiểu chưa từng chĩa vô ai, để
đòm 1 phát!
Một
trái tim nhỏ bé
Viên đạn mà tớ bắn
Trong cuộc chiến lớn
Đi lòng dòng địa cầu
Đợp trúng lưng tớ.
Vào cái lúc cà chớn nhất
Khi mà tớ đinh ninh
Tớ quên mẹ nó rồi –
Cả tội lỗi của viên đạn, lẫn của tớ.
Nói cho cùng thì ai mà chẳng
như vậy
Đều muốn tẩy sạch hồi nhớ
Khỏi tất cả hận thù
Lịch sử an ủi
tớ,
-Mi uýnh lộn với bạo lực
Nhưng Cuốn Sách thì lại biểu
-Mi làm thịt thằng em của mi,
Thằng em Nam Bộ tên là Cain.
Di Chúc Kafka
Những chú giải
đầu tiên bám chặt vào tác phẩm, nó vùng vẫy cỡ nào cũng chẳng thoát ra
khỏi. Những
phán đoán của Brod về văn chương Kafka là vĩnh viễn, ai muốn hiểu Kafka
phải
kinh qua trường phái Kafkologie của Brod.
Không
ai nghi ngờ, nếu không có Brod, người đời có thể chẳng biết gì về
Kafka. Và về
Leos Janacek (1854-1928, nhà soạn nhạc người Tiệp). Brod đã hết lòng vì
hai người
bạn, đây là niềm hãnh diện, vinh quang của đời ông. Cả hai thiên tài,
với một
thẩm mỹ học thật khó nắm bắt, bị coi rẻ (underated), và đều là nạn nhân
của
tinh thần địa phương. Người Đức coi Prague
là một tỉnh lẻ, như Brno
dưới mắt
người Tiệp. Như thế, Kafka và Janacek là hai kẻ miệt vườn. Vinh quang
của Brod,
là làm cho nhân loại biết đến hai thiên tài miệt vườn đó. Theo Kundera,
do yêu
bạn, yêu công lý, Brod chiến đấu, hết lòng vì bạn, nhưng, than ôi,
tuy thân cận nhất, có điều kiện nhất, để hiểu, ông hoàn toàn xa lạ với
nghệ
thuật của
họ.
*
Gấu
vẫn thường tự hỏi, giả như TTT không khen tác phẩm đầu tay của Gấu, Những Con Dã
Tràng, và giả như sau đó, sau khi Sáng Tạo chết, nó được TTT đưa qua
cho tờ Văn
Nghệ, và thay vì vứt vô thùng rác, nó được băng đảng Văn Nghệ
trịnh trọng
đăng, thì số phận Gấu Nhà Văn ra sao?
Rất
nhiều bạn văn tâm đắc với nhận xét của Gấu về NDT và DNM: Hai cái bóng
của TTT.
Giả như Những Con Dã Tràng được
đăng lên, được thiên hạ vồ vập, thì Gấu sẽ thành
cái bóng thứ ba của TTT.
Rõ ràng là như vậy.
Nói
một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương
Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ
"chưa
đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự
khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh
của một
miền đất.
Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh
Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux...
Một Thanh
Tâm Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động...
Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau.
Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải (Nguyễn
Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm
Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi
viết về những
tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền,
tôi không
còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) (1) cho cặp nhân
tình
tạm trú,
cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống...
Trước khi bỏ
đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị
đàn bà,
cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng,
hay phía
bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)...
Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên,
về một
già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ
Thanh Tâm
Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết
hơi, của những
bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính
họ: Cái
Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của
Chiến Tranh
lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối
quyết liệt,
bởi những con người đứng bên lề...
(1)
Người
Gác Cổng
Lúc ấy từ
ngoài cổng lại nghe tiếng giầy của thằng bồ đi vào, lão Chà bị mùi dầu
thơm làm
choáng váng vẫn gục đầu trên ngực của con nhỏ, lão nói:
- Em cứ nằm
vậy và cho qua được nằm gần em vậy.
Thằng bồ nhặt
một thanh sắt cầm tay đứng giữa sân rình rập. Con nhỏ lắng tai thấy
tiếng giầy
im lặng, bất thình lình nó xô lão Chà vùng dậy, nhảy xuống đất, ngã
chúi va đầu
vào tường và la lên:
- Anh ơi.
Nó hốt hoảng
chạy vội ra giữa sân ôm lấy thằng bồ. Thằng này hỏi:
- Nó đâu?
Con nhỏ chỉ
tay về phía xe hơi nhưng níu tay thằng này lại, lắp bắp trong hơi thở:
- Không có
gì hết, chưa có chuyện gì hết.
Thằng này dằng
tay ra xăm xăm bước tới, con nhỏ chạy theo níu kéo không được. Lão Chà
vịn vào
thành xe nhẩy xuống, té và đống dầu nhớt, thằng nhỏ cầm thanh sắt đập
liên hồi,
con nhỏ bưng mặt khóc. Thấy lão Chà chỉ còn thoi thóp, nó bảo con nhỏ
cùng nó
khiêng xác lão Chà để lên thùng xe.
Con nhỏ thút
thít nói
- Thôi chạy
đi anh ơi
Nó quắc mắt
dữ tợn bảo:
- Đừng lôi
thôi.
Đặt lão Chà
vào đúng chỗ nằm lúc trước của con nhỏ, nó đập bể ve dầu thơm ở bên
cạnh, lột hết
quần áo của lão liệng vào góc.
- Anh làm gì
vậy?
Nó không đáp
và truyền lệnh:
- Cởi cái sú
chiêng liệng vào đống quần áo đó.
Con nhỏ còn
ngần ngừ, nó bật tung nút áo và nắm tay dật đứt cái bao vú liệng vô
đống đồ của
lão Chà. Vừa lúc ấy lão Chà hồi tỉnh một vài giây, ngửi thấy mình nằm
trên dầu
thơm, thân thể trần truồng và con nhỏ đang nhìn xuống, ngực nó không
cài trắng
muốt. Rồi tiếng thanh sắt liệng xuống thành xi măng...
TTT
Gấu đọc lần
đầu, khi mới lớn, cứ nhớ hoài cái cảnh cô con gái cởi cái xú chiêng ra,
và ném
lên mặt anh già!
Hoá ra không phải.
Thay vì vậy
là cái cảnh anh già tỉnh dậy, nhìn lên, và thấy cặp vú của cô gái nhìn
xuống, "ngực nó không cài, trắng nuốt"!
Hà, hà!
Trong Văn Học
Tổng Quan, Võ Phiến coi Dương Nghiễm Mậu có lẽ là người thành công nhất
và sớm
sủa nhất, sử dụng các kỹ thuật mới vào văn chương Việt Nam. "Trong cuốn
truyện dài Con Sâu chẳng hạn, 'tôí không phải là một nhân vật nào, khi
là nhân
vật này, khi lại là nhân vật nọ; sự chuyển vị xẩy ra thoăn thoắt làm
nổi bật sự
thay đổi đột ngột những quan điểm nhìn sự vật khác nhau". Trong một bài
viết
của Mai Thảo, trong "Chân dung nhà văn", ông lại coi người tài hoa nhất
của nhóm tiểu thuyết mới tại Việt Nam là Nguyễn Đình Toàn.
Cả hai nhận định
trên đều đúng, nếu chỉ nói về khía cạnh tài năng, nỗ lực cá nhân khi cố
gắng
làm mới văn chương Việt Nam. Nhưng bảo hai nhà văn nổi tiếng nói trên
là thuộc
nhóm tiểu thuyết mới, tôi muốn nói, như những người sáng tác theo quan
điểm tiểu
thuyết mới tại Pháp, điều này sợ chưa đủ sức thuyết phục.
Lucien
Goldmann, trong bài viết "Tiểu
thuyết mới và Thực tại", in trong cuốn "Xã hội học về tiểu thuyết",
cho thấy, trong khi nhiều nhà phê bình, và đa số công chúng thưởng
ngoạn, nhìn
tiểu thuyết mới, như là những kinh nghiệm hoàn toàn có tính hình thức,
hay một
toan tính chạy trốn thực tại xã hội, hai tác giả đại diện chính của
trào lưu
này là Nathalie Sarraute và Alain Robbe- Grillet, ngược lại, đã muốn
nói với
chúng ta rằng, tác phẩm của họ được sản sinh từ một cố gắng - càng chân
xác,
càng cơ bản chừng nào hay chừng đó - nắm bắt thực tại thời đại của
chúng ta. Họ
là mhững tác giả hiện thực cơ bản nhất, triệt để nhất trong số những
nhà văn hiện
thực Pháp, nếu chúng ta quan niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn chương
là sáng
tạo bằng tưởng tượng ra một thế giới mà cơ cấu của nó tương ứng với cơ
cấu thiết
yếu của thực tại xã hội - một xã hội mà tiểu thuyết đã được viết ra từ
trong
lòng của nó. Một xã hội đã cưu mang, thai nghén ra tiểu thuyết. Và đây
là giả
thuyết của Goldmann: Trong các dạng văn học, tiểu thuyết là dạng liên
can, tức
thời nhất, và trực tiếp nhất, tới cơ cấu kinh tế, theo một nghĩa hẹp
nhất của từ
này. Tới những cơ cấu trao đổi và sản phẩm thị trường. Thực tại thời
đại chúng
ta cho thấy, nếu trước đây, con người là trung tâm vũ trụ, bây giờ đồ
vật trở
thành "thần vật". Liên hệ người-vật ngày càng nghiêng về phía đồ vật.
Thế nhất quán mang tính cơ cấu "nhân vật-đồ vật" ngày càng biến đổi
cùng với sự biến mất của nhân vật nhường chỗ cho đồ vật làm chủ. Từ đó,
tiểu
thuyết mới mang đủ thứ tên, phản-tiểu thuyết, phản-con người, phản-văn
chương...
Nhìn
từ quan điểm đó, chúng ta không thể nào
coi Nguyễn Đình Toàn và Dương Nghiễm Mậu là những nhà văn tiểu thuyết
mới. Nhân
vật của Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến
chua
xót về sự cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan
rã, cuối
cùng lao vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ
đạo đức bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông
thường. Thế giới,
khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối",
trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân
vật hầu hết
là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam,
trong khi
chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả.
Sinh Nhật
13.3.1973
Hôm nay sinh
nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái nào trước
cái nào
sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên tâm vì thư
không
thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì
là thất
lạc của thất lạc...
Chỉ biết hôm
nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe những
chuyện lẩm
cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài
Pagode,
hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn đêm nay còn mãi
mãi"
mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài từ hồi nào,
có đăng rồi
mà quên .... [Thư gửi Đảo Xa]
TTT mất 22
Tháng Ba.
Và như thế,
mỗi lần dân Mít tưởng niệm Tháng Tư, là bèn nhớ tới ông.
Và GCC bèn
nghĩ đến Beckett, và những dòng thơ TTT trích, trong Thơ Ở Đâu Xa:
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Và, bèn nhớ
đến bài thơ Anne Atik tưởng niệm Beckett:
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between
two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
Sử dụng thơ:
Một người đọc
Thánh Kinh, ông ta tới và đi, giữa hai ngày thánh, mà ông chắc cũng
đếch
thèm để
ý nhiều đến:
Thứ Sáu Tốt,
của ngày sinh, và gần Giáng Sinh, của ngày chết.
Vấn
đề
“tương tự” trong ẩn dụ
THT
Liệu có gì là “tương tự”,
không, khi, Dũng nhìn sang nhà kế bên,
thấy 1 cái áo cánh trắng, phất phơ bay trong gió, trong nắng, và ngạc
nhiên tự
hỏi, áo của ai nhỉ, và bèn nhớ ra, hè rồi, Loan đi học trên tỉnh, về
rồi.
Với 1 độc giả lười biếng, họ chỉ đọc đến có vậy.
Với 1 độc giả biết 1 tí về “tương tự”, biết tưởng tượng, cái này
giống cái kia đúng hơn, thì đoạn trên có nghĩa tương tự: “anh yêu em”.
Dũng, đúng lúc đó, khám phá ra, tình yêu của mình.
Người
ta thường nói, viết là sáng tạo.
GCC sợ rằng, đọc còn cần “sáng tạo” hơn nhiều!
Bài viết sau đây, trên Blog của 1
người quen của GCC, nếu bạn không có “sáng tạo”
trong khi đọc, thì thấy cũng thường thôi, nhưng với Gấu Cà Chớn, ẩn
giấu trong
đó, vài "vấn nạn lớn" của... viết!
Ít
nhất thì cũng chứa đựng,
trong nó, đề tài "sống cuộc đời này, mơ cuộc đời khác", mà Kafka đã
từng
chỉ ra, trong truyện ngắn “Trước Pháp Luật”, “Devant La Loi”, và 1
đề tài nữa,
cũng từ Kafka, “Làng Kế Bên.”
Một
cách nào đó, bà vợ trong “Vài hàng gọi là có viết” đã đến được “Làng
Kế Bên”, “Cuộc Đời Khác”, trong mấy ngày ông chồng xa nhà!
Khen
Bà này, cũng kẹt lắm, vì Bà thực sự không muốn được khen, sợ hư mất
cõi văn
chưa thành của Bả!
Làng kế
bên.
Nội tôi thường
nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy đời như co rút
lại,
thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ qua chuyện tai
nạn, làm
sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm rong ruổi sang làng kế bên, mà
không e
ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng không đủ thời gian
cần thiết
cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng
Anh: The next village.
My
grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back
over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand, for
instance,
how a young man can decide to ride over to the next village without
being
afraid that – not to mention accidents – even the span of a normal
happy life
may fall far short of time needed for such a journey".
Ba Trăm Năm Sau Có Ai Khóc Gấu Cà Chớn?
Camus có
truyện ngắn "Người đàn bà ngoại tình", câu chuyện về một người đàn
bà, đêm đêm, sau khi làm xong hết bổn phận của người vợ, trong cuộc lữ
của cả
hai vợ chồng, đã len lén thoát ra ngoài, để ngắm trời ngắm sao...
Đây là một đề
tài lớn của dòng văn chương hiện sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện
ngắn
"Before the Law", của Kafka.
Đây là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới
trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác cản
lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy,
chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê
phều
phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người
lính
gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh;
nhưng bây giờ
anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ
đi.
Trong truyện ngắn Eveline của
James Joyce,
trong tập "Những người dân thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất
hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có
đủ điều
kiện để đưa cô gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng
tới giờ
phút chót, cô gái quyết định "ở lại".
NQT đọc Biển của Miêng
Có
thể nói, mẩu viết còn vượt lên khỏi cái cõi “thần
tiên” của cả hai truyện ngắn của Kafka, vì cái cõi khác kia, cuộc đời
khác
kia, lại chính là cuộc đời này: Nhờ ông chồng đi vắng, bà vợ tự cho
phép mình được
cho độc giả biết thêm 1 tí về bà: thèm ngủ thêm 1 tí, lười thêm 1 tị,
ăn thêm 1
miếng, thay vì diet như con mèo của mình…..
Tuyệt,
quá tuyệt.
Câu cuối mới thần sầu:
Đến
thứ Hai chàng mới về, tôi dè xẻn thời giờ còn lại mà tôi có thể lười
biếng.
Từ"dè
xẻn" mới đắt làm sao!
Gấu
đã định giấu những dòng trên, dành riêng cho mình, vì sợ bị chửi, đừng
khen tui
nhiều quá!
Congrat!
Hà,
hà!
Tám thấy độc giả từ tanvien.net vào blog biết là Bác đã
giới thiệu cái gì đó. Tại vì mỗi lần bác chê hay khen đều có rất nhiều
người muốn biết cái mà Bác để ý. Đúng là cái sức mạnh của ngòi bút có
tiếng. Bác nổi tiếng là dám nói thẳng và nói thật, nên Tám xin cảm tạ
lời khen của Bác. Tám nghĩ chắc Bác đã từng biết qua, hay thèm muốn có
được, một sự tuyệt đối solitude để suy nghĩ, để viết. Cái cảm giác
thanh thản, không bị ngó chừng, không bị bắt buộc phải theo khuôn khổ,
cái tự do tuyệt đối người viết nào cũng thèm muốn. Được bác khen là một
hân hạnh rất lớn. Xin cám ơn Bác.
You're Welcome
NQT
|
|