*





















 
 


[Ở xứ Bắc Kít, thì cảm thấy ra làm sao] 

Thú thực, cái nhìn như bây giờ của Gấu với những Tô Hoài, Kap, là mới có đây thôi, sau khi bị 1 em Bắc Kít mắng, khi viết về Kap.
Lúc đó, Gấu chưa đọc Kap, và cái bài trên TV về ông, là tóm tắt 1 bài viết trên TLS, khi ông mất.
Tờ TLS không ưa Kap, và còn không ưa nhiều người nữa, trong có Linda Lê, thí dụ.

Chỉ 1 khi bị em Bắc Kít “mắng”, Gấu mới tìm đọc Kap, cùng lúc, nhìn lại Tô Hoài. Cái bài đầu tiên Gấu đọc Kap, là 1 truyện ngắn, [ký thì đúng hơn], đăng trên 1 số Granta. Đọc, rồi nhớ lại những năm chiến tranh, khi còn nhỏ, ở miền quê Bắc Kít, và thế là bổi hổi bồi hồi, nhận ra… Gấu, anh cu Gấu, Bắc Kít, nhà quê, trước khi được về Hà Nội học!

Hà, hà!
Ryszard Kapuscinski 

Granta, Winter 2004

Số Granta về Mẹ, có bài viết của Ryszard Kapuscinski, When there is talk of 1945 [Nói về năm 1945 khi nào nhỉ?], thật là tuyệt, với Mít, vì 1945 đúng là cái năm khốn khổ khốn nạn của nó.
Ðây là 1 hồi ức về tuổi thơ của ông, lần đầu nghe bom nổ, đâu biết bom là gì, chạy đi coi, bị mẹ giữ lại, ôm chặt vào lòng, và thì thào, cũng một điều đứa bé không làm sao hiểu nổi: “Chết ở đó đó, con ơi, There’s death over there, child”.
Những năm tháng chiến tranh trùng hợp với ấu thời, và rồi, với những năm đầu của tuổi trưởng thành, của tư duy thuần lý, của ý thức. Thành thử với ông, chiến tranh, không phải hòa bình, mới là lẽ tự nhiên ở đời, the natural state. Và khi mà bom ngưng nổ, súng ngưng bắn, khi tất cả im lặng, ông sững sờ. Ông nghĩ những nguời lớn tuổi, khi đụng đầu với cái im lặng đó, thì bèn nói, địa ngục chấm dứt, hòa bình trở lại. Nhưng tôi không làm sao nhớ lại được hòa bình. Tôi quá trẻ khi đó. Vào lúc chiến tranh chấm dứt, tôi chỉ biết địa ngục.
Một trong những nhà văn của thời của ông, Boleslaw Micinski, viết, về những năm đó: Chiến tranh không chỉ làm méo mó linh hồn, the soul, của những kẻ xâm lăng, mà còn tẩm độc nó, với thù hận, và do đó, chiến tranh còn làm biến dạng những linh hồn của những kẻ cố gắng chống lại những kẻ xâm lăng”. Và rồi ông viết thêm: “Ðó là lý do tại sao tôi thù chủ nghĩa toàn trị, bởi vì nó dạy tôi thù hận”.
Trong suốt cuộc chiến, hình như Bắc Kít chưa từng quên hai chữ thù hận. Nhưng hết cuộc chiến, vẫn không bao giờ quên cả. Thành thử, cái còn lại muôn đời của cuộc chiến Mít, theo GNV, chỉ là thù hận.
Một người như Kỳ Râu Kẽm, “bó thân về với triều đình”, như thế, mà đâu có yên thân. Chuyện ông bị đám hải ngoại chửi thì còn có lý, vì rõ là phản bội họ. Nhưng khốn nạn nhất là lũ VC chiến thắng, chúng vẫn giở cái giọng khốn nạn ra, thôi tha cho tên tội đồ. Cái “gì gì” đứa con hư đã trở về nhà!

Tô Hoài by Nhật Tuấn

Note: Viết về Tô Hoài như thế này thì sẽ không làm sao cắt nghĩa được sự hiện hữu của những tuyệt tác của ông, nhất là, “Ba Người Khác”.
Theo Gấu, đọc Tô Hoài, thì nên đọc song song với những Milosz, Ryszard Kapuściński…

Đây là 1 đề tài lớn của thế kỷ, và của Mít. Cả 1 nền văn học Miền Bắc, sau chỉ còn lại, được, ở Nguyễn Tuân, Tô Hoài, và 1 phần nào, ở Nguyễn Khải.
Về Milosz, có thể đọc mấy bài sau đây:

The wiles of art

To wash

Đề tài này, mới đây, Gấu được đọc cuốn của Todorov, mới cực thú: Hồi Ức như Thuốc Chữa Cái Ác, Cái Quỉ Ma, Memory as a Remedy for Evil. Ba Người Khác là thứ hồi ức đó, cho/do chính Tô Hoài, 1 tên Đại Ác kể ra!
TV sẽ giới thiệu chương viết về Cambodia và Khờ Me Đỏ.

How It Felt to Be There

Neal Ascherson

RYSZARD KAPUSCINSKI: A LIFE
by Artur Domoslawski, translated by Antonia Lloyd-Jones.
Verso, 456 pp., £25, September, 978 I 84467 858 7

There are two large question marks over Kapuscinski. The first is about his writing. Did he make things up? Did he manufacture quotes, say he had been to places when he hadn't, describe scenes that never happened? If so, did he tell lies in his routine reporting, as an agency man for the Polish Press Agency and Polish newspapers? Or did he reserve for his famous books a style of 'literary reportage' in which embroidery and even manipulation of the facts were skillfully used to create a reality 'truer than the truth'? The second question mark is about his politics: what he did and said when he was young, and how he covered it up later. But here it's important to note a difference in the emphasis given to those two question marks. For foreigners, especially Anglo-Saxon ones, the real Kapuscinski problem is veracity. How should we read books like The Emperor (based, according to him, on interviews with Haile Selassie's courtiers after his empire had been overthrown) now that it seems unlikely that those interviews took place as he described them?

Tờ Điểm Sách London, số 2 August, 2012 đọc tiểu sử của RYSZARD KAPUSCINSKI.

GCC bị tay này ám ảnh! Và cứ nghĩ tới bạn của Gấu là Cao Bồi!
Có hai dấu hỏi to tổ bố về Kapuscinski: Thứ nhất là về những gì ông viết. Không lẽ ông bịa, bịp?
Thứ nhì là về thái độ chính trị của ông

Du lịch cùng với Herodotus

*

Kapuscinski: A Life

RYSZARD KAPUSCINSKI’S colourful writing, especially about Africa, gained him a global reputation in the early 1980s. He became celebrated for his descriptions of Haile Selassie’s tenebrous court in Ethiopia, the overthrow of the shah of Iran, and for his knack of using vignettes of humble lives to tell big stories about poor countries.

He was also slippery about his own beliefs, careless with facts, a loyal servant of a totalitarian regime, and cruel to those who loved him. That is the picture painted in Artur Domoslawski’s compelling and controversial biography, published in Poland in 2010 and now in English.

Mr Domoslawski is not a doctrinaire anti-communist, for whom any collaboration with the regime is unforgivable treachery. Nor is he one of those who prizes the beauty of Kapuscinski’s prose over his professional lapses. Mr Domoslawski was a friend of the great man; but resolved to treat his life as a subject for serious inquiry, setting out with an open mind and detailed knowledge, and adding more insights and evidence along the way.

The result is an exemplary explanation of what made Kapuscinski tick. Growing up in Pinsk, in the (now lost) eastern borderlands of pre-war Poland, he was caught between the hammer and the anvil in the war years. The hungry little boy learned that the brave die first. He saw neighbours tortured by the Nazis and others deported by the Soviets. He later claimed (untruthfully) that his father had escaped death at Katyn, where the Soviets killed more than 20,000 captured Polish officers and reservists. But why did Kapuscinski, so insightful about others, never give his own views on Stalin? Or on his decades as a communist-party member? He joined as a youth and left only in 1981.

The experience of arbitrary power and then political change at home did much to shape his understanding of events abroad. His sympathy for victims of colonialism in Africa reflected Poland’s captivity in the Soviet empire. His depiction of the absurdities of the shah’s Iran was a clear critique of decaying Polish bureaucratic socialism.

Freedom and the hard currency to travel were rare privileges in the post-war decades. That meant loyalty. Kapuscinski joined the Solidarity cause in 1980. But he was no dissident. Communism was disappointing, but not diabolical. The system made mistakes, but they were “our mistakes,” he argued.

Kapuscinski was not a typical foreign correspondent: he went on his first trip, to India, speaking no English. Unlike his glitzy Western counterparts, he travelled by bus and lived in cheap hotels. Covering wars, he sometimes carried a gun, and used it. He wrote regular confidential reports for the authorities and personally briefed the party’s central committee. He sometimes sat on, or slanted, stories vital to the communist cause, such as Cuban involvement in the wars of southern Africa. He helped the Polish spy agency—not much, fans say, and no worse, perhaps, than Western journalists did on their side. But it all stains his reputation.

His personality is another puzzle. A modest manner belied a detachment that shaded into arrogance. He was a dreadful father. Absences and affairs tested sorely his wife’s loyalty. Many who counted him as a friend found they remembered how he listened, not what he confided.

A lack of self-confidence meant that he longed to be liked and hated saying no. That helped him keep powerful protectors who eased him through the thickets of Polish bureaucracy. It also led him, oddly, to cut passages in the American edition of a book that might have offended the CIA. He habitually sacrificed facts for effect. He never corrected false assertions that he had “befriended” Che Guevara and Patrice Lumumba. This hardly helped him in the unforgiving climate of post-1989 Poland.

The translation by Antonia Lloyd-Jones makes the sweep and tone of Mr Domoslawski’s Polish readable, without sacrificing its curious, to English eyes, use of the present tense and rhetorical questions. Readers feel sympathetic to the man, though bleakly aware of his flaws. The playfulness of a gifted writer, however delicious to read, can have victims. For the living, exaggerations and inventions are hurtful, or worse, while the dead cannot complain. Having grown up in a system built on lies, it is odd that Kapuscinski did not have more regard for the truth.

Lớn lên, trưởng thành, trong 1 hệ thống được xây dựng bằng dối trá, lạ làm sao là, K đếch thèm để ý đến chân ný!

Tuyệt!

Me-xừ Nhật Tuấn không hiểu được điều này, nên cứ xỉ vả Tô Hoài hoài!

Tô Hoài cũng có thể phán như sau đây, về cái chuyện cứ đi nước ngoài hoài!

Freedom and the hard currency to travel were rare privileges in the post-war decades. That meant loyalty. Kapuscinski joined the Solidarity cause in 1980. But he was no dissident. Communism was disappointing, but not diabolical. The system made mistakes, but they were “our mistakes,” he argued.

Tự do và đô la Mẽo để đi dong chơi xứ người là những đặc quyền những năm hậu chiến. Và nó có nghĩa là trung thành. K gia nhập công đoàn Đoàn Kết năm 1980. Nhưng ông đếch phải thứ ly khai. CS thì tởm, nhưng chưa đến nỗi quỉ ma. Hệ thống có phạm lỗi lầm, đó là “những lỗi lầm của chúng ta”, K vặc lại...  Nhật Tuấn!

Sự khác biệt giữa Nhật Tuấn, và Tô Hoài, là những tác phẩm. Một giả, một thực. Với K & TH, đều là những tuyệt phẩm.


Chẳng có chỗ cho cả hai, Brodsky và chủ nghĩa CS, trong cái xứ sở thật rộng lớn đó. Bè lũ VC Nga bực bội với tất cả những gì Brodsky làm, [cả đến chuyện đi ị, như nhà thơ NCT đã từng bực, đúng vào ngày sinh nhật Bác]. Andrei Sergeev, bạn của Brodsky, sau đó viết: Nhà chức trách không thể làm bất cứ điều chi ngoài chuyện bực, với tất cả những gì Brodsky làm, không làm, đi tản bộ loanh quanh, đứng, ngồi ở bàn, nằm xuống giường, và ngủ. Brodsky vẫn cố tìm đủ cách xb thơ của ông, vô ích. Tới mức, hai ông cớm KGB gật đầu, chúng tao sẽ in thơ của mày, trên loại giấy đặc biệt, bản quí, dành cho "bạn quí" của mày, nếu mày đi một đường báo cáo về những ông giáo sư, bạn của mi, chỉ là báo cáo xuông, những chuyện làm xàm ba láp thôi.

The Gift


The wiles of art

Mưu ma chước quỉ của nghệ thuật

Guilt and greatness in the life of Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz

Tôi là kẻ may mắn sống sót, nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?

Đây là vấn nạn của “Shoah”, một phim của Lanzmann, theo David Denby, trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước, Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra trình chiếu ở Mẽo.

Đẩy đến cực điểm, thì nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù VC kể như không có!
Đâu có phải tự nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả VC cũng quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa.
[But the notion that the Holocaust might happen again is exactly what "Shoah" is not about.]

Hà, hà!

(1)

K. mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là Xịa. ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!]
Bộ sách vĩ đại Văn Học Miền Nam của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa khác! Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third blackguard, and one third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3 khủng, mát] tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù Pentonville, báo cáo với sếp.

Cái lũ cà chớn Hậu Vệ và đệ tử của Thầy Cuốc chửi Gấu là mạ lỵ ông tiên chỉ. Làm gì có chuyện đó: ông tiên chỉ mạ lỵ ông tiên chỉ là đủ rồi. Thử hỏi, một khi ông VP lấy tiền của Mẽo để viết về văn học Miền Nam, liệu ông có dám chửi thằng chủ chi địa không?
Trong VHTQ có dòng nào nói xấu anh Mẽo, người bạn quí của dân Mít?
Đồng ý là Mẽo thực sự không hề có ý ăn cướp, dầy xéo nước Mít, nhưng chúng đến chẳng có ý tốt, mà bỏ chạy lại càng không có ý tốt!
[Gặp đã khó, xa lại càng khó, cái này để gửi đảo xa, hà hà].

Nhưng khốn nạn nhất là những dòng VP viết về đám Sáng Tạo, y chang những dòng MT nhớ về người bạn quí, mà ông đã từng lầm với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn dám ngửa tay xin ông 1 điếu thuốc lá!

Cũng vẫn chất Bắc Kít khốn kiếp mà ra!
Đọc những dòng MT viết về Trung Kít, trong phỏng vấn do TK thực hiện, rồi đọc TQVH của VP là nhìn ra ngay lòng hận thù giữa Kít với Kít.
Cái khốn nạn của dân Mít là còn do chữ S mà ra.

Nếu có 1 chữ “K” cảm tính của Kafka, (1) thì cũng có 1 chữ S hận thù của giống Mít.

Source


Viết kể với em, lúc này anh nhớ đến một câu thơ của Milozs : Je suis plus mort que les morts de Lofoten. Nhảm. Mai Thảo nó bảo: ca, c'est de la littérature, sống không như vậy. Điều đó chính anh vẫn nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt để nói hình như anh cũng đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào một kẻ chết đuối. Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết cho em - có thể sau thư này - anh bất định quá.

Thư gửi Đảo Xa

Note:

Milosz, không phải "Milozs". Và cũng không phải Czeslaw mà là Oscar Milosz, cũng họ hàng với nhau.
Czeslaw Milosz tin rằng, phải có tí bẩn mới là thi sĩ của thế kỷ 20 được, nhưng ông lại thèm được như Brodsky, như ông viết trong "entry" “hatred”, trong Milosz’s ABC’s:

Đời tôi thì là một trong trong những cuộc đời kinh ngạc nhất mà tôi đã trải qua, one of the most astonishing I have ever across. Đúng là nó thiếu sự trong sáng của một câu chuyện đạo hạnh như là của Brodsky. Ông ta đang đào “kít” [“như toàn thể dân Nga”, chữ của Brodsky] ở một nông trường cải tạo, và vài năm sau “đợp” [collect] mọi vinh quang, kể cả Nobel văn chương.

TTT, một cách nào đó, thì cũng giống Brodsky, ông bị lịch sử lọc ra, và đành đóng vai ‘kẻ sĩ Ngụy’, dù chẳng muốn, như trong thư gửi đảo xa cho thấy:

Thường anh chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì về mình, bởi mỗi lần ngó thấy anh đều thấy như mình bị đóng đinh. Anh đã là như thế nhưng anh còn có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao giờ xúc động lâu về những điều đàm tiếu, thị phi hết.

Tôi gặp anh Vũ Ngọc Thăng lần đầu vào năm 2006, tầm tháng Chín tháng Mười gì đó, tại Hà Nội. Trước đó đã có viết email trao đổi, hình như qua giới thiệu của Phạm Thị Hoài, nhưng gặp nhau cũng chẳng nói mấy chuyện; đi theo Italo Calvino hình như toàn những người không nói lắm. Anh Vũ Ngọc Thăng là một trong vài người đang sống ở Canada đóng góp cho dịch thuật tiếng Việt, thuần túy vì văn chương. Hai người nữa là Nguyễn Khánh Long (Vu khống Lại chơi với lửa) và Nguyễn Quốc Trụ (Istanbul); hình như ba người không ai quen biết ai, và cả ba đều có những trang dịch thần sầu từ mấy tác giả cũng thần sầu, và cũng thuần túy văn chương.

Blog NL

Gấu quen cả hai, và đều qua NTV.
NKL học Văn Khoa Sài Gòn, cùng với ông anh BHD.
NKL không thường đâu. Cực kiêu ngạo. Khi Gấu nhắc tới băng nhà văn Montreal, trong lần đầu NTV giới thiệu, anh bực ra mặt, tôi có bao giờ đọc mấy ông đó đâu!
Còn VNT, khá thân, tính tình được lắm. VNT có thời gian dài ở Ý trước khi qua Canada. Anh rành tiếng Ý, dịch I-tà-lồ từ nguyên tác. Gấu lỡ mê Faulkner rồi, nên ít đọc giả tưởng nằm ngoài dòng Faulkner, nhưng tiểu luận của I tà lồ, thì quá mê!
Cái nhìn phê bình của ông khi đọc những tác giả nổi tiếng, là của riêng ông, nhiều khi khác hẳn cái nhìn chung của đa số; giống Pamuk, tách hẳn ra khỏi kinh điển, nếu gặp Thầy Đạo thì lại bị chê là không phải dân chuyên ngành!

* *

*

On December 13, 1943, the twenty-four-year-old Primo Levi was arrested by the Fascist Militia and detained at a camp in Fossoli, near Modena. Nine weeks later, having admitted to being an "Italian citizen of Jewish race," he was sent to Auschwitz together with all of the other Jewish prisoners.
Everyone, he says: "even the children, even the old, even the ill."
In Auschwitz, one of Primo Levi's tasks, together with five others in his Kommando, was to scrape out the inside of an underground petrol tank. The work was exhausting, brutal and dangerous. The youngest of the group was an Alsatian student called Jean, a seventeen-year-old who was given the task of “Pikolo" or messenger-clerk in the mad bureaucracy of the camp.
During one of the assignments, Jean and Primo Levi are obliged to spend an hour together, and Jean asks Levi to teach him Italian. Levi agrees, and suddenly the Ulysses canto of the Commedia comes to his mind - how or why he does not know. As the two men walk towards the kitchens, Levi tries to explain to the Alsatian, in bad French, who Dante was and what the Commedia is, and how Ulysses and his friend Diomedes burn eternally in a double flame for deceiving the Trojans. Levi intones the admirable verses: 

The greater horn of the ancient flame
Began to shake itself, murmuring,
Just like a flame that struggles with the wind;
Then carrying to and fro the top
As if it were the tongue that spoke
Threw forth a voice, and said: "When ... " 

After that, nothing. Memory, which at the best of times betrays us,....


Nhắc tới Italo Calvino, nhân xuống phố đổi phim, bèn quơ số Descant, Đổi Mới, Renovations, trong có bài essay thật ngắn về “Nếu Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời”. Quơ, là vì bài viết của Alberto Manguel: Đổi Mới Ngọn Lửa Cũ: Primo Levi ở Auschwitz [The Renovation of the Ancient Flame]