Ghi chú
trong ngày
22.9.2010
Người Ả
rập thường nói
Khi một người khách lạ đến
nhà
Trong ba ngày hãy nuôi nấng
anh ta
Rồi mới hỏi: bạn là ai thế?
The
Arabs used to say,
When a stranger appears at
your door,
Feed him for three days
Before asking who he is
Nếu
điều này làm cho bạn có
chút nghĩ ngợi mông lung, chuyện này qua chuyện khác, đó mới thật là
thơ. Ngoài
ra, thì không phải.
NDT: Thơ cần thiết cho ai
Hình
ảnh 'người lạ xuất hiện trước cửa' liên quan tới, hơn cả thơ, mà
còn
tới, một "thiên sứ" của Sến Cô Nương!
Thành thử ‘feed’ ở đây phải dịch là 'tiếp đãi'.
Và,
đợi 3 ngày, vì còn liên quan đến... Tin Mừng!
*
Note:
Một độc giả, thích mẩu
thơ, tìm đọc trên net nguyên bài thơ, sau đây. Theo vị này, feed, dịch
là ‘nuôi’,
thì OK, nhưng thêm chữ ‘nấng’, thì lại không OK.
Dân
A-rập ngày xưa là dân
du mục,
nhiều lúc họ đi hàng tháng liền trong sa mạc không có chỗ tá túc, nên
khi đến
được nhà ai, được cho ăn, ngựa được uống nước, được nghỉ là quý lắm.
Trong các
điều Hội Thánh dạy ngày xưa có dạy: Cho khách đậu nhà.
Hospitalité-tiếp đón khách
niềm nở là một đức tính được đề cao của người Do Thái.
Hinh anh nhuong goi hoa cho
khach la hinh anh qua nen tho+, phai khg bac?
Bây giờ với kiểu quá giang xe
rồi giết tài xế thì không còn ai dám liều để tiếp khách lạ nữa.
Có một comment của độc giả để
hiểu thời bay giờ: Nhà luôn luôn khóa cửa. Xe đi chốc lát cũng khóa cửa.
Red
Brocade
The
Arabs used to say,
When a stranger appears at
your door,
feed him for three days
before asking who he is,
where he’s come from,
where he’s headed.
That way, he’ll have strength
enough to answer.
Or, by then you’ll be
such good friends
you don’t care.
Let’s go back to that.
Rice? Pine nuts?
Here, take the red brocade
pillow.
My child will serve water
to your horse.
No, I was not busy when you
came!
I was not preparing to be
busy.
That’s the armor everyone put
on
to pretend they had a purpose
in the world.
I refuse to be claimed.
Your plate is waiting.
We will snip fresh mint
into your tea.
– Naomi Shihab Nye
• Liz
Sherbow // Mar 27, 2009 at 1:03
pm
At first this seemed so far
removed from reality. I and my husband keep our doors locked at all
times at
home. I lock my car no matter how short the interval that I’m leaving
it.
What began to sink in so
beautifully was the “No, I was not busy when you came!
I was not preparing to be
busy.
That’s the armor everyone put
on
to pretend they had a purpose
in the world.
I refuse to be claimed.”
So far from my present
reality and I become aware it’s absence. I wonder …
Liz
V/v
‘nhường gối hoa’, GNV có
một kỷ niệm để đời, với cô học trò, trong truyện ngắn Bụi, hồi
ở trại tị nạn.
V/v ‘khách lạ xuất hiện trước
cửa’, Steiner có đi một đường, đâu đó, thú lắm, để GNV mò tìm, trình
lại sau.
Nhân trường hợp "tạm trú"
Với
tôi, tác giả tập truyện
"Tạm trú" này là một nhân vật vô cùng… tiểu thuyết.
Hoàn
cảnh xuất thân của cậu
ta hơi đặc biệt, tính tình cũng vì vậy mà cũng đặc biệt, cực đoan quay
quắt,
cuồng nhiệt lắm mà khắt khe cũng lắm. Khen tận mây mà chê cũng tới bùn.
Cậu ta
cả thèm chóng chán, một năm nhảy cóc vài cơ quan, làm toàn chuyện thời
thượng
như thi dẫn chương trình, viết báo, làm báo… Đôi khi trong lúc bám mảng
văn hóa
văn nghệ với những bài viết sắc sảo khen chê đâu ra đó thì cậu ta ngã
lòng tính
chuyện đi buôn cho mau… giàu.
Cái sự đọc của Duy cũng kịch
tính như người. Tháng này cậu ta gần như sưu tầm hết thảy những gì liên
quan
tới Lý Lan, nếu không mua được cuốn sách đó thì cậu ta sẽ mượn photo,
nhân tiện
làm năm bảy bản để cho ai chưa đọc thì cùng đọc, cùng Duy nấu cháo điện
thoại
bình luận cho tan cho rã tác phẩm chị Lan mới thôi. Tháng sau, cậu ta
trót ngây
ngất với anh Phan Triều Hải mất rồi. Nhưng không phải là đã quên chị
Lan đâu,
còn lâu... Bằng chứng là cậu ta mê chị Vàng Anh từ năm bảy năm trước mà
giờ vẫn
còn lục lọi những bài… phỏng vấn chị để ngồi nhâm nhi.
Mỗi lần gọi điện thoại cho
nhau, tôi thường hỏi Duy dạo này mê ai, lúc rày làm việc cho chỗ nào.
Một bữa
cậu ta nói em giờ ở nhà viết văn.
Tôi
không mấy bất ngờ, có lẽ
hồi làm việc ở Hội văn nghệ tôi đã thấy những mẩu truyện học trò của
Duy in
trong những tờ báo cũ. Duy bỏ đi và giờ cậu ta quay lại, tự tin làm một
đồng
nghiệp của tôi. Không chút nào e ngại, Duy cứ hồn nhiên ào tới với văn
chương,
đòi hái bằng được sao trời. Cậu tuôn ra một thứ văn trẻ trung nóng hổi
bốc
khói, xốc xới, hồ hởi đến nỗi tôi cảm giác nếu có thể đem cả thế
giới này
vào một truyện ngắn thì Duy cũng làm. Văn giống như người, không
chịu ngồi
đâu lâu lâu. Đang lẽo đẽo theo chân cô nhân vật này bỗng ngắm nghía
muốn chạy
tới nàng kia. Như thằng nhỏ nhảy chân sáo đi bắt chuồn chuồn, con này
bay thì
nó rình con khác, không cố chuyên tâm theo cùng đuổi tận. Lần nọ đọc
loạt
truyện của Duy lần thứ hai, nhận ra chết cha, mình bị cái giọng hóm
hỉnh giòn
tan của Duy lừa mị, rốt cuộc nó nói gì vậy ta ????
Duy từng hỏi tôi văn Duy
thiếu gì. Tôi nói giỡn, thiếu…tuổi, thứ không thể quyết có là có được.
Cũng
giỡn, tôi kêu Duy yêu thật nhiều đi, để buồn, để chiếc xuồng chở nỗi
đau đời từ
từ khẳm lừ. Chiếc xuồng khẳm đi rất đằm không ngả nghiêng chao đảo, và
tạo ra
con sóng lớn (tất nhiên cũng đầy rủi ro vì rất dễ… chìm). Ai không biết
sao chớ
kinh nghiệm riêng tôi là càng buồn càng thấy mình chững chạc. Đó là tôi
thuận
miệng xúi dại thôi…
Bây giờ
những cuộc gọi của
chúng tôi chưa bao giờ thưa, nhưng câu hỏi đầu tiên của tôi đã khác,
"lúc
này viết gì ?". Và Duy nhiều lúc bỗng ngập ngừng như tôi của mười năm
trước, thấy mông lung biển chữ này không biết bờ đâu bến đâu…
Duy đã biết hoang mang...
9/07/2010
Anonymous said...
Chị Tư
Với tấm lòng qúy mến về chị,
xin cho phép ngỏ với chị đôi chút. Nếu chị thấy không bằng lòng với một
đôi
điều tôi sắp thưa với chị, xin đừng chấp nhất. Xin chị chịu khó giữ cái
thuần
khiết của giọng Nam
trong văn chị. Thí dụ cái phương ngữ "cả thèm chóng chán" không có
gốc ở giọng Nam
một chút nào. Đó là giọng Bắc, tiếc thay, lại là Bắc thô lậu. Điểm thứ
hai, mấy
chữ "Duy lần thứ hai, nhận ra chết cha, mình bị cái giọng"..có hai
chữ mà chị vô tình làm nhói tim tôi-và không ít người khác-vì nỗi đau
riêng,
ước chi chị chị đừng dùng hai chữ đó, văn của chị nghe vẫn 'so nice'
mà. Mấy
lời bộc bạch, nếu không phải, xin bỏ qua.
Người xứ xa.
9/09/2010
Nguyễn Thiên Ngân said...
em rất quý bài giới thiệu này
chị à.
9/10/2010
sau rieng said...
@Ngân : Cảm ơn em ! Chị mong
em không nản lòng, không bao giờ đánh mất tình yêu vào văn chương, mặc
kệ người
ta (nhất là lão đầu bạc, chị là chị cằn nhằn ông ấy lắm í) có nói ngả
nghiêng
gì.
Chúc em nhẹ nhàng và bình an
!
9/10/2010
*
Note:
Cô Tư làm nhà điểm sách
mà chẳng mê sao?
GNV mạn phép, có sửa tí lỗi
chính tả, ‘mẩu truyện’, không phải ‘mẫu truyện’: sai một ly đi một dặm!
Lão đầu bạc? Ai vậy cà?
NQT
30.9.2010
Ghi chú
trong ngày
Trong Chiều Chiều Tô Hoài đã
gay gắt riêng với Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, vì là, hay dù là, chỗ cố tri
trước
1945 (tr.20). Phải chăng vì Hiếu Chân tránh gặp lại Tô Hoài sau 1975,
vì chút
hào khí tuyệt vọng của con người chiến bại, hay tự cho là như thế. Còn phần Tô Hoài, thì không có vấn đề ấy; như
cái lần đưa đám ma ông Minh Đức, chủ nhà
xuất bản, anh đã phải trả lời Nguyễn Tuân : « Trong đầu tôi không có
câu hỏi
nào về việc như ông hỏi » (CBCA, 1992,
tr. 57). Đây cũng là một câu nói chìa khoá, để tìm hiểu Tô Hoài. Có
những câu
hỏi Tô Hoài không bao giờ đặt ra. Nguyễn Tuân có vẻ không tin (tr. 57),
nhưng
mà đúng vậy. Ngược lại, có lúc anh ấy
đặt ra những nghi vấn rất chi là vớ vẩn. Cũng có thể Tô Hoài không biết
là Hiếu
Chân đã bị bắt và chết trong nhà giam Chí Hoà, 1985. Tôi dừng lại hơi
lâu ở
trường hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất, nhưng có
nguy cơ
bị khuếch đại và xuyên tạc.
Đặng Tiến
Note: DT viết về TH, không
đạt, do không đủ nội lực, đúng như thế, thứ nội lực mà chỉ những kẻ
thực sự
sống sót cuộc chiến, mới có được (1), và luôn có vẻ khệnh khạng, ra vẻ
kẻ cả,
và đúng giọng cay cú, của 1 kẻ chạy theo VC, viết về 1 kẻ bị VC đầy ải
đến chết
ở trong tù.
TH bảnh hơn nhiều, so với những gì mà DT xưng tụng, nhất
là ở cái phần ác của ông. Hãy nhớ những gì TH viết về Doãn Quốc Sĩ, về
Võ
Phiến, về Ngụy, và nhất là, về chính ông ta, trong Ba Người Khác [nên
nhớ, BNK
là một thứ chân dung tự thuật của chính TH].
Buông dao đồ tể mong thành
Phật, hoặc thành cái gì kệ mẹ nó, đó là tâm sự,
hoài bão của TH, những ngày cuối đời, theo GNV.
Khen thì phải khen tới nơi,
như thế, chứ viết cái kiểu làng nhàng, lăng nhăng, như thế này, đừng
mong có
‘nguy cơ bị khuyếch đại và xuyên tạc.’
Và, phải trích lại những gì
TH viết về HC, thì người đọc mới có thể đánh giá những gì DT viết về HC
& TH, tôi muốn nói, về những quen biết trước đó của họ, khi còn ở
ngoài
Bắc.
Hiếu Chân là ông anh rể của
GNV, nhưng không vì thế mà có những dòng này. GNV đã tính viết về DT,
nhân cái
lần ông khóc Hoàng Cầm, nhưng do có người khuyên, hãy chờ 1 thời gian
rồi hãy
viết.
Có lẽ sẽ còn đi thêm vài
đường về ông Chánh Tổng An Nam, không dở dở ương ương mãi được!
NQT
(1) Virtue, after all, is far
from being synonymous with survival; duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's
Item"
(Sống sót do nhập nhằng,
không phải bởi đạo hạnh).
Cái sự sống sót của DT, là do
nhập nhằng, không phải do đạo hạnh mà có được.
Điều này ảnh hưởng nặng nề vào cách viết của DT.
Một kẻ đã bỏ chạy, làm sao
nói về cái kẻ bị VC bắt, và chết trong
tù?
Làm sao viết về hào khí tuyệt
vọng của kẻ chiến bại?
DT làm sao biết thứ hào khí
tuyệt vọng này?
Cái
người viết đúng về Tô
Hoài, phải là Vương Trí Nhàn. Và cái thái độ của
Tô Hoài, khi đọc, và
cho phép đăng,
không bỏ những gì viết thật là nặng nề về cái phần ác, độc của TH, cho
thấy, ông
thực tình mong hậu thế nhận xét thật đúng về ông, không phải theo cái
kiểu hề tuồng
mà lại khệnh khạng, như DT viết.
*
Giữa lúc có
mặt mọi người nhân kỷ niệm 40
năm thành lập Hội Nhà văn, Lê Đạt nhắc lại câu đùa mà tôi đã được nghe
mấy lần:
Tất cả già đi, và trông anh nào cũng đểu
giả, chỉ có lão Tô Hoài là đểu thật.
VTN
Những
dòng cuối Chiều Chiều. Giọng Tô Hoài trầm xuống,
nghẹn lại. Chấm dứt cuốn Tự Truyện như vậy là tài tình. Hay ở chữ tài.
Quý ở
cái tình. Chữ tài vẫn quý nhưng không hiếm. Cái tình vừa quý vừa hiếm,
càng
ngày càng hiếm, có cơ tuyệt chủng.
DT
Đểu
thật!
Vua đểu!
NQT
Có thể nói rằng
nếu chất người của một số người Việt Nam
ta là ma thì Tô Hoài là một thứ ma thượng thặng, ma đến tận đường gân
thớ thịt.
Là ma, nên sống thế nào cũng được. Nên không biết sợ là gì. Nên cảm
thấy mình
có mắt ở mọi nơi. Nên lẩn khuất, sợ hãi, mà lại hăm hở hưởng thụ.
VTN
Câu phán thú, thực.
Gấu gọi là Cái Ác Bắc Kít, đấy!
Phan
Thị Vàng Anh vs Vương Trí Nhàn vs Tô Hoài
Gấu đọc Tô Hoài
rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông
mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn
thêm một
câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam
Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ
khác
xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính
là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có
“Sa mạc
Tartares” của Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông
nói là
đọc nó vào thời mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc
Nam Kỳ,
tại Sài Gòn, khi có BHD.
*
Có hai nhà văn
Bắc Kít chúng ta
cần đọc đi
đọc lại, là Tô Hoài và Nguyễn Khải. Đọc NK thì phải nhớ câu phán của
ông: Giá
mà không có Đảng thì tôi đã trở thành một vị linh mục. Nhớ luôn những
tác phẩm
ông tấn công vào cái nôi tôn giáo ở Miền Bắc, là vùng Bùi Chu, Phát
Diệm.
Tô Hoài, đừng bao giờ quên ông còn là tác giả của Dế Mèn. Giả
như không
có Đảng, liệu Cái Ác của ông vẫn còn nằm ẩn tàng ở trong cái vỏ ngây
thơ của
một tác giả chuyên viết chuyện cho nhi đồng?
Tuy nhiên, trong Quê Người, người đọc đã ngửi ra được Ba Người Khác,
khi đọc
cuốn sau, rồi đọc lại cuốn trước!
Nam Cao so với Tô Hoài, thua xa về khoản Ác siêu việt, vượt luôn cả
hiện thực!
*
Còn một tay nữa, nhưng mới nháng lên như ánh lửa ma trơi thì đã vụt tắt
rồi,
là… Quê choa NQL!
Những entries đầu của anh, Cái Ác Trung Kít mà chẳng... "Thần" sầu,
ư?
Đấy là chưa kể tới Cái Dâm, mà "Xìn Phóng" xém mất mạng vì phán
"ẩu" về nó!
*
Thêm một bài viết thứ nhì của PTVA, về VTN, trên web phong diep. Đọc
bài này,
càng thấy PTVA không hiểu gì hết về tình trạng văn chương ‘tự thú’ của
mấy đấng
nhà văn Miền Bắc.
VTN cũng có hai mặt, y như mấy ông kia, thí dụ Tô Hải, Nguyễn Khải…
Nhưng với một con người như Tô Hoài, đừng mong ông viết thứ đó, và đúng
như VA
nói, [cung nô bộc của TH xấu quá!], ông nhờ một tên đàn em ở gần ông là
VTN,
nói giùm ông!
Nên nhớ VTN đã từng xém bị làm thịt vì cứ lo bới móc cái xấu của dân
Mít, đâu
đợi đến bài viết về Tô Hoài chúng ta mới nhận ra?
VTN? Cũng đừng mong ông công khai tự thú như Tô Hải, thí dụ!
Ông viết thật cay đắng về TH, là cũng để ngầm tự thú, và để xả xú bắp,
sau bao
nhiêu năm bị sư phụ ém tài!
Ui chao văn chương nó làm nhục con người làm sao, nhất là không có nó,
thì làm
sao có miếng ăn!
Chúng ta cũng đừng mong những dòng tự thú của VA!
Bài viết của VA về VTN cho thấy, còn lâu Mít mới có một ông thánh của
Lò Cải
Tạo!
*
30.9/1.10/2010
Cái
đoạn Tô Hoài viết về Nguyễn
Hoạt, ngay nơi Chương I, Chiều Chiều, bạn đọc TV có
thể coi tại VN thư quán.
V/v
Nguyễn Hoạt gửi thư cho 1 người bạn còn ở lại Miền Bắc, thời gian trước
1975,
chúng ta đành tin theo Tô Hoài, nhưng những gì mà TH viết về Hiếu Chân,
thì
sai, thí dụ, HC có xe hơi, có vệ sĩ, hay làm thượng nghị sĩ, và chi
tiết về cái
chết của HC cũng sai.
TH chẳng biết gì về cái chuyện Mẽo di tản nhân viên của họ
trước ngày 30 Tháng Tư 1975, nên viết 'gay gắt',“Mẽo đưa ba thứ
rẻ rách
như HC đi Mẽo làm gì”, là 'khen' HC!
Giọng điệu TH viết về HC thì
cũng giống như ông viết về nhiều người như về DQS, về VP, và về đa số
những nhà
văn Miền Nam
mà TH gọi là Ngụy.
Gấu này không hiểu lý do nào mà Đặng Tiến lại đặc biệt chú ý
đến cas Hiếu Chân Nguyễn Hoạt như ông viết:
Trong Chiều Chiều, Tô Hoài đã
gay gắt riêng với Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, vì là, hay dù là, chỗ cố tri
trước
1945 (tr.20). Phải chăng vì Hiếu Chân tránh gặp lại Tô Hoài sau 1975,
vì chút
hào khí tuyệt vọng của con người chiến bại, hay tự cho là như thế. Còn
phần Tô
Hoài, thì không có vấn đề ấy; như cái lần đưa đám ma ông Minh Đức, chủ
nhà xuất
bản, anh đã phải trả lời Nguyễn Tuân: « Trong đầu tôi không có câu hỏi
nào về
việc như ông hỏi » (CBCA, 1992, tr. 57). Đây cũng là một câu nói chìa
khoá, để
tìm hiểu Tô Hoài. Có những câu hỏi Tô Hoài không bao giờ đặt ra. Nguyễn
Tuân có
vẻ không tin (tr. 57), nhưng mà đúng vậy. Ngược lại, có lúc anh ấy đặt
ra những
nghi vấn rất chi là vớ vẩn. Cũng có thể Tô Hoài không biết là Hiếu Chân
đã bị
bắt và chết trong nhà giam Chí Hoà, 1985. Tôi dừng lại hơi lâu ở trường hợp
Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất, nhưng có nguy cơ bị
khuếch
đại và xuyên tạc.
Cái chuyện HC tránh không gặp
TH, thì cũng dễ hiểu, bởi vì bất cứ 1 nhà văn Miền Nam nào cũng đều
tránh gặp mấy
ông nhà văn VC Bắc Kít hay Nam Kít cả, đâu riêng gì HC!
Làm sao DT lại có thể ‘nhân
danh HC’ mà cắt nghĩa những gì gì hào khí tuyệt vọng?
Tới đoạn DT ‘nhân danh TH’ mới
thật nhảm: “Còn phần Tô Hoài, thì không có vấn đề ấy; như cái lần đưa
đám ma
ông Minh Đức, chủ nhà xuất bản, anh đã phải trả lời Nguyễn Tuân: «
Trong đầu
tôi không có câu hỏi nào về việc như ông hỏi » (CBCA, 1992, tr. 57).”
Đem chuyện
với ông Minh Đức để giải thích vào trường hợp với HC, là sao? Viết hằn
học, ‘gay
gắt riêng’ đến như thế, mà lại xử huề ngay được, không có vấn đề ấy, là
sao?
Lại còn đoạn, “tôi dừng lại hơi
lâu… “, cũng thật khó hiểu: Tại sao HC lại là một biệt lệ, có thể duy
nhất?
Đọc, là thấy ngay DT có tị hiềm
gì với HC. Trong khi Gấu biết rất rõ, HC chẳng hề có gì gay gắt DT, ông
còn
quí DT về cái tài phê bình thơ.
Viết về
người đã chết, nên
cẩn thận một chút, bởi vì người đã chết không làm sao còn có thể thanh
minh gì
được.
So
những gay gắt với riêng Hiếu
Chân, thì đoạn Tô Hoài viết về Võ Phiến độc hơn nhiều. Ông chửi đám
đưa người
tập kết năm 1954 bỏ sót hai tên đại phản động là Võ Phiến và Giang Nam,
một thủ lãnh
cao cấp trong hàng ngũ VNQDD. Đặng Tiến viết, ông có nói vụ
này với
VP, và VP xác nhận, nhưng ngạc nhiên, làm sao TH biết về Lam Giang?
Về vụ
này, GNV rành hơn DT, và
đã kể ra rồi: VP thoát bị đem ra Bắc làm thịt, là nhờ một tay VC thứ
bự, rất mê
văn nghệ, và chính tay này ra lệnh cho thuộc hạ, vờ, cho VP trốn thoát
về thành.
Brodsky
viết, khi vinh danh
Akhmatova, trong lời tựa cho tập thơ của bà, sở dĩ bà tiếp tục làm thơ,
bởi bà
cảm thấy mình có lỗi, vì đã sống sót, và, ở một chỗ khác, ông coi thể
loại ‘ai điếu’
thường được người sống sử dụng, để chứng tỏ, ta là kẻ sống sót, còn mi,
nạn nhân,
vì đã chết rồi!
Cái thứ
văn chương ai điếu này
đúng là thứ văn chương hải ngoại của đám nhà văn Miền Nam
may mắn thoát
chết, ngay sau 30 Tháng Tư 1975. Cái air của bộ VHTQ đúng là cái air
này. Cách
viết của DT thì cũng rứa: Trong cái khệnh khạng của ông, còn là để che
giấu nỗi
nhục bỏ chạy, khi cả Miền Nam
đang chịu đựng cuộc chiến.
*
Levi
và Kertész
đều "may mắn": điều này là chắc chắn, không một người Do Thái nào còn
sống sót sau Lager (nhan đề phiên bản tiếng Anh in tại Mỹ của Se
questo e un
uomo là Survival in Auschwitz) mà không may mắn, may mắn
cộng với
một thể lực ít nhất là trên trung bình, cộng thêm nữa là tài xoay xở,
hay nói
thẳng ra là thành thạo các thủ đoạn. Quốc tịch cũng quyết định một phần
số phận
của từng người: là người Ý, Levi bị động đến rất sớm, còn người Hung là
một
trong những đợt vét cuối cùng của Đức Quốc xã, cái "Aktion Hungary"
nổi tiếng, được miêu tả rất chi tiết trong... thôi... để cho ai quan
tâm tự tìm
hiểu.
Blog NL
Có thể, đối với
chúng ta, độc giả, thì những nhà văn này, đã sống sót, ở trong đời
thực, và còn
sống sót, trong giả tưởng, may mắn. Nhưng tôi không tin họ nghĩ mình
may mắn!
Steiner cho rằng,
đúng ra, ông phải chết ở Lò Thiêu, nhưng nhờ ông bố đưa gia đình đi,
trong chuyến tầu chót qua Mẽo, mà ông thoát, và ông viết từ nỗi ân hận
đó.
Brodsky cũng viết như thế về nhà thơ Akhmatova, bà viết, bà làm thơ, vì
nghĩ mình
có lỗi, guilty, vì đã sống sót!
Đó là ý câu của Alain, như
Steiner viết:
Man is not merely one who
lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống,
ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là hơi bị tỏ ra tự hào,
phán, 'nó
còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của
Những Ông Thầy.
Ui chao, mấy ông
như ông Chánh Tổng An Nam, Tổng Quan Văn Mít, đọc họ, Gấu này
chẳng
thấy 1
tí ân hận, tội lỗi nào, vì đã 'may mắn' sống sót cả!
Gấu 'không cảm thấy' là các ông ấy 'cảm thấy' họ may mắn, tự hào vì đã
sống sót!
Thế mà còn ‘cao
giọng’ viết láo lếu về người đã chết!
Gấu cũng có cái
may mắn đó!
Nhưng ngược lại!
Trước 1975, Gấu có rất nhiều cơ hội bỏ chạy, nhưng đến phút chót, không
xẩy ra,
như thể có thằng xúi dại, này, đi là chết đấy, đi là hết về, đi là hết
gặp vợ
con...
Đừng nghĩ là
Gấu này can đảm, hay có ý thức cao, hay yêu nước...
Anh chàng Kiệt của TTT, đi
rồi mà còn phải bò về để chết.
Gấu cũng
thế: đi là hết cái vé đi tù!
Gấu quả
thực là đã có hơn 1 cơ
hội bỏ chạy, khi chưa có gia đình, còn độc thân. Nào là học bổng tu
nghiệp, vì
ra trường, đi làm sớm, nào là qua me-xừ sếp Dirck Halstead, mày có muốn
đi
Tokyo làm chuyên viên UPI không, tao lo cho, nào cơ quan RCA Manila, do
Gấu có
thời gian làm part time cho họ, tại Đài VTD, số 5 Phan Đình Phùng Sài
Gòn. Nhưng
Gấu đều lắc đầu!
Có vẻ
như trong thâm tâm, GNV
này vẫn hoài vọng, viết, 1 cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến Mít, cũng nên!
Nhưng
cái lần tay Dirck qua
Việt Nam, những ngày 30 Tháng Tư, thì quả thật, không thể nào bỏ đi, là
vì gia đình
vợ con, Gấu không thể bỏ chạy lấy thân 1 mình được, khi anh ta đề nghị,
mày muốn
đi thì vác cái máy quay phim kia kìa, rồi theo tao lên trực thăng, ra
hạm đội 7, vì
hết còn cơ quan DAO, hết còn C.130, làm sao đưa cả gia đình mày đi được.
V/v
'Hào khí tuyệt vọng của con người
chiến bại'.
Đây là
ông Chánh Tổng An Nam ‘xổ
nho’, chửi cả lũ Nguỵ, qua một cá nhân Hiếu Chân, Nguyễn Hoạt. Chính là
đã 'mơ hồ'
nhận ra điều này, rằng, sẽ bị đập, mà anh đi một đường cảnh báo trước:
Tôi dừng lại hơi lâu ở
trường
hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất, nhưng có nguy cơ
bị
khuếch đại và xuyên tạc.
Note: GNV viết về bạn hiền
DT, tuy thật nặng nề, vì bắt buộc phải như thế, nhưng đừng ai nghĩ GNV
này thù
hằn gì DT, ở ngoài đời thường!
Lâu lâu bạn hiền vẫn mail hỏi
thăm, và đó là chuyện bình thường!
Cũng vậy, là trường hợp với mấy
đấng bạn quí của GNV!
Những
chi tiết về Hiếu Chân/Nguyễn
Hoạt, như TH viết, Đặng Tiến chắc chắn biết là sai, thí dụ, có xe hơi,
có vệ sĩ,
làm thượng nghị sĩ, nhưng ông không cải chính, và thay vì vậy, ông đoán
mò về cái
chuyện HC từ chối không đi gặp Tô Hoài, là do hào khí tuyệt vọng của
con người bại
trận!
HC chỉ
là 1 ký giả quèn của Miền
Nam, đã quá tuổi lính, chẳng giữ chức gì của nhà nước VNCH, như thế thì
những hào
khí tuyệt vọng kia, chẳng là nhằm nói về cả một chế độ đã cho DT cơ hội
làm 1 thằng
hèn trốn tránh cuộc chiến ư?
*
As a theme,
death is a good
litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam" genre is
frequently used to exercise self-pity or for metaphysical trips that
denote the
subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the
alive)
over minority (of the dead).
Brodsky
[Tạm dịch: Như là một đề tài,
cái chết quả là một thứ thuốc thử mầu tốt để xét nghiệm đạo hạnh của
một nhà thơ.
Cái dạng ‘ai điếu’ thì thường được sử dụng, để rèn luyện cái trò tự
thương thân,
trách phận, hay là trong những chuyến đi siêu hình nhằm thể hiện tính
cao ngạo
ngầm của kẻ sống sót đối với nạn nhân, của đa số (những kẻ còn sống)
đối với
thiểu số (những người đã chết)]
Áp dụng
‘quan điểm’ này, của
Brodsky, vào văn học hải ngoại thời gian ngay sau 30 Tháng Tư ít lâu, y
chang! VP
lấy tiền Mẽo, thay vì cứu tử văn học Miền Nam, thì hết lời giả đò, ta
đâu có
xứng đáng viết phê bình, biên khảo, văn học sử, nhưng ngoài ta ra đâu
còn ai? Và
sau đó, khi viết về nhóm Sáng Tạo, thì đùng cái giọng ‘ai điếu’, coi
tất cả đều
đã chết trong Lò Cải Tạo rồi!
DT cũng rứa. Ông viết về đám
trong nước, thì giở giọng nâng bi, nào Tô Hoài, nào Hoàng Cầm, nào Trần
Dần, và
khi viết về đám Miền Nam, thì đúng giọng ai điếu, nhằm thể hiện sự 'ưu
việt', của
kẻ sống sót (một tên bỏ chạy, phò VC), đối với nạn nhân (lũ Ngụy)!
Ông
viết về Thảo Trường, trên BBC:
Một
tâm hồn nhân hậu và phóng khoáng như thế, mà phải trải qua vòng 17 năm
lao lý
qua 18 trại giam, sau khi chiến cuộc đã chấm dứt, là điều giới làm văn
học
không hiểu.
Ngày
nào đó, chính trị phải trả lời văn học.
Không
hiểu cái con khỉ! Ai cũng
hiểu, chỉ DT đếch chịu hiểu!
Ngày nào đó, là ngày nào? Chính
trị nào trả lời văn học nào?
Rõ
ràng như ban ngày, là thằng
VC chết tiệt gây ra, và nó phải trả lời, và chỉ một khi không còn có
nó, thì nó
khỏi phải trả lời!
Viết khôn tổ cha, kiểu đó, sao
không chửi cho được?
Có thể
có người cho rằng, DT đã
từng bị đánh tơi bời về cái chuyện ông phò VC. Bây giờ GNV lại bồi
thêm, thì không
nên.
Không phải như vậy. Bài viết
này chỉ là để chỉ cho thấy DT không đọc nổi, ngay cả Tô Hoài, khi cứ
tiếp tục nâng
bi ông ta, mà vờ đi cái ác cực ác ở trong tác phẩm của TH.
Rõ ràng là ông không hề đọc
những bài viết của VTN, về TH, được sự cho phép của chính TH.
DT viết phê bình, nhất là phê
bình thơ, tới chỉ, không phải nhờ uyên bác, nhờ có óc phân tích tổng
hợp, nhờ dựa
vào 1 trường phái phê bình nào đó, thí dụ, nhưng mà hoàn toàn nhờ cái
'vốn trời
cho'.
Ngoài ra, ông viết mấy thứ khác, thì đều nhảm cả.
Ngoài
ra, lại ngoài ra, DT
lười đọc. Nếu đọc VTN, viết về TH, có lẽ ông ‘bắt chước’ Kafka, đốt mẹ
bài viết
mừng TH lên 90 tuổi của ông!
Mời DT đọc:
06.12.2009
TÔ HOÀI - nhìn từ một khoảng
cách gần
Gấu
viết về TH, một phần nào,
là để ‘giải hoặc’ giấc mơ từ hồi còn nhỏ, nhờ TH mà có được: Giấc mơ ăn
cướp
Miền Nam!
Hà, hà!
*
“Ở cái
ngã sáu
đường đời ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai
và bếp
lửa thùng cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ
qua.
Trông mặt người đạp xe cũng đoán được tung tích, mỗi người đều hằn nét
bộ mặt
thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về
uống rượu
húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là
các ông
chánh, ông lý tề vừa chạy tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các
vùng
trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào thành, trẻ hơn,
đỡ lầm
lỳ, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm
kia...
-Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê
bít
tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền,
xếp tiền
thế kia đủ biết.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không?..."
Tôi trích một đoạn, trong Cát Bụi Chân Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn -
ở đây
là Tô Hoài - quan sát giống hệt một điệp viên, và Nguyễn Tuân đã giải
tỏa cả một
đoạn văn đầy những chi tiết chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về
người đã
chết. Nghe nói Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ lỗi" với vong
hồn bạn, nhưng nhờ vậy, chúng ta thấy một Nguyễn Tuân "không chính
thức",
và bằng cách nào ông sống sót...
Trong hai nhà văn
tiền bối kể trên, Tô Hoài mới là người thân cận với
tuổi thơ
của tôi, của "chúng tôi". Làm sao quên được cảnh tượng chú dế mèn võ
sĩ được thiền sư xén tóc "cải hóa". (Hãy mường tượng ra, nghi lễ
xuống tóc cho một tín đồ nào đó!). Làm sao quên hương ngọc lan của một
buổi hẹn
hò. Ôi nỗi đắng cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê
mình", đâu đó giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc,
nơi chỉ có hai mùa mưa nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm,
không phải
từ thiên nhiên ác nghiệt, mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc,
không
đợi mùa màng, ngày tháng... Làm sao mà hiểu nổi, một nhà văn với một
thiên
lương như vậy, với những quan sát tinh vi về loài vật, về một con người
như Cu
Lặc, lại có thể cay nghiệt như thế về một cõi tề, nguỵ? Đành phải giải
thích
bằng kinh nghiệm đọc Primo Levi, một nạn nhân của Lò Thiêu, qua bài
viết:
"Những cuốn tiểu thuyết do dế kể" (11).
Primo Levi nhắc tới một bài essay của Aldous Huxley,
qua đó, nhà văn
người Anh
này, khi phải trả lời một người trẻ tuổi muốn nhờ ông ban cho một lời
khuyên,
bắt đầu viết như thế nào: hãy mua một đôi mèo, quan sát, rồi miêu tả
chúng.
"Nếu tôi (Levi) nhớ không nhầm, ông nói với người trẻ tuổi, rằng loài
vật,
và đặc biệt động vật có vú, đặc biệt hơn nữa, những loài vật nuôi trong
nhà,
chúng như chúng ta, nhưng 'bỏ cái nắp đí ('with the lid off'). Cư sử
hành động
của chúng giống như của chúng ta, một khi mà chúng ta mất đi được
(thiếu, lack)
sự kiềm chế."
Thế giới con người trong Cát Bụi Chân Ai, lạ thay, là đảo ngược thế
giới loài
vật Tô Hoài mô tả, những ngày trước Mùa Thu. Những con vật của ông
"người" hơn, so với những con người sau này (so với cách ông miêu tả
con người sau này). Vẫn theo bài viết của Levi, từ tiếng nhạc dế có thể
suy ra
khí hậu của môi trường sống. Người ta còn nhận ra một điều: dưới những
điều
kiện thiên nhiên bình thường, dế đực và dế cái cùng một nhiệt độ, nhưng
nếu
thân nhiệt của dế đực (thí dụ vậy) tăng lên chỉ một hay hai độ, tiếng
nhạc của
nó tăng lên bán-cung, và bạn lòng của nó sẽ không trả lời: con cái
không còn
nhận ra dục tính ở con đực. Môi trường thay đổi chút xíu, thế là có một
"thảm họa", một bất toàn, một khiếm khuyết, một bất xứng đôi, nẩy
sinh: phải chăng chúng ta có một mầm (germ) tiểu thuyết ở đây? Levi tự
hỏi.
Nguyễn Tuân buông một câu: Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách
giải thích
"vấn nạn này", và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách
nào đó, Nguyễn Tuân đã giữ thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa
Thu làm
thay đổi. Và nếu ông nghĩ đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình.
Ở đây,
ta lại thấy vị thiền sư xén tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với
giấc mơ
trừ hết ác ôn tề nguỵ. Và cái câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì
hành động của vị sư già chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy
hai ông sư
giả cầy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ
72
tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy
vọng cải
hóa...
Note:
Bài viết “Một chuyến đi” này,
là bài từ giã mục Tạp Ghi, Gấu phụ trách trên báo Văn Học của NMG,
nhưng, thực sự, là lời từ biệt mấy người bạn, trong băng VH, nhờ viết
cho VH, mà Gấu được quen
biết.
*
1986
Những suy nghĩ khi
nhớ lại Tự truyện
Một xuất phát tốt
là thiên
hồi ức Cỏ dại. Hình như thời thơ ấu không may mắn đã
giúp cho
người trai ấy có sự tỉnh táo, biết vị thế của mình trong đời. Cái gốc
của Tô
Hoài là một linh hồn bơ vơ. Một người thợ thủ công “cỏ dại” chính cống.
Sau mới
có một con người cán bộ — cán bộ viết văn – trùm ra ngoài.
VTN
Tuyệt!
Tuy
nhiên, Gấu nhìn TH, qua
Gấu, và tuổi thơ của Gấu, ở Đất Bắc.
Cái
đoạn văn gạch đít, trên,
là từ TH, từ cái ‘linh hồn bơ vơ’, mà có được!
Tâm lý
khốn kiếp nhất của đám
Miền Nam bỏ chạy cuộc chiến nhờ vào chính sách 'dành dụm, cứu vớt' nhân
tài, đừng
để chết uổng trong cuộc chiến, của chính quyền VNCH, là, chúng không hề
mong cuộc
chiến kết thúc, nhưng chỉ cầu mong Miền Bắc thắng trận, chỉ là vì, chỉ
một khi
Miền Bắc thắng trận, thì mới giải trừ cho chúng, nỗi đau nỗi nhục, hèn
nhát bỏ chạy: chúng tao có lý, vì đã
từ chối tham dự cuộc chiến, như là một tên đánh thuê cho Mẽo.
Chính là từ cái tâm lý khốn nạn
đó, DT viết, trong đó, có cái việc nâng bi mấy ông kẹ văn nghệ Miền Bắc.
*
3.10.2010
Như
những lời chúc dữ, chúng
báo trước một Miền Nam
mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Lần Cuối Sài Gòn
"America
wanted
compromise," he [Kissinger] said. "Hanoi wanted victory."
Phải đến bây giờ Kissinger mới
hiểu ra sự thực, về cuộc chiến Việt Nam, khi thú nhận, Mẽo đánh giá
thấp sự lỳ
lợm của VC Miền Bắc. GNV post lại lời phát biểu của ông, ở đây, và nhân
đó, so
sánh với cái tâm lý ‘ngựa Hồ hí gió Bắc’, của những ông như DT.
Tuy
nhiên, nếu K đọc TH, có lẽ
sẽ vẫn nghĩ như trên, nhưng phát biểu khác đi một chút:
Hà Nội muốn… ăn cướp!
Đây là sự khác biệt đưa đến băng
hoại Mít hiện nay.
Sep.
29, 2010
Kissinger: Vietnam
Failures 'we Did To Ourselves'
Kissinger Laments US Failures
In Vietnam;
Says Most War Mistakes 'we Did To Ourselves'
(AP) WASHINGTON (AP) - Henry Kissinger,
who helped
steer Vietnam
policy during
the war's darkest years, said Wednesday he is convinced that "most of
what
went wrong in Vietnam
we did to ourselves" - beginning with underestimating the tenacity of
North Vietnamese leaders.
Offering a somber assessment
of the conflict, which ended in 1975 with the humiliating fall of Saigon, Kissinger lamented the anguish that
engulfed a
generation of Americans as the war dragged on.And he said the core
problem
for the U.S. was
that its
central objective of preserving an independent, viable South Vietnamese
state
was unachievable - and that the U.S.
adversary was unbending.
“America
wanted compromise," he
said. "Hanoi
wanted victory."
Kissinger spoke at a State
Department conference on the history of U.S.
involvement in Southeast Asia. The
department
in recent months has published a series of reports, based on newly
declassified
documents, covering U.S.
decision-making on Vietnam
in the final years of the war.
Kissinger was national
security adviser and secretary of state under President Richard M.
Nixon and
continued in the role of chief diplomat during the administration of
President
Gerald R. Ford.
In introducing Kissinger,
Secretary of State Hillary Rodham Clinton - who opposed the war as a
college
student and has written that she held contradictory feelings about
expressing
her opposition - spoke in broad terms about how the conflict influenced
her
generation's view of the world.
"Like everyone in those
days, I had friends who enlisted - male friends who enlisted - were
drafted,
resisted, or became conscientious objectors; many long, painful,
anguished
conversations," she said. "And yet, the lessons of that era continue
to inform the decisions we make."
Kissinger offered a more
personal, extensive assessment of the war that killed more than 58,000 U.S.
servicemen.
He said he regretted that
what should have been straightforward disagreements over the U.S. approach to Vietnam
became "transmuted into a moral issue - first about the moral adequacy
of
American foreign policy altogether and then into the moral adequacy of America."
"To me, the tragedy of
the Vietnam war was not that there were disagreements - that was
inevitable,
given the complexity of the (conflict) - but that the faith of
Americans in
each other became destroyed in the process," he said.
He called himself
"absolutely unreconstructed" on that point.
"I believe that most of
what went wrong in Vietnam
we did to ourselves," he said, adding, "I would have preferred
another outcome - at least another outcome that was not so intimately
related
to the way that we tore ourselves apart."
In hindsight, Kissinger said,
it is clear just how steadfast the North Vietnamese communists were in
their
goal of unification of the North and the South, having defeated their
French
colonial rulers in 1954.
Historians are coming to the
same conclusion.
In his account of the
conflict, "Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975,"
military historian John Prados wrote, "The (North) had a well-defined
goal
- reunification of the country - and an absolute belief in its cause."
Kissinger credited his North
Vietnamese adversary in the peace negotiations - Le Duc Tho - with
skillfully
and faithfully carrying out his government's instructions to
outmaneuver the
Americans.
"He operated on us like
a surgeon with a scalpel - with enormous skill," Kissinger said.
Washington and Hanoi
signed a peace accord in January 1973, and Kissinger and Tho were
jointly
awarded the Nobel Peace prize that year for their role in the
negotiation. Tho
declined the award.
The peace accords provided a
way out of Vietnam
for the U.S., but
it left South
Vietnam vulnerable to a
communist takeover.
"We knew it was a
precarious agreement," Kissinger said, and that the conflict was not
really over. But Washington
also was convinced that the South Vietnamese could hold off the
communists,
barring an all-out invasion.
Kissinger joked that his long
negotiating sessions with Tho took a heavy and lasting toll.
"I would look a lot
better if I had never met him," he said.
A flavor of the negotiating
difficulties is revealed in a newly declassified transcript of a
meeting
between Kissinger and Tho in Paris
on May 21, 1973, in which they discussed problems implementing the
peace
accords.
"We have been meeting
for only 45 minutes and already you have totally confused us,"
Kissinger
told Tho.
To which Tho replied:
"No, you are not confused yourself. You make the problem confused."
Source