|
Nửa khuya
thức
dậy
đọc lại Bếp Lửa
(thắp cây
hương cho ngày giỗ thứ bảy TTT)
Đinh Cường (2)
Bếp Lửa trong văn chương
Chúng ta tự
hỏi, giả như không bị tống ra Bắc như một anh tù, liệu, sau 1975, TTT
sẽ trở về
Hà Nội, Miền Bắc?
Gấu tin, ông
đếch thèm về!
Ông anh khác
thằng em. Thằng em cố đấm ăn xôi, trở về tới hai lần. Lần thứ ba, nếu
không nhận
được lời cảnh báo, khí hậu Hà Nội bi giờ không đẹp, thì Gấu vẫn còn mò
về dài
dài… (1)
Có thể nói,
Gấu lấy Gấu Cái, là vì muốn chọn 1 quê hương cho Gấu, và lũ Gấu Con sau
đó.
Thật cũng
may, cuối cùng bố mẹ lại tìm thấy nhau, cho dù bố mẹ biết rất rõ, nếu
cuộc đời
được làm lại từ đầu, thì mọi chuyện vẫn y nguyên như vậy. Chắc là bố sẽ
lo cho
mẹ thêm một chút xíu, nhờ vậy mẹ sẽ bớt đi một chút, niềm tủi thân.
Con đã đọc
thư chú Bảo thì biết gia đình mình ở ngoài Bắc. Đó là quê hương mà bố
phải từ bỏ,
theo bà Nội vào Nam, và khi chú Sĩ chết, bố tự nhủ sẽ chẳng khi nào trở
về. Đấy
là một phần lý do tại sao bố lấy mẹ. Bố muốn các con có một quê hương
Miền Nam,
các con sẽ cần tới nó như bố cần tới mẹ vậy.
Tự
Truyện
Ui chao, vãi
linh hồn, thực!
As a young
man he liked to say he was heimatlos, homeless, without a
country. He
even asserted a right to decide his own origin. "We are born, so to
speak,
provisionally, it doesn't matter where; it is only gradually that we
compose,
within ourselves, our true place of origin, so that we may be born
there
retrospectively.”
Coetzee viết về Rilke
Khi còn trẻ, ông thích nói
về mình, tôi thì không nhà, không nước. Ông
còn đòi cho mình cái quyền được quyết định gốc gác của riêng
mình.
"Chúng ta sinh ra, thì cứ nói, theo kiểu dự trữ, chẳng quan trọng gì
cái
chuyện, sinh ra ở đâu. Dần dà, bạn sẽ tạo nên, ở bên trong bạn, cái nơi
chốn thực
sự cội nguồn, và nếu như thế, chỉ một khi nhìn ngoái lại, bạn mới phải
tự hỏi,
hình như quê của mình là ở cái chỗ kia kìa, cái xứ Đoài mây trắng lắm
của riêng
mình đó..."
Mai Thảo có lần kể một
anecdote về TTT.
"Hắn" nói, bạn cầm một cây
lao, quay người lại, và phóng mạnh, cây lao tới đâu thì là quá khứ của
bạn tới
đó, cắm xuống chỗ nào thì là đó là nơi bạn sinh ra.
Một lần, một buổi sáng
sớm, chỉ có hai anh em, ngồi nhâm nhi ly cà phê
tại Quán
Chùa, nhắc tới Mai Thảo đời thường, TTT đưa ra nhận xét, nhớ đại
khái, đàn ông
sống độc thân, ở vào cái tuổi đó, rất dễ mất quân bình [Đàn bà chắc
cũng vậy?], khó
chịu lắm, Mai Thảo không thế.
Gấu nhắc lại anecdote
trên, ông cười, nhân đó kể
câu chuyện về anh chàng học trò xóm nhà lá, ở mãi cuối lớp, không chịu
nghe ông
thầy giảng bài, còn chọc phá mấy người ngồi bạn cùng bàn, sẵn chiếc
khăn lau bảng
trong tay, ông vo tròn thành một cục, sự tức giận anh học trò khiến ông
thêm sức
mạnh chăng, vì cái khăn vo tròn như
cục đạn bắn thẳng
tới tận cuối lớp, cùng tiếng thét giận dữ của ông thầy, "Mang nó lên
đây!", khiến anh học trò líu ríu làm theo, Gấu bỗng nhớ đến câu văn để
đời
của ông, qua miệng nhân vật Thạch:
-Em đã biết tay anh chưa ? (Chửi tục!)
Khi
từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga
Hàng Cỏ,
trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh
của một
ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống
vực thẳm...
dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ. [Câu văn là
một
câu gắn liền trong mạch văn, tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng
bất
toàn. Câu thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền
thiếu vắng
nó gợi nhắc].
TTT: Tưởng niệm Mai Thảo
Cast
a cold eye
On
life, on death.
Horseman,
pass by!
Yeats
Ném
cái nhìn lạnh
Lên
sống, lên chết
Kỵ
sĩ, Xéo!
Mấy
dòng trên là của Yeats, ra lệnh khắc lên bia mộ của ông.
Nhưng
cả bài thơ sau đây -nhất là dòng
chót - vang lên
lời thơ của TTT:
Ôm
em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới:
Politics
'In
our time the destiny of man presents its meaning in political terms.'
- Thomas
Mann
How
can I, that girl standing there,
My
attention fix
On
Roman or on Russian
Or
on Spanish politics?
Yet
here's a travelled man that knows
What
he talks about,
And
there's a politician
That
has read and thought,
And
maybe what they say is true
Of
war and war's alarms,
But
O that I were young again
And
held her in my arms!
Yeats
Câu
của Mann, cũng quá đúng cho TTT:
Vào
thời của chúng ta, số phận con người trình ra cái nghĩa của nó,
bằng
những thuật ngữ chính trị.
Còn nhớ một cụ già, khi
nghe tin máy
bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông
bà mình
làm sao ngủ yên ?...
Khi viết Những ngày ở
Sài-gòn, là lúc
tôi quá nhớ Hà-nội. Mới lớn, vừa mới kịp yêu mến cái cột đèn, cái Hồ
Gươm, cái
Tháp Rùa, đùng một cái, phải bỏ hết. Vào Nam, cố biến nó thành hiện
thực, qua
hình ảnh một cô bé Hà-nội.
Mối tình tan vỡ, chỉ vì
người nghe kể,
là một cô bé miền Nam: "Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố
thỉnh
thoảng buổi sáng có sương mù...".
Hà-nội của Nguyễn Chí Kham
khác hẳn.
Cũng khác hẳn, Hà-nội của những người ra đi từ miền Bắc. Ga Hàng Cỏ của
Nguyễn
Chí Kham không có cảnh đưa tiễn những người đi vào Nam chiến đấu, và
một cô
gái, trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà, (Trăng Goá, Văn), chỉ ngửi
thấy chỗ
nào cũng sặc mùi nước đái, và đó là một trong những lý do khiến cô chấp
nhận lời
cầu hôn, của "thủ trưởng" đám bộ đội trẻ. Xin đừng nghĩ đến sự thô tục
ở đây. Chỉ có mùi nước tiểu "quyến rũ" đó mới tương xứng với lưỡi
bom, liếm đến đúng căn nhà của cô học trò thì dừng lại, như có hẹn với
cô gái,
tuy đã đi sơ tán, nhưng hôm đó phải trở về Hà-nội để lấy phần gạo. Như
thể lưỡi
hái B.52 đến lúc đó mới thở hắt ra hết hơi nóng của nó.
Sartre viết, Husserl không
hề là một
nhà hiện thực. Nhà thơ như Trần Dần, nhà văn như Lê Minh Hà, lại càng
không. Đừng
coi những dòng kể của bà về Hà-nội, là hiện thực chủ nghĩa, theo một
nghĩa thô
bạo nhất của nó. Vẫn Sartre, trong bài viết đã dẫn, "Hiểu, là vỡ òa
về...",
(Connaitre, c'est "s'éclater vers"), và đó là ý nghĩa câu nói nổi tiếng
của Husserl: Ý thức chỉ là ý thức về một điều gì (Toute conscience est
conscience de quelque chose): y hệt như vết bom ngưng lại, vì biết
rằng, có một
người, sau này sẽ viết ra, điều này.
Trong một truyện ngắn
khác, của cùng
tác giả, "bãi dâu xanh mênh mông, hoa muồng muồng vàng rực, đình tám
mái
sân đầy cứt chim..." như phô hết sự quyến rũ của chúng dưới bầu trời:
máy
bay Mỹ đánh phá khắp nơi.
Người tù đi qua cầu Long
Biên, thò
tay sờ lên thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu
vết bom đạn.
Anh đang trên đường vào Hà-nội, mang theo với anh tro than của những
cuốn
sách...
Bài viết,
mượn
lại cái tít của 1 bài viết trước đó, về Bếp Lửa, của TTT, trên tờ TSVC thưở
nào,
là nằm trong hoài bão mở ra dòng văn chương hải ngoại có sự tham dự của
những
người ra đi từ Miền Bắc, khởi đầu thứ tư mà cũng là khởi đầu thứ nhất,
sau những Đáy Địa Ngục, Đại Học Máu tố cáo cái ác của VC, sau những cố
gắng hội nhập đất người,
sau những đau thương hoài nhớ quá khứ... đã
được ân cần đón nhận ở 1 số người viết “đích thực”, không phải ở cái
đám Chợ Cá
hay Hậu Vệ cực kỳ khốn nạn.
NMG ông chủ báo phôn, cho biết, có 1 ông nhà văn Bắc
Kít, ở Đông Âu, phôn cho tòa soạn, chúc Tết, và cũng ân cần chúc Gấu Cà
Chớn,
người đã làm được 1 cuộc “hôn nhân giữa chính trị và văn học”!
NMG phán, phôn
viễn liên đâu có rẻ, mà lại Đông Âu mới ghê chứ, vậy mà tay này - Gấu
không tiện
nêu tên – phôn, mà còn dài dòng chúc Tết anh em tòa soạn, khen Gấu Cà
Chớn, lần
đầu tiên VH có được cái hân
hạnh như vậy!
Tưởng niệm Thanh Tâm
Tuyền (1936-2006) từ Tin Văn ( tanvien.net)
Đọc Thanh Tâm Tuyền
Một người anh
Khi Gấu viết bài này, đăng trên báo Văn Học của Nguyễn Mộng Giác, “một
phần”, là để
tưởng niệm bài viết năm 1973, về cuốn Bếp Lửa
của TTT, khi cuốn sách ra ấn bản “chung quyết”,
như TTT phán, trong lời Tựa (1)
Trong
số những bài viết trước 1975, ba thứ bá láp phê bình, đọc sách, tạp
ghi hầm bà
làng, Gấu quăng vô thùng rác hết thẩy, khi ra được hải ngoại, nhìn lại,
Gấu thèm giữ lại được, chỉ bài viết về cuốn BL, thành ra mới lấy lại
cái tít
bài viết.
Sau đó, thì Trần Hoài Thư cho in lại số báo, thế là Gấu được đọc lại
nó,
cám ơn THT 1 phát ở đây.
Thế
rồi, mấy đấng BVVC ở trong nước kiếm được cái bản đăng trên Tập
San Văn Chương,
tức là còn
trước bản in trên Văn nữa!
Tuyệt thật.
Lại
phải cám ơn thêm 1 phát nữa, ở đây.
Tuy
nhiên, đó chỉ là 1 phần của vấn đề “lập lại” 1 cái tít.
(1)
Bếp Lửa,Tựa
Lần In Thứ Tư (1973)
Malraux có
viết: "Người ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không
tin như thế. Trong nhiều năm sau khi quyển sách này được xuất bản,
dường như
tôi đã hì hục viết một BẾP LỬA khác.
Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái bản, tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả
bây giờ,
sau mười bẩy năm.
Đây không phải
là quyển tiểu thuyết đầu tay của tôi.
Quyển đầu
tay tuy được một nhà xuất bản nhận in năm 1955, vào phút chót tôi đổi
ý, rút lại
sách, quyết định không xuất bản.
Quyển Bếp Lửa rất có thể đã chịu chung số phận
của quyển đầu tay, nếu không may mắn gặp ông Nguyễn Đình Vượng [chủ báo
Văn, chủ nhà in, nhà xuất bản Nguyễn
Đình Vượng].
Được viết một
hơi – khoảng đâu hai ba tháng – được in ngay sau khi viết – không có
một quãng
cách nào để kịp lùi, nhìn lại – quyển Bếp
Lửa là quyển duy nhất của tôi chỉ có một lần bản thảo.
Trên trang đầu
bản thảo có đề câu của Rimbaud: Je est un autre [Tôi là kẻ khác], nhưng
khi đưa
in tôi đã xóa bỏ.
Sách in lần
đầu ba ngàn cuốn, chẳng rõ bán được bao nhiêu, chỉ biết ít lâu sau sách
được
mang bán "son". Có hai bài viết về quyển sách: một trên nhật báo Tự Do tại Sài Gòn, một trên tuần báo Văn Nghệ
của Hội Nhà Văn miền Bắc ở Hà Nội.
Tiếc là tôi
không có thói quen lưu giữ tài liệu để có thể in kèm vào sách khi tái
bản.
Đại cương
hai bài viết đều là lời chê trách giống nhau: quyển sách bi quan tiêu
cực. Bài
trên tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là một
cột điểm sách ngắn vài mươi giòng nhưng bấy giờ đã mang đến cho tôi
hãnh diện
và sung sướng. Hãnh diện là thứ có ngày nghĩ lại khiến thẹn thùng.
Nhưng sung
sướng lúc nào cũng vẫn là sung sướng, dù cùng với thời gian có thể lẫn
vẻ bùi
ngùi.
Tôi sung sướng
nghĩ các bạn tôi ở Hà Nội đọc cột báo ấy, biết được tôi vẫn nhớ họ, đã
viết về
họ, về những ngày tháng ấy của chúng tôi. Họ có thể tức tối căm giận,
nhưng chắc
họ cũng cảm động bồi hồi.
Mười bẩy năm
đã qua.
Kinh nghiệm
dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay hoay quá lâu với một
quyển
sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã
đến lúc nên viết những quyển sách khác.
Tháng 3 – 73
An A
from Nabokov
Trước
vụ Thiên An Môn hơn
năm, Thanh Tâm Tuyền kể với tôi vừa đọc cuốn truyện tình đầu tay tuyệt
vời của
Nabokov, tên tiếng Anh là Mary. Tôi
nói:
- Hay là anh dịch đi, tôi nhờ ông
bạn Đào Hiếu đang làm nhà xuất bản in cho anh, kiếm tí tiền còm cho vui!
Chỉ mấy tuần sau anh đem bản dịch
viết tay tới tôi, tựa sách là Tình Một
Thuở, anh nói đó là một đoản ngữ trong thơ Hồ Dzếnh, tên dịch giả
ghi Từ
Trí, theo tôi biết đó là tên hai con trai của anh.
NAK
Trên NYRB số mới nhất, có
bài viết Một "A" từ Nabokov,
kỷ niệm của 1 sinh viên của ông, về Thầy, thật
là tuyệt.
Bèn mượn
hoa hiến Phật.
Thú nhất là
câu trả lời của anh học trò, với sư phụ, ở cái đoạn sau đây, và nó liên
can đến
“giáo án” của ông, “Văn học Âu Châu thế kỷ 19”, chính thức thì thế,
nhưng nó
còn được gọi là Văn Học Dơ Dáy, bởi vì
toàn là về ngoại tình, như trong Anna
Karenina và Bà Bovary.
Cái chuyện Mary thì cũng là truyện có
tí tay ba ở
trỏng.
Gấu
chưa đọc
Mary, mà theo như trên net, thì là về một anh Nga, sống lưu vong
tại Berlin,
nhớ lại
mối tình đầu, khi còn trẻ, thời tiền cách mạng.
Tình cờ tiếu lâm, là
cái tay ở
phòng kế bên, lại là anh chồng, do cách mạng lạc mất vợ, và đang chờ vợ
từ Nga
tới để xum họp….
Gấu tự hỏi, tại làm sao TTT lại
chọn truyện này để dịch, khi đang
chờ đi Mẽo, theo diện cựu sĩ quan VNCH.
Cũng vậy, là cuốn Một Chủ Nhật Khác: Làm sao mà ông có thể
tưởng tượng ra cảnh, 1 anh Mít Miền Nam, nhờ đi du học, thoát cuộc
chiến, lại
trở về để chết lãng nhách, do bị 1 tên sĩ quan "khùng" cùng đơn vị,
lầm là… VC?
(1)
It was
officially called “European Literature of the Nineteenth Century,” but
unofficially called “Dirty Lit” by the Cornell
Daily Sun, since it dealt with adultery in Anna
Karenina and Madame
Bovary.
All went
well for the next couple of months. I had caught up with the reading,
and
greatly enjoyed my Friday morning chats with Nabokov in his office on
the
second floor of Goldwin Smith. Even though they rarely lasted more than
five
minutes, it made me the envy of other students in Dirty Lit. Vera was
usually
sitting across the desk from him, making me feel as though I had
interrupted
their extended study date. My undoing came just after he had lectured
on Gogol’s Dead Souls.
The day
before I had seen The Queen of Spades,
a 1949 British film based on Alexander Pushkin’s 1833 short story. It
concerned
a Russian officer who, in his desperation to win at cards, murdered an
elderly
Russian countess while trying to learn her secret method of picking
cards in
the game of faro. He seemed uninterested in having me recount the plot,
which
he must have known well, but his head shot up when I said in conclusion
that it
reminded me of Dead Souls.
Vera also turned around and stared directly at me.
Peering intently at me, he asked, “Why do you think that?”
I instantly
realized I had made a remark that apparently connected with a view he
had, or
was developing, concerning these two Russian writers. At that point, I
should
have left the office, making some excuse about needing to give the
question
more thought. Instead, I said pathetically, “They
are both Russian.”
Cả hai đều là
người Nga!
Thanh Tâm
Tuyền
1936-2006
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa qua đời tại bang
Minesota, Hoa Kỳ, sáng thứ Ba, ngày 22 tháng Ba, 2006, hưởng thọ 70
tuổi [Tin Gió_O]
chông chênh.
nhớ. 22.3.13
(để nhớ năm thứ 7 ngày mất
ttt)
tháng tàn. tạ
cuốn trôi cùng. mùa tuyết. tan
những nụ
hoa. mọc. thẳng
trắng .đỏ.
giai điệu. mang mang
không ai. biết
những con chim. đã
về. khi nào.
buổi sáng. cùng tiếng hót
ráo hoảnh.
cái lạnh. lật úp vào. buổi
trưa đứng
bóng. chông chênh. hơi thở
ấm. làn khói
trắng. tỏa ra. từ nóc
những ngôi
nhà. không phải từ. sistine chapel
không. báo
hiệu. một điều gì. mới
mùa chuyển.
người. đi xa trong mộng. mị
tháng 3.
bóp. vỡ khuôn mặt
nước đá. của
con sông đi. ngang thành phố
tập. tô màu xanh.
non
trên. từng
búp lá. chông chênh. giá vẽ
bàn tay. vuốt
lại. mái tóc vuốt lại. hạnh phúc
nắng .cong
nơi đuôi. mắt
tiếng.
chuông vỡ. cùng vạn lời chúc. tụng
người. giáo
chủ mới. khói. chập chùng
giọt. sương
sớm. còn sót. trên gò má
xanh nhạt.
màu lá. em .nói lời
đêm qua. lời
những vì sao. rơi
tháng 3. mở
cánh cửa chiều. sâu
tiếng. cựa
mình. của ngôi nhà. sau
mùa đông
dài. co. rút. chuông đổ
buồn. chông
chênh. nhớ. người
đã khuất. nhớ.
ống píp. khói. và
nụ cười.
trên môi cơn mưa. vội. qua
cho mùa
xuân. chênh vênh đi. về
Đài Sử
Tks, Best
regards.
NQT
Killing
Time
Thời
Giết Người
"Seldom
can a year have been blackened before its time as effectively as George
Orwell
did to 1984."
Họa hoằn lắm mới có 1 năm, bị bôi đen ngòm, trước thời gian của nó,
hiệu quả,
như Orwell làm, với cái năm 1984.
Ui chao, Steiner đếch
biết, TTT cũng đã làm y chang, với Bếp
Lửa 1954!
Le
premier, Bêp lua (Foyer du feu,
1954) décrit l'ambiance de Hanoi avant
1954, où ceux qui partent comme ceux qui restent sont contraints à des
choix forcés, la séparation ou la mort. La réaction de la critique des
écrivains révolutionnaires fut immédiate. Dans un compte rendu de Van
Nghê (Littérature et Art), un critique m'a demandé : « Pendant
que le
peuple du nord du pays est en train de livrer toutes ses forces pour
construire le socialisme, où va le personnage du Foyer de feu ? » J'ai
répondu : « II va vers la destruction de l'histoire », chaque écrivain
est un survivant.
Cuốn đầu, Bếp
Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội
trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái
chết. Lập
tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách
trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi:
"Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ
nghĩa,
nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?".
Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là
một kẻ sống sót.
La poésie
entre la guerre et le camp
Thơ giữa Chiến
Tranh và Trại Tù (1)
Lần Sến cô
nương lôi bài viết ‘sao dám ghét ta la bà’ về Chợ Cá, và ‘bạn hàng’ chê
ỏng chê
eo, Gấu bèn đi một đường ‘tự sướng’:
Phải đọc Tin Văn trong
tinh thần chờ đợi,
tự mình khám phá ra, một định luật văn học, định luật này chẳng thua gì
định luật
“vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý học, của Newton!
Ấy là Gấu mô
phỏng Koestler, khi ông coi Newton như là một ông nhạc trưởng của một
dàn nhạc
đại hoà tấu. Theo nghĩa:
Những hiện
tượng vật lý, thí dụ như thuỷ triều, làm sao anh qua nổi con trăng
này?, trái sầu
riêng rớt trúng đầu… chúng có vẻ như chẳng ăn nhập gì với nhau, cho đến
khi
Newton xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, thế là mọi thứ y khuôn một
phép, ai
vào vị trí đó, cùng tấu bản đại hoà tấu “vạn vật hấp dẫn”!
Những trang
Tin Văn tản mạn, không đầu không đuôi, làm xàm, bá láp…
cũng đang chờ một độc giả xuất hiện, và giơ
cao cây đũa thần, và thế là bản “Diệt Cái Ác Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa
vừa thôi cha nội!
Sắp chết, hiền
đi là vừa rồi!
*
Nếu
vậy, thì
lấy câu dưới đây, làm "blast" cho Tin Văn:
"These
fragments I have shored against my ruins”
[Những mảnh
miểng này, tôi vun vén nhằm chống lại nỗi điêu tàn của tôi:
Ôi, ôm Em
trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới].
Đây là câu
thơ – These fragments… - kết thúc Hoang
Địa, The Waste Land, của Eliot.
Câu thơ đưa
chúng ta trở về với Xuân Sách, khi ông hỏi Chế Lan Viên:
Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có
Điêu Tàn? (1)

Ewald-Heinrich
von Kleist, plotter against Hitler and founder of the Munich
Conferences, died
on March 8th, aged 90 (1)
Đọc cái bài
ai điếu người tính làm thịt Hitler, thì lại nhớ đến ông anh. TTT rất ư
là bị ấn
tượng bởi cái tay tên Trí, tính làm thịt tông tông Diệm, lần ông đi
kinh lý
Pleiku hay Kontum gì đó.
Có lần ngồi Quán Chùa, Gấu hỏi ông, có phải nhân vật
trong Cát Lầy là từ cái tay
tính làm thịt Diệm, ông gật đầu.
Có điều Gấu
không dám hỏi tiếp, tại sao.
Sau này biết, ông có 1 người con trai, cũng tên
Trí, và cái tên ông dùng làm bút danh, để dịch Nabokov, "Từ Trí", là
tên
hai đấng con trai!
Thanh Tâm
Tuyền và 'Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay'
Viên Linh
Nhà thơ
Thanh Tâm Tuyền sinh năm 1936, khi mới 23 tuổi đã nổi tiếng về
một bài
tham luận giá trị, đó là bài “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay,” đăng
trên
tạp chí Sáng Tạo số 31, ra vào tháng 9.1959 tại Sài gòn.
Với nhà
thơ này, người tôi đã gặp hàng ngày trong nhiều năm, vì cùng
làm
trong một tờ báo, là nhật báo Tiền Tuyến của Cục Tâm Lý
Chiến, cho
tới khi ông qua đời đột ngột vào tháng 3.2006, tôi nhận ra rằng
ở nơi
ông, nhiều chuyện xảy ra rất sớm: đậu tú tài nhất năm 16 tuổi
ở Hà
Nội, vào Sài gòn sớm nhất để làm việc trong Tổng Ủy Di Cư để sửa soạn việc đón tiếp những người
di cư bắt đầu sau tháng 7.1954, xuất
bản tập thơ tự do “Tôi Không Còn Cô Độc” sớm nhất năm 1955,
(lúc 19
tuổi) và chết sớm nhất trong số các nhà thơ tự do trong bộ
Biên Tập
Sáng Tạo, tháng 3.2006, khi mới 70 tuổi
Chưa kể
đến sáng tác, văn phong lý luận của T3 (ký hiệu của Thanh Tâm
Tuyền)
lúc nào cũng đầy tính xung đột. Trong các cuộc “thảo luận
bàn tròn”
của Sáng Tạo, giọng điệu của ông gây gổ, có thể xảy ra bạo
động,
song may mắn là anh em có mặt không ai nổi giận đến mức phải
thanh
toán vấn đề một cách khác hơn là ngôn ngữ. Khi thương nhớ ai
thao-thiết, người ta muốn gọi thầm tên người yêu dấu, ông nhớ
chính
ông và viết ra giấy: “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ: Thanh Tâm
Tuyền.” Trong bài “Nỗi Buồn,” ông
viết về một
“sự thực đơn giản” - “Mọi người đều biết cái sự thực đơn
giản này:
người ta có thể viết những bài có vần điệu nhưng người ta
không hề
biết làm thơ.” Nói như thế, làm cho
nhiều người vốn đương nhiên nghĩ họ là thi sĩ vì đã có ít ra
một
tập thơ xuất bản, nay bị định nghĩa khác đi, một định nghĩa
làm
triệt tiêu danh hiệu thi sĩ của họ, hẳn là mất vui. Không ai
ngạc
nhiên khi tờ tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong thời đó (1955, 56 trở
đi)
gọi Thơ Tự Do là thơ hũ nút, và dùng nhiều giọng điệu đả
kích nhóm
Sáng Tạo, và tác giả “Tôi Không Còn Cô Độc.” Thực ra, đoạn văn
mở
đầu trong bài “Nỗi Buồn Trong Thơ” có phần xác đáng của nó,
nếu
đừng bận tâm về cách mệnh danh và phê phán người khác của
Thanh Tâm
Tuyền là “nghèo nàn, giả tạo, nông cạn, tầm thường.”
Ông viết:
1.“Thơ luật
nhịp điệu được qui định rõ ràng bằng sự phối hợp các thanh
bằng
trắc trong tám câu”
2. “Thơ mới
có biến hóa hơn nhưng rút gọn lại trong phạm vi bốn câu một”
3. “Nếu
làm thơ tám chữ hay lục bát thì chu kỳ âm điệu chỉ còn là
hai câu
thôi.”
Ba câu 1,2,3
trên đây là do người viết bài này ngắt ra, thực tế đó chỉ là
một
câu của Thanh Tâm Tuyền. Với từng ấy chữ, ông tóm gọn và muốn
xác
định bản chất âm thanh của rất nhiều thể thơ đã và đang thịnh
hành
trên Thi Đàn Việt Nam cho tới lúc đó (1959) cả một thế kỷ,
nếu không
nói là hàng trăm năm, bởi vì thơ luật (các loại thơ luật, ngũ
ngôn,
thất ngôn, Đường luật (Từ Tản Đà ngược quá khứ tới Chu Mạnh
Trinh,
Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Lê Thánh Tôn, v.v...) các thể thơ
mới
(Tiền Chiến, mọi loại, qua thơ của Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn
Mặc
Tử, v.v...) và những nhà thơ nổi
danh nhờ tám chữ và lục bát (Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Huy Cận,
Nguyễn
Bính). Viết như thế, tuy có đúng, song quá đơn giản, kiểu xếp
loại
để giải quyết cả bó. Nhưng khi đọc xa hơn, sâu hơn, người ta sẽ
hiểu
T3 hơn, anh nói đến nhịp điệu “nghịch thanh,” “nhịp điệu hình
ảnh,”
và “nhịp điệu của ý thức.” Điều này hoàn toàn đúng. Thơ
không phải
chỉ cần nhịp điệu âm thanh bằng trắc, thơ cần mọi thứ nhịp
điệu.
Nhiều bài thơ là ý thức biểu diễn bằng thi ca. Và tác giả
Tôi Không
Còn Cô Độc đi đến kết luận rằng sự khác biệt của Thơ Hôm Nay
(tức
thơ tự do) với thơ mới (thơ tiền chiến) không chỉ là sự khác
biệt
của hình thức, mà là sự khác biệt từ “căn bản nghệ thuật.”
Điều
này không sai, bởi vì dù anh có làm thơ theo thể thơ gì đi
nữa, ý
thức nghệ thuật nơi anh sẽ xác định người thi sĩ của anh.
Trong những
tờ báo do tôi điều hành về mặt bài vở, ba nhà văn Thanh Tâm
Tuyền ,
Mai Thảo và Võ Phiến đều có mục thường xuyên, dù đó là báo
tuần
(Khởi Hành, 1969-1973) hay Thời Tập (hàng tháng, rồi bán
nguyệt san,
1973-1975). Mỗi nhà văn này có một lớp độc giả riêng, độc giả
của
Thanh Tâm Tuyền thường không phải là độc giả của Võ Phiến, và
chỉ
thích thêm được vài người lân cận như Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ
chẳng
hạn. Trong bản sắc tự tại, Thanh Tâm Tuyền khác biệt hẳn mọi
người
ở sự quyết liệt, gần Vũ Khắc Khoan hơn cả. Anh cũng gần
Nguyễn Sỹ
Tế, một nhà văn, nhà lý luận văn triết tích cực, và Nguyễn
Sỹ Tế
đứng trong ban chủ trương Sáng Tạo từ ngày đầu, mà ít người
lưu ý.
Nguyễn Sỹ Tế thường được anh em Sáng Tạo mời nói lời khai
mạc, lời
mở đầu, trong các cuộc thảo luận văn học của nhóm. Thanh Tâm Tuyền viết như hành động, mạnh
mẽ quyết liệt, nét bút bic của anh thường làm rách tờ giấy,
một khi
muốn xóa bỏ chữ gì, anh gạch cả chục lần ngang dọc kín mít,
không
ai còn đọc được cái chữ bị xóa là chữ gì. Trên trang bản
thảo của
T3, những chỗ bị xóa nằm nổi bật như một đàn sâu róm đang bò
ra
khỏi tờ giấy nhăn nheo từng chỗ, cong khỏi mặt phẳng. Viết,
đối với
anh, là một hành động sinh tử. Anh cũng không nể nang cả bạn
hữu,
một khi phải nói. Lúc tôi chủ trương tạp chí Thời Tập, mời
anh giữ
một mục nhất định, anh từ chối nhiều lần, mặc dù hai năm
trước đó,
anh viết truyện dài từng kỳ cho tờ Khởi Hành một cách vui
vẻ. Anh
chỉ đổi ý khi tôi nói, tôi sẽ trả nhuận bút cho anh 500 đồng
một
trang pelure viết tay. Viết tay? 500 đồng một trang? Tôi xác nhận
nhưng
nói thêm: 500 đồng một trang viết tay nhưng anh dành cho tôi xuất
bản
thành sách lần đầu, khi xuất bản đương nhiên anh sẽ hưởng 10%
trên giá
bán cuốn sách. Từ đó, tờ Thời Tập có mục Âm Bản. Lời đề
tặng ở
dưới đề mục làm kinh ngạc nhiều người; anh tặng người bạn
thân của
anh: “Tặng Mai Thảo, óng ánh hư ngụy.”
Tôi không
ngạc nhiên vì hiểu được sự việc và con người xung quanh vào
thời gian
ấy. Đó là những con người văn học, ráo rốt và sau cùng. “Cái
còn
lại chính là văn chương” như họ từng nói. Những người ấy, của
một
lớp và chung một chiếu, một tầng, họ không xét đoán đạo đức
lẫn
nhau. Người văn nghệ không có tư cách gì để xét đoán nhân cách
của người
khác, mà chỉ đối đãi nhau qua văn chương; nói đến nhân cách
trong văn
chương là phi văn chương. Óng ánh hư ngụy ở đây là chỉ nói đến
văn
chương mà thôi. Và khi phê phán văn chương, dù sát phạt đến đâu,
không
hại gì đến tình bằng hữu văn nghệ, nếu là người cùng một
chiếu như
giữa Mai Thảo với Thanh Tâm Tuyền.
Để nhớ
Thanh Tâm Tuyền vào ngày giỗ thứ 7 của anh, mời bạn đọc
thưởng thức
một bài thơ có vần, “chu kỳ âm điệu chỉ còn là hai câu thôi,”
như
chính tác giả viết, một bài lục bát hiếm hoi của vua thơ tự
do:
Thanh Tâm Tuyền.
xuân ca
Trót nghe nửa
tiếng cười đùa
Xóm hoa
mưa
đổ hương xưa nghẹn ngào
Thuở buồn
ai
đẹp phương nao
Cúi đầu
trinh khóc xôn xao trêu người
Yêu nhau
không dám ngó trời
Trời xanh
mây trắng xuân đời bỏ hoang
Hoa mai
nở
đón mắt nàng
Mà môi
trống
lạnh muôn vàn cách xa
Hôm nay
muốn
gió thành hoa
Muốn mây
thành tóc lòng ta rũ cười
Bao giờ
trọn
vẹn cuộc đời
Ta ôm mây
trắng
cho trời mãi xanh.
(Trích
trong sách Những Hàng Châu Ngọc của Huy Trâm, 1967)
Viết vào
ngày giỗ thứ bảy của cây bút cơ hữu Tiền Tuyến. VL (1)
*
Nguyễn
Đạt: Vĩnh biệt
Thanh Tâm Tuyền
Lúc
anh Tâm
đi “cải tạo” tập trung, anh bảo tôi mang con Lu về nuôi: “Tôi đi học
tập cải tạo,
cậu mang nó về mà nuôi, ở nhà tôi chắc chả ai trông nom nó bằng cậu
được. Khi
nào nó đẻ, cậu giữ lại cho tôi một con.” Lu có đẻ mấy con, dưới gầm
đi-văng,
không hiểu sao, mấy ngày sau chẳng thấy con nào nữa, Lu thì kêu rít
thảm thiết.
Lúc anh Tâm “học tập cải tạo” ở miền Bắc về, con Lu bị bọn trộm đánh
cắp.
TTT: Âm Vang Khác
Trước
vụ Thiên An Môn hơn năm, Thanh Tâm
Tuyền kể với tôi vừa đọc cuốn truyện tình đầu tay tuyệt vời của
Nabokov, tên tiếng
Anh là Mary. Tôi nói:
- Hay là anh dịch đi, tôi nhờ ông bạn Đào
Hiếu đang làm nhà xuất bản in cho anh, kiếm tí tiền còm cho vui!
Chỉ mấy tuần sau anh đem bản dịch viết
tay tới tôi, tựa sách là Tình Một Thuở, anh nói đó là một đoản ngữ
trong thơ Hồ
Dzếnh, tên dịch giả ghi Từ Trí, theo tôi biết đó là tên hai con trai
của anh. Tôi
giao liền cho Đào Hiếu nhưng gần Tết năm 89 sách mới phát hành. Giấy
đen thui,
tối om như mọi cuốn sách lúc đó, hình bìa cũng in màu nhưng ai đó chép
lại một
bức tranh của Chagall cứng ngắt, vụng về, xấu tệ. Thanh Tâm Tuyền nhìn
bìa
sách, lật qua đọc lời nói đầu thấy sai mấy lỗi chính tả, anh cười méo
xẹo! Sau
it hôm, người ta nhờ tôi chuyển cho anh tiền thù lao, nhớ đâu vài ba
trăm ngàn
gì đó, nay tôi không thể hình dung giá trị số tiền trong thời điểm đó
thế nào,
nhưng hình như anh thấy thế cũng đuợc rồi! Tết năm đó anh chạy xe đạp
lên nhà,
mang cho tôi hai chiếc bánh chưng. Ra giêng gặp lại, anh bảo:
- Này, ăn có được không đó? Mấy đứa nhỏ
quên bỏ muối mất!
*
Sinh Nhật
13.3.1973
Hôm nay sinh
nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái nào trước
cái nào
sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên tâm vì thư
không
thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì
là thất
lạc của thất lạc...
Chỉ biết hôm
nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe những
chuyện lẩm
cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài
Pagode,
hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn đêm nay còn mãi
mãi" mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài từ hồi
nào,
có đăng rồi mà quên ......
Thư gửi đảo
xa
21. Sinh nhật
húy nhật
Les morts de
Lofoten sont moins morts que moi (a)
Oswald L. de
Milosz
Giữa trưa mệt
té xỉu trên đồi
Quanh mình vẳng
tiếng cuốc liên hồi
Đào huyệt
chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên
xác tù nằm phơi
Nhìn
xem
gương mặt hắn thanh thản
Lộng nắng bừng
say chợp ngủ vùi
Người mang cầm
hãm đặng bêu riếu
Hắn “cũng
đành xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc
ham mê rồ dại” [1]
Hắn tự chôn
huyệt gió đáy trời.
(a)
Tous les morts sont ivres
de pluie vieille et froide
Au cimetière étrange de Lofoten
L'horloge du dégel tictaque lointaine
Au coeur des cercueils pauvres de Lofoten
Et grâce aux trous creusés par le noir printemps
Les corbeaux sont gras de froide chair humaine
Et grâce au maigre vent à la voix d'enfant
Le sommeil est doux au morts de Lofoten
Je ne verrai très
probablement jamais
Ni la mer ni les tombes de Lofoten
Et pourtant c'est en moi comme si j'aimais
Ce lointain coin de terre et toute sa peine
Vous disparus, vous suicidés, vous lointaines
Au cimetière étranger de Lofotene
- Le nom sonne à mon oreille étrange et doux.
Vraiment, dites-moi, dormez vous, dormez-vous ?
- Tu pourrais me conter des choses plus drôles
Beau claret dont ma coupe d'argent est pleine.
Des histoires plus charmantes et moins folles ;
Laisse-moi tranquille avec ton Lofoten.
Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar Vladislas de Lubicz Milosz
Éditions André Silvaire
Có thể, TTT đọc
bài thơ này, cùng lúc với thơ Nguyễn Bắc Sơn, cùng lúc, viết thư cho
đảo xa
& về lại Sài Gòn từ Đà Lạt…. và, nhận ra cái ý tưởng bàng bạc
giữa thơ
của Oscar Milosz, và của NBS:
Tous les morts sont ivres
&
Nếu ta lỡ
chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến
thành mây bay.
Đúng ý
Alain, như
Steiner trích dẫn làm đề tử trong cuốn mới ra lò của ông, Thơ của Tư
tưởng:
Toute pensée
commence par
un poème.
(Every thought begins with a poem.)
Mọi tư tưởng bắt đầu bằng
1 bài thơ
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Tất cả những
người chết thì đều say
Tất cả những
người đã chết thì đều say mưa,
[một thứ mưa]
xưa, và lạnh
Ở nghĩa
trang là lạ là Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn
Đồng hồ băng tan tích tắc ở xa xa
Ở trái tim của
những chiếc hòm nghèo nàn của Sài Gòn
Và nhờ những
lỗ thủng được khoét bởi mùa xuân đen
[VC gọi là Đại
Thắng Mùa Xuân, Đỉnh Cáo -
hay Cao thì cũng được - Chói Lọi]
Những con quạ
mập phì vì thịt người lạnh
Và nhờ ngọn
gió gầy có tiếng nói của con nít
Giấc ngủ mới
mềm dịu biết bao với những người chết ở Sài Gòn
[Cái gì gì
giống như “Ngã ở trên núi khi vác củi”:
Hồn dưng dưng
chẳng chút oán sầu?]
Có lẽ Gấu sẽ chẳng
bao giờ nhìn thấy [lại]
Biển Vũng Tầu,
Không,
Những nấm
mồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng không.
Nhưng, rõ ràng
là, ở trong thằng cu Gấu
[Thằng cu Nghệ, TTT, đúng hơn],
Mới yêu thương làm sao,
Cái nơi chốn
xa xăm và tất cả nỗi khổ đau của nó.
Lũ Chúng Ta
[chữ của VHC]
Mất tích, tự tử, lạc loài
Ở nơi nghĩa địa
là lạ là Mạc Đĩnh Chi
-Ui chao, chỉ
nội cái tên thôi mà đã dội ở nơi tai Gấu
Một cái gì là lạ và dịu dàng.
Thực sao, hãy
nói cho Gấu biết, bạn ngủ ư, bạn ngủ ư?
Toa có thể kể cho moa
nghe những chuyện tức cười hơn
Rượu vang thì
đẹp và cái ly sành của moa
thì đầy
Những chuyện
thú vị, và ít khùng điên ba trợn
Hãy mặc moa với Sài Gòn của toa
[Toa ở đây là ông bạn miệt vườn, bạn
quí
của thằng Bắc Kít di cư là GCC]
Trời thì đẹp.
Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Của những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
Đảo
Xa
|
|