3.10.2010
Như
những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam
mòn mỏi,
suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Lần Cuối Sài Gòn
"America
wanted compromise," he [Kissinger] said. "Hanoi wanted victory."
Kissinger:
Vietnam
Failures 'we Did To Ourselves'
Phải
đến bây giờ Kissinger mới hiểu ra sự thực, về
cuộc chiến Việt Nam, khi thú nhận, Mẽo đánh giá thấp sự lỳ lợm của VC
Miền Bắc.
TV post lại lời phát biểu của ông, ở đây, và nhân đó, so sánh với cái
tâm lý
‘ngựa Hồ hí gió Bắc’ [ăn cơm quốc gia], của những ông như DT.
Tuy
nhiên, nếu Kissinger đọc TH, như Gấu đọc, khi còn
nhỏ, ông có lẽ sẽ vẫn nghĩ như trên, nhưng phát biểu khác đi một chút:
Hà Nội muốn… ăn cướp!
Đây
là sự khác biệt đưa đến băng hoại Mít hiện nay.
Một lịch sử mới thật hơn cho
Việt Nam
Với tôi, Việt Nam đã có nhiều
lần "ra đời" hay "tái sinh".
Cái tay
viết bài này có vẻ
như cũng nhận ra cùng 1 vấn đề như Gấu, khi tin rằng lịch sử Việt Nam
không có 1,
mà có nhiều, tùy theo mảnh đất ngày một
kéo dài về phía Nam, và đám Bắc Kít ngày một nhìn về, một cách thèm
muốn, trong
khi đồng bằng sông Hồng ngày một quắt lại!
Trong
Tam Quốc, khi Lưu Bị tính
làm thịt Tây Thục, mới hỏi quân sư Bàng Thống, sử dụng policy nào, BT
bèn đưa
ra ba cái, vương đạo, trung đạo, bá đạo ‘gì gì’ đó, lâu ngày quên mất.
Lưu Bị
phán, vương đạo, ta không dám, vì bụng ta toàn kít, bá đạo thì dã man
quá, thôi
‘trung đạo’ đi.
Vương
đạo, chính là cái lý
tưởng đẹp nhất của cuộc chiến Mít, và đúng ra nó phải như vậy. Gấu đã
từng
phán, cuộc chiến Việt Nam
là giấc mơ đẹp nhất mà nhờ có nó, mà có giống Mít. Tuy nhiên, vương đạo
chỉ là cái
vỏ, bên trong đựng cái lõi bá đạo, là ăn cướp Miền Nam.
Gấu
này, ngay từ khi còn nhỏ xíu ở đất Bắc, mỗi lần đói quá, rét
quá, lạnh
quá, đau đớn nhục nhã quá vì bị khinh khi là đứa trẻ mồ côi ăn nhờ ở
đậu
hết ông
chú bà bác lại đến bên nội bên ngoại, và vì đọc Tô Hoài viết về cái
thời ông
lang bạt vào Đàng Trong, thế là bèn mơ tưởng có ngày vô được xứ Nam Kỳ!
*
Nhà văn là một
cái phong vũ biểu của thời
của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ phán như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra
trò,
nhưng lần thứ ba, sắp sửa về, ngửi ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì
không thơm,
thế là bèn đi một cái mail, và được phúc đáp, thời tiết bi giờ không
được đẹp
như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác cái mặt mo về mà khổ cái thân
già, còn
khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ
chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm] bằng gỗ
nhỏ, có
thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng bé còn
thủ
theo, toàn là những kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những kỷ niệm đó, và trên
đường
về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được chúng…
Bà giữ đủ cả, chẳng thiếu một,
nhưng, chị
giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ hơn, cũng những kỷ niệm về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết
Miền
Nam làm cho dịu hết cả đi, và đều như những vết sẹo thân thương của một
miền
đất ở nơi Gấu.
Ui chao, chỉ nội
kể về hai chuyến trở về, cũng đủ vài trăm trang, dư dả một cuốn tiểu
thuyết,
"có đầu, có đuôi", làm mọi người hài lòng, nhất là "Bác
Gái"!
Mais les circonstances m'ont
aidé. Pour
corriger une indifférence naturelle, je fus placé à mi-distance de la
misère et
du soleil. La misère m'empêcha de croire que tout est bien sous le
soleil et
dans l' histoire; le soleil m'apprit que l'histoire n'est pas tout.
Changer la
vie, oui, mais non le monde dont je faisais ma divinité. C'est ainsi,
sans
doute, que j'abordai cette carrière inconfortable où je suis,
m'engageant avec
innocence sur un fil d'équilibre où j'avance péniblement, sans être sûr
d'atteindre le but. Autrement dit, je devins un artiste, s'il est vrai
qu'il
n'est pas d'art sans refus ni sans consentement.
Albert Camus: L’Envers
et l’Endroit. Préface.
Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng
dưng tự nhiên, tôi để
mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin
rằng mọi
chuyện đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và trong lịch sử, mặt trời làm cho
tôi
hiểu rằng lịch sử không phải là tất cả.
Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm
mặt trời!
NKTV
Thân phận
tình yêu hay Nỗi buồn
chiến tranh?
Cả hai
cái tít này là một, nếu
chúng ta đọc Chương 2, cuốn tiểu sử của Solzhenitsyn, của D.M. Thomas,
nhan là Demons, Quỉ. (1)
Chương này ngắn, TV post lại
tại đây, vì, một cách nào đó, nó giải thích cuộc chiến Mít, giải thích
‘Người
Không Mặt’, tức ông bạn Cao Bồi của Gấu!
Thế mới quái!
(1) Với
Solz, đứa trẻ của ‘cuộc
tình trong thời chiến’ đó… the child of that ‘wartime romance’….
Cả hai cái tít, được DM
Thomas gom thành 1.
Salman's children
The
fatwa, the four
marriages, the party image – Salman Rushdie has become known for more
than his
prizewinning novels. But his sons are what matter most, so he has
written a
book for teenagers
He was
the superstar of
postcolonial literature in the 1980s, the beleaguered poster boy for
free
speech in the 1990s, as he scuttled from house to house accompanied by
special
branch officers following the fatwa issued by Ayatollah Khomeini in
response to
his novel, The Satanic Verses. But in the early years of the 21st
century
Salman Rushdie underwent a curious metamorphosis to become a figure of
fun
Note:
Lệnh Xé Xác, 4 hôn
nhân, đại gia - Salman vượt quá hình ảnh nhà văn với những giải thưởng.
Nhưng
mấy đứa con của ông, mới là mối bận tâm lớn nhất của ông, và thế là vào
đầu
thiên niên kỷ, ông hoá thân thành một anh hề, viết truyện nhi đồng.
Nhưng Rushdie đã từng viết
truyện cho nhi đồng.
‘The Wizard of Oz was my very
first literary influence,' writes Salman Rushdie in his account of the
great
MGM children's classic. At the age of ten he had written a story, 'Over
the
Rainbow', about a colorful fantasy world. But for Rushdie The Wizard of Oz is
more than a children's film, and more than a fantasy. It's a story
'whose
driving force is the inadequacy of adults', in which the 'weakness of
grown-ups
forces children to take control of their own destinies'. And Rushdie
rejects
the conventional view that its fantasy of escape from reality ends with
a
comforting return to home, sweet home. On the contrary, it is a film
which
speaks to the exile. The Wizard of
Oz shows that imagination can become
reality, that there is no such place as home, or rather that the only
home is
the one we make for ourselves.
Rushdie's brilliant insights
into a film more often seen than written about are rounded off with a
typicality scintillating new short story, 'At the Auction of the Ruby
Slippers', about the day when Dorothy's red shoes are knocked down for
$15,000
at a sale of MGM props ...
Salman Rushdie's books, from
Midnights Children to The
Satanic Verses, have been read across the world. Two
recent books - Haroun and the Sea
of Stories and a
collection of essays Imaginary Homelands 1981-90 (both published by
Granta) -
have enhanced his reputation as one of our most important contemporary
writers.
*
‘The Wizard of Oz là ảnh
hưởng văn học rất ư đầu đời của tôi’, Salman viết về mảng phim trẻ thơ
của MGM
có phần đóng góp của ông ở trỏng. Khi mới 10 tuổi, ông viết một truyện
ngắn
“Trên Cầu Vồng”, về thế giới kỳ quái sặc sỡ. Nhưng với ông, The Wizard of
Oz thì hơn cả một phim dành cho trẻ con,
hơn cả một câu chuyện kỳ quái. Đó là một câu chuyện mà sức mạnh dẫn dắt
là cái
sự cà chớn, chẳng ra cái chó gì của đám gọi là người lớn, trong đó sự
yếu đuối
của người lớn khiến trẻ con bèn làm “cuộc khởi nghĩa của con nít” [cụm
từ này
Gấu thuổng của nhà phê bình vĩ đại hải ngoại, hay hải ngoại vĩ đại thì
cũng
được, “cuộc khởi nghĩa của đám đông”, trong một bài blog ông ta xoa đầu
độc giả
đa số là đệ tử của ông], giành quyền kiểm soát số mệnh của chúng.
Và ông
vứt thùng rác quan
niệm thông thường, qua đó, sự kỳ quái chạy trốn ra khỏi thực tại của
phim chấm
dứt bằng ngoan ngoãn trở về quê hương, quê hương chùm khế ngọt.
Ngược hẳn lại,
đây là một phim nói về lưu vong. The Wizard of Oz cho thấy tưởng tượng
có thể
trở thành thực tại, và, đếch chỗ nào như là nhà, hay đúng hơn, nhà là
cái nơi
mà chúng ta làm ra cho chính chúng ta.
NKTV
Ghi chú
trong ngày
5.10.2010
Thân phận
tình yêu hay Nỗi buồn
chiến tranh?
Cả hai
cái tít này là một, nếu
chúng ta đọc Chương 2, cuốn tiểu sử của Solzhenitsyn, của D.M. Thomas,
nhan là Demons, Quỉ. (1)
Chương này ngắn, TV post lại
tại đây, vì, một cách nào đó, nó giải thích cuộc chiến Mít, giải thích
‘Người
Không Mặt’, tức ông bạn Cao Bồi của Gấu!
Thế mới quái!
(1) Với
Solz, đứa trẻ của ‘cuộc tình trong thời chiến’ đó…, the child of that
‘wartime
romance’….
Cả hai cái tít, được DM Thomas gom thành 1, một thời để yêu và cũng là
một thời để chết.
GNV ‘bảnh’ hơn, thêm: Một thời để yêu, để hát, và để chết.
Nhờ đọc Chương 2, áp dụng một cách khủng, và khùng, vào xứ
Mít, Gấu ngộ
ra cái gọi là vương đạo, tức chân lý 'nước Mít là 1', và cái gọi là bá
đạo,
'nhưng cái đầu của nó phải là Hà Lội', minh họa thêm, bằng 1 câu đề từ
của... Quỉ:
Độc
tài nghĩa là - hãy học 1 lần cho tất cả - quyền lực vô hạn
dựa trên
sức mạnh, chứ không luật pháp. V.I. Lenin
*
Trong Chiều Chiều, Tô Hoài đã gay gắt
riêng với Hiếu Chân Nguyễn
Hoạt, vì là, hay dù là, chỗ cố tri trước 1945 (tr.20). Phải chăng vì
Hiếu Chân
tránh gặp lại Tô Hoài sau 1975, vì chút hào khí tuyệt vọng của con
người chiến
bại, hay tự cho là như thế.
DT
Gấu tui, sau 1975, may mắn, và
cũng hẩm hiu làm sao, chẳng hề gặp
một ông nhà văn cách mạng nào, thứ tiền chiến như Nguyễn Tuân, lại càng
không.
Nhà văn NMG, đã tả cái
tâm trạng hàng thần lơ láo của trí thức Miền Nam
trước VC,
giống như đám quan lại thời Tây Sơn trước Mãn Thanh. Ông rất thú vị khi
nhìn ra
sự giống nhau giữa hai thời kỳ.
Theo tôi, ông hơi bị tẩu hỏa nhập ma khi so sánh hai giai đoạn lịch sử,
hai
hoàn cảnh, thái độ khác nhau của hai tầng lớp sĩ phu.
Thứ nhất, chẳng hề có cảnh hàng thần lơ láo, của đám sĩ phu thứ thiệt
của Miền Nam.
Chắc chắn như vậy.
Bởi vì đám đó còn đang chuẩn bị khăn gói quả mướp lên đường đi học tập
cải tạo
mười ngày.
Tuy nhiên, trong cái sự
so sánh đó, Mãn Thanh như VC Miền Bắc, có vẻ như bạn ta muốn
'nói lén', cuộc chiến giải phóng kia chỉ là ăn cướp Miền Nam?
Đám hàng thần lơ láo, mà NMG nói tới, [trong có cả NMG, như HHT viết],
sự thực, chỉ là một dúm mấy anh
chị trí
thức, nhà văn, đứng bên lề của lịch sử, của cuộc chiến.
Và mấy bà nhà văn.
Hoặc đám ngu đần, cũng bầy đặt đi trình diện, với hy vọng, được nhà
nước mới
xác nhận, và sau đó có thể còn được thu dụng.
Gấu nhớ là, danh sách 12 nhà
văn phản động đồi truỵ, ra lò liền sau đó, gồm cả
đám Sáng Tạo, thêm vài mống, trong đó có Gấu, đứng hàng thứ bẩy. Nhưng
đám VC
tiếp quản Bưu Điện đâu có biết thằng thợ NQT còn là thằng sa đích văn
nghệ NQT!
Ngay cả việc Gấu làm thêm cho
UPI, VC cũng không biết, chỉ đến mãi sau này, khi
Gấu nhận được hồ sơ ODP qua Sở Ngoại Vụ, VC bèn đến tận nhà, để hỏi,
mấy cái
máy của UPI, mày chôm bán rồi hả?
Gấu bèn trả lời, là, ba cái máy của UPI để lại, họ giao cho người đại
diện của
họ, là Trần Đại Minh. Anh đại diện cho hãng, bán lại cho VC hết rồi,
sau đó đi
Mẽo, làm bồi tiếp cho UPI.
Cũng lâu rồi, Gấu thấy bài của anh trên báo Hương
Văn, bèn liên lạc. Anh mừng lắm. Nhất là, mừng cho Gấu.
Câu nói của nhà thơ TTT khi
nhìn đám VC vô Sài Gòn, cho thấy, ông hiểu rất rõ,
ông sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội viết.
Lịch sử đã quyết định chuyện đó giùm cho ông.
Mấy anh VC thực tình không hề bắt buộc mấy ông nhà văn miền nam phải đi
trình
diện. Họ có ra thông báo, nhưng, nếu một ông nhà văn nào không đi trình
diện,
thì cũng không bị ghép vào tội trốn trình diện học tập cải tạo như là
mấy ông
nhà binh có nợ máu với nhân dân!
Sau này, Gấu có được gặp một nhà văn Miền Nam, được hân hạnh tham dự
những
buổi học tập cải tạo văn nghệ Ngụy. Ông ta kể, lần đó, đang học tập,
mấy nhà
văn cách mạng miệt vườn Miền Nam đang say sưa khoác lác, bỗng có tin,
Nguyễn
Tuân sẽ tới ban huấn dụ.
Ối giời ơi là giời, ông ta nói, khi NT xuất hiện, tất cả im phăng phắc,
chỉ còn
nghe tiếng ba toong của nhà văn vĩ đại gõ cộp cộp trên nền nhà. Ông giơ
tay
khoác khoác, ra ý, cứ tự nhiên học tập tốt, đừng chú ý đến ông, và ông
từ từ đi
ra ngoài vườn, trong khi mấy anh miệt vườn và cả đám Nguỵ bị tiếng ba
toong hớp
hồn, ngồi như ngây như dại!
Gấu nghe kể, và bỗng ngộ ra một điều là, đám nhà văn VC sợ Nguyễn Tuân
đến như
thế, ấy là vì, nhờ ông ta, họ cũng được coi là nhà văn!
Mà một khi còn nhà văn, là chế độ vẫn còn!
Sự hiện diện của một Nguyễn Tuân như thế đó, là một của báu của chế độ!
Tụi mi bảo chế độ của chúng ông khốn kiếp hả, nếu khốn kiếp, tại sao
có... Nguyễn
Tuân?
Sự cứu rỗi cuối cùng
Truongthaidu
20:56 08-10-2010 .
Đặt câu hỏi nếu LHB không
phải là người TQ thì ông ta có được trao giải Nobel ko? Cho nên giải
Nobel là
của người Nauy, dùng để phục vụ người Nauy mà thôi. Lê Đức Thọ cũng đã
từ chối
giải Nobel. Đông là Đông mà Tây là Tây.
Nguồn
Khủng thật.
Giả như Thích Quảng Độ mà được, thì chắc anh Thái Dúi này tức nổ ruột
mà chết!
Tay Thái Dúi này bị ám ảnh, như cả nước VC bị ám ảnh, bởi cái gọi 'hội
chứng
Nobel', đúng như tinh thần bài viết
của 1 tác giả trên The New Yorker.
Khi NBC được Nobel Toán, hắn
cũng tức điên lên, vì NBC vội vàng đăng ký xin cái
quốc tịch Tây Mũi Lõ, ngay khi ngửi khói Nobel!
*
October
8, 2010
What Do Chinese Leaders
Really
Think About the Nobel Prize?
Liu Xiaobo Wins the Nobel
Peace
Prize
Posted by Evan Osnos
The
Nobel Prize is an object
of obsession in China,
and a consistently maddening one. “How far are we from a Nobel Prize?”
was the
title of a science program on Chinese state television some years ago,
and
similar discussions pop up in the paper all the time. Driven by both
insecurity
and pride, the government and academia have pursued Nobel prizes for
scientists
and writers with such intensity that all the analysis and
prognostication begin
to look like elements of a state campaign—which, in fact, they are.
“The task
of securing a Nobel Literature Prize—viewed as a passport to world
recognition
as a modern civilization—generated conferences, a national literature
prize,
delegations to Sweden and countless articles,” Julia Lovell, the
British
sinologist, writes in “The Politics of Cultural Capital,” her 2006 book
dissecting China’s quest for the Nobel Prize in Literature.
During the nineteen-eighties,
Nobel prizes of any kind were elevated in the Chinese official mindset
into
emblems of prestige akin to hosting the Olympic Games, or qualifying
for the
World Cup, or getting into the World Trade Organization. The quest for
prizes
was so intense that Chinese commentators began to talk about the
country’s
“Nobel complex,” framing the hunt for prizes as a matter of national
emotional
health. “The Nobel Literature Prize had become a cause of a
psychological
disorder, a token whose value and authority as imagined in China
was
inflated out of all proportions to its real importance or exchange
value in
international letters,” Lovell writes.
But when China
actually won the prize for literature, it
was not at all what it had hoped: the prize went to Gao Xingjian, a
Chinese-born exile writer, who was living in France.
His writings were sharply
critical of China,
and the
government in Beijing
responded by denouncing the “political purposes” of the Nobel Prize and
declaring that the prize had lost its legitimacy. (Gao was eventually
listed as
a “French” writer.)
The Chinese government faced
a similar problem when the Dalai Lama won the Nobel Peace Prize, in
1989.
Though the government classified him as a citizen, he had been living
in exile
since 1959, much that time in explicit opposition to the Beijing regime.
When the Tibetan leader won
the prize, China’s
officialdom needed to explain to itself how this happened. A
fascinating
internal report from that period, produced by a state-backed research
group,
discounts the significance of the prize (after China
had spent years trying to win
it). The report, published in “Internal Analysis,” a publication of the
Tibet
Autonomous Region Academy of Social Sciences, helps us imagine the kind
of
internal conversations that are going in the halls of power after the
imprisoned writer Liu Xiaobo won the Peace Prize today:
The Peace Prize has always
been very controversial and has always been an instrument of political
struggle
and has very often been an object of severe criticism and rebuke. For
example,
in 1938 Neville Chamberlain received it *… The award has included people like
Havel, Sakharov and Lech Walesa. So, very often this prestigious prize
has gone
to terrorists or politicians who serve the interests of capital. It’s
like a
prostitute claiming to be a virgin.
Knowing how much China
cares about the prize adds another
dimension of pique to its public response: a few hours after the Nobel
Peace
Prize went to Liu Xiaobo,
China’s
Foreign Minister responded,
as expected: “Liu Xiaobo is a criminal who has been sentenced by
Chinese
judicial departments for violating Chinese law.” Giving him the prize
“runs
completely counter to the principle of the prize and is also a
blasphemy to the
peace prize,” according to a statement. CNN was blacked out when it
tried to
report Liu’s win. Some Chinese users on Twitter flooded the Web with
congratulations, though Twitter is banned in China,
so the messages were out of
sight to most Chinese readers. For days, the Chinese Web site Sina had
been
running a special page dedicated to chronicling the news of the 2010
Nobel
prizes. On Friday afternoon, after Liu received the Peace Prize, the
Sina page
was nowhere to be found.
* False comfort, I’m afraid. It
was Neville’s half-brother,
Austen, who won it for statesmanship. Thanks to the reader who noticed.
It’s
like a prostitute
claiming to be a virgin: Như điếm, khăng khăng phán, em còn trinh!
Đểu thật!
Có thể, đó là lý do Lê Đức
Thọ chê, chăng?
Nhận, hoá ra là điếm của tư bản,
ư?
Cần
phải thú thật một điều:
tôi không quan tâm mấy đến các giải thưởng văn học, ngay cả giải Nobel.
Bởi
vậy, mấy tuần vừa rồi, mặc dù biết giải thưởng sắp được công bố, tôi
cũng không
có chút tò mò hay nôn nao nào cả. Cũng không có ý định viết. Nhưng sáng
nay,
vào mạng, đọc báo nào cũng nhắc đến Mario Vargas Llosa và cái giải
thưởng Nobel
văn chương mà ông vừa nhận được, tự nhiên thấy ngứa ngáy.
Thôi thì viết.
NHQ
Tôi dừng lại hơi
lâu ở trường hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất,
nhưng có
nguy cơ bị khuếch đại và xuyên tạc.
DT
Note: Mỗi ông hách
một kiểu! NQT
*
Giải Nobel quả là một ám ảnh
nhức nhối đối
với TQ. Và nó làm họ khùng. "Chúng ta còn bao xa so với nó? Liệu chỉ
‘xém 1 tí’,
là tới, chăng?" (1) Đó là cái tít của 1 chương trình khoa học TQ, trên
màn
ảnh TV nhà nước mấy
năm trước đây, và những thảo luận, chát chiếc thì nở rộ trong phạm vi
cả nước. Bị
thúc đẩy bởi cả hai, sự bất an và lòng kiêu ngạo, chính quyền và giới
khoa bảng
theo đuổi Nobel trong cả hai giới khoa học và nhà văn, căng đến nỗi
chẳng khác
chi một chiến dịch, và quả đúng như vậy!
“Nhiệm vụ cuỗm cho được 1 cái
Nobel - được
coi như là cái hộ chiếu để được sự nhìn nhận của thế giới đã làm nở rộ
những cuộc
diễn thuyết, tạo ra những giải thưởng văn chương nhà nước, những phái
đoàn tới
Thụy Điển, và hằng hà những bài viết”, Julia Lowell, một chuyên gia TQ
người
Anh viết, trong “The Politics of Cultural Capital”, cuốn sách của bà xb
năm 2006, đã chỉ ra cho thấy cuộc truy tìm Nobel Văn
Chương của TQ.
Vào thập niên
1980, TQ coi những cú như được hân hạnh tổ chức Olympic Games, World
Cup, được
vô Tổ Chức Thương Mại Quốc tế… là đưa thế giá TQ lên tới 9 tầng mây. Ám
ảnh “Làm
thế nào vớ cho được Nobel” biến thành‘mặc cảm Nobel’, một vấn nạn liên
quan tới sức khoẻ tâm thần của cả nước.”Giải Nobel văn chương trở thành
một nguyên
nhân đưa đến ‘trục trặc tâm lý’, một bằng chứng, mà giá trị và quyền
năng, như TQ
tưởng tượng, thì vượt ra khỏi sự quan trọng đích thực của nó, hay giá
trị trao đổi
trong văn chương thế giới”, Lowell viết.
Nhưng, hỡi ơi,
khi TQ, sau cùng, thực sự vớ được giải Nobel văn chương, thì nó lại
chẳng giống
như tất cả mọi người chờ đợi, ao ước, và hy vọng: giải thưởng về tay
một nhà văn
lưu vong gốc TQ, sống ở Pháp, là Cao Hành Kiện. Tác phẩm của ông, phạng
nhà nước
TQ ra trò, thế là nhà nước TQ bèn đi một đường tẩy chay, tố cáo mấy ông
Nobel có
hậu ý đen tối về chính trị, khi trao cho thằng cha chết tiệt đó, và
giải thưởng
thì mất mẹ nó mất tính hợp pháp rồi! (CHK sau được ghi là nhà văn
“Tây”. Cũng
giống ‘ca’ NBC, được ghi là nhà toán "Tây", đối với xứ Mít).
TQ đã từng gặp tình
trạng tương tự, khi Đức Dalai Lama được Nobel Hòa Bình vào năm 1989.
Mặc dù họ
vẫn coi Ngài là một công dân, Đức Dalai Lama sống lưu vong từ năm 1959,
trong tình
trạng chống đối nhà nước TQ. Và khi nhà lãnh đạo Tây Tạng được Nobel
Hòa Bình
thì giới chức TQ thấy cần phải giải thích cho chính nó, tại làm sao
chuyện này lại
xẩy ra! Một báo cáo nội, thật lạ lùng thú vị, vào thời kỳ này, do tổ
chức nghiên
cứu được nhà nước bảo trợ thực hiện, cho thấy nhà nước TQ làm ra vẻ
đếch cần, và
rẻ rúng giải thưởng, [mặc dù TQ đã trải qua nhiều năm cố gắng làm sao
giành cho
được]. Báo cáo được in trong “Internal Analysis”, thuộc ‘the Tibet
Autonomous
Region Academy of Social Sciences’, giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc
nói
chuyện giữa đám chóp bu nhà nước, sau khi nhà văn hiện đang ngồi tù
được Nobel
Hòa Bình:
“Giải thưởng
Nobel Hòa Bình luôn luôn gây tranh cãi, luôn luôn là một thứ khí cụ
dùng vào việc
đấu tranh chính trị, rất thường xuyên bị chỉ trích, và chê trách. Lê
Đức Thọ chẳng
đã từng ném nó vô sọt rác! Những người được nó thì như Havel,
Sakharov, Lech Walesa. Thành thử, thường xuyên giải thưởng cao quí
này về
tay những kẻ khủng bố, hay những chính trị gia phục vụ quyền lợi của tư
bản…. Giống như bướm mà lại cứ la làng, em còn trinh.”
[Ui chao, báo cáo
nhà nước mà tới cỡ này, thì trách gì Thái Dúi và cái còm của hắn ta!]
Biết
được cái sự khát khao giải thưởng của nhà nước TQ chúng ta mới thực sự
hiểu
được phản
ứng của họ, khi, lần này, người tù đang ở tù được giải thưởng. Chỉ vài
giờ sau
khi Nobel Hòa Bình được trao cho Lưu Hiển Ba, Bộ Trưởng Ngoại Giao TQ
ra đòn:
“LHB
là một tên tội phạm, đã bị bỏ tù vì vi phạm luật pháp TQ”. “Cho hắn ta
giải thưởng
là hoàn toàn đi ngược lại nguyên lý của giải thưởng và còn là phỉ báng
giải thưởng
hòa bình”
(1)
Lại nói chuyện "xém một tí".
Câu chuyện tiếu lâm này, Gấu nghe hồi ở tù VC.
Một anh Liên Xô nói phét, nước tớ
sáng chế hỏa tiễn bắn
tới Mặt Trăng. Mấy đàn em Đông Âu thấy đàn anh nổ quá, lắc đầu; đàn anh
sửa
sai, chưa tới, nhưng xém một
tí, thì tới.
Cứ đà đó, thi nhau nổ. Tới đàn em Việt Nam, nhỏ nhẻ thưa mấy anh, ở
nước
"chúng em", "gái" bi giờ (2), nhờ ơn Đảng, đẻ bằng lỗ đít!
Mấy anh kia trợn mắt, trợn mũi, anh VC nhẹ nhàng buông câu, thì cũng xém một tí
!
(2) Thay vì nói, người đẹp, mấy anh này nói, gái đẹp.
NKTV
Lê Thị Thấm Vân – Giải phóng
Note:
Theo GNV, cái tay nào ‘còm’,
hiểu sai đoạn văn của Thấm Vân, do cái từ giải phóng mà ra.
Đây là
‘ban phát’, không phải
‘giải phóng’!
Ông bạn văn của GNV, Vũ Huy
Quang, nổi danh 1 thời với truyện ngắn Cháo Rắn, thuật y chang đoạn văn
ngắn của
bà Thấm Vân, trên, nhưng tuyệt hơn nhiều.
Post lại ở đây, để ‘minh oan’ cho một
trường hợp ‘nạn nhân’!
*
Như tôi còn
nhớ được về nó, Cháo Rắn là câu
chuyện một anh sĩ quan trẻ độc thân, chưa từng nghĩ đến chuyện lấy vợ.
Anh quen
một cặp vợ chồng lớn tuổi hơn, và trở thành một đứa em kết nghĩa của họ.
Bà vợ thạo đời, thạo chuyện giao thiệp bên ngoài xã hội. Đúng một thứ
mệnh phụ
phu nhân. Ông chồng thuộc loại thật thà chất phác.
Bà chị ông em đi ra ngoài ăn vụng. Lần đầu tiên. Anh chàng thanh niên
mới lớn
này, chắc chắn đã từng đánh dư trăm trận, từng trải như thế, nhưng đâu
biết chỗ
nào khác, và đâu có chỗ nào khác, thế là bèn dẫn bà chị tới khách sạn,
nơi mà
anh vẫn thường quần thảo với.... bướm.
HL thật khó,
và biết rằng, chẳng
thể nào
có tài, tả ra được cái cảnh ông em đưa bà chị vào khách sạn, xấu hổ
giùm, và
còn lo ngay ngáy, lỡ bà chị tát cho một cái, tại sao những chỗ dơ dáy
như thế
này em lại đưa chị tới?
Bà thản nhiên
đi vô, như đã từng tới đó nhiều lần!
VHQ &
Hai Lúa & Hồ Thành Đức
@
NMG's [Tiểu Sài Gòn 1998]
Ở đây, không
có chuyện nói xấu các bà các cô. Không có
tí lên giọng đạo đức, trong cách kể của VHQ. Cụm từ "như đã từng tới
đây
nhiều lần" của Hai Lúa, tả không đúng tâm trạng của người đàn bà. Có
thể,
bà chưa từng tới một chỗ như thế. Nhưng rõ ràng là, bà ứng phó rất
nhanh, nhập
vai rất nhanh. Tôi nói bà thạo đời, thạo giao thiệp, là còn theo nghĩa
này. Bà
biết, ông em đang tìm chỗ để "trải đệm", đánh lớn, theo thuật ngữ của
Tú Lé, tức Ngọc Thứ Lang, người dịch Bố Già, và bà ngầm đồng ý, chỗ nào
cũng
được em ạ, chị chỉ cần có... em!
Liệu đó
là tâm
trạng của bà? Hai Lúa chịu thua, chỉ đoán mò!
Cho Hai Lúa tôi bỏ qua đoạn
này, và nhảy
qua một trường hợp khác, khác hẳn trường hợp trên.
Một lần, Hai Lúa đọc, về nhà
văn nữ hàng
đầu trên thế giới, Virgina Woolf, hình như là một cuốn có tính tiểu sử,
hay là
tự thuật, kể lại, hồi còn nhỏ xíu, bà bị mấy thằng anh em bà con mò
mẫm. Bà
viết, tuy còn nhỏ xíu, nhưng tôi cảm thấy rõ ràng là tôi đang bị làm
nhục, rằng
cái việc làm đó của giống khác phái kia, là không thể chấp nhận được.
Trong
tôi, là tất cả những người đàn bà cùng lên tiếng, vì bị làm nhục. Tất
cả đàn
bà, từ cái ngày có bà Eva cho tới mãi mãi sau này, khi còn có người đàn
bà, tất
cả họ, ở trong tôi, cùng lên tiếng, nói, không được!
Cảnh trên đây, trong Cháo Rắn,
là một khiá
cạnh, khác, một tâm lý, khác, của cùng một người đàn bà.
Bạn nào đã từng
'đưa em vào
hạ',
ở những phòng ngủ khách sạn, thí dụ như ở Chợ Lớn, thì hẳn biết, mỗi
bức tường
phòng ngủ, là 1 ‘trận địa những lỗ châu mai’, thời gian đó làm gì có
video tia
hồng ngoại, và một khi bạn hành sự, là ở mỗi lỗ châu mai như thế, là
một
cặp mắt,
hăm hở cùng đụng trận, cùng tham gia trải đệm với bạn.
Ông
em vừa mới cởi được cái
áo của bà chị ra, là đã thấy nóng hôi hổi, đến cháy da, ánh lửa hăm hở
của những
cặp mắt từ những lỗ châu mai phóng ra. Thế là đành ngưng trải đệm,
ngưng làm thịt bà chị, chạy
vội ra ngoài, thì tất cả lại trống trơn, mặt trận Miền Tây vẫn yên
tĩnh!
Vô, lại tiếp tục.
Ông em bực quá, tính lại ngưng
cởi, chạy ra, thì bà chị ngăn lại, mắt long lanh sáng rực, thôi mà, kệ
họ, em,
cho họ cùng
hưởng với!
Chị đâu có hẹp bụng gì!
Chị cân tất!
Cứ như
thể, bà chị muốn ban
phát hạnh phúc cho toàn thể 'một nửa' nhân loại!
Đáp
lời VHQ
Cái màn
hậu chiến,
hậu trải đệm, cũng xẩy ra Chợ Lớn, nhất là ở khu Ngã Sáu Nguyễn Tri
Phương, cũng
rất ư thú vị.
Người đời thường lầm, và gọi là thú ăn đêm.
Thường
thì sau cái
màn trải đệm, đánh lớn, nghĩa là, khi đã no nê chỗ này, thì chỗ khác ở
trên cơ thể,
lại đói,
và chỗ khác ở đây, là cái bụng.
Và cái hình ảnh, một người phụ nữ, sau khi ban phát
hạnh phúc đến mệt nhoài, và đói bụng, nó mới đẹp làm sao.
HHT gọi yêu mệt, là
vậy!
Yêu Mệt tên truyện của Hoàng
Hải Thuỷ, phóng tác Le Repos du guerrier, của Christian
Rochefort
Đại lễ
Thăng Long Ngàn Năm có
màn ‘tắm tiên’, ngay tại hồ Hoàn Kiếm, và, hình ảnh những trận ‘trải
đệm’ được đưa
lên Youtube, của ‘gái’ Mít, đại trà, như hiện nay, theo GNV, là cũng
nằm trong
tâm lý ‘ban phát’, không phải ‘giải phóng’!
Ghi chú
trong ngày
14.10.2010
Điểm
qua mấy số báo mới xb
Trên tờ
TLS, Oct 8. có hai bài OK, một, điểm cuốn của Naipaul viết về chuyến đi
thực tế Phi Châu của ông, một, điểm
cuốn viết về Kapuscinski. Người điểm sách,
lần này khen non-ficton của Kap, trong khi trên TV, lâu rồi, giới
thiệu, cũng 1
bài trên TLS, chê nhà sử học, vì cái tính fiction của những gì ông viết
về
lịch sử.
Bài viết có nhắc tới cái vụ ông làm cớm của VC Ba Lan, nhưng cho biết,
ông chẳng chuyển cho Mật Vụ tài liệu gì quan trọng, có thế gây hại cho
bất cứ một
ai. Tuy nhiên... nói cho cùng, after all, Ba Lan CS đã là,
was, Ba Lan của Kap!
Dù có bị buộc tội cỡ nào, thì ở Ba
Lan, Kap vẫn là 1 tài sản quốc gia!
Người bực nhất về cuốn tiểu sử
của Kap [Artur Domoslawski: Kapuscinski
non-fiction], là bà vợ, vì
những
chi tiết dính đến đời tư: ông lấy vợ khi còn trẻ, ở với nhau
tới
già, nhưng ông chồng đi ăn phở búa xua.
Bà vợ phán: một nhà viết tiểu
sử, theo tôi, phải có cái lịch sự, sự khả ái, là, đợi cho bà vợ và mớ
con gái
chết đi rồi, thì hãy khui ra những chuyện mèo mỡ đó.
Trên tờ
NYRB, 14.10.2010, có bài A Hero of the
China Underground, điểm
cuốn "Xác chết biết đi, những câu chuyện về đời thực, TQ từ đáy lật
lên" của Liao Yiwu, một nhà văn TQ.
Đúng dịp giới thiệu, nhân Nobel Hòa bình về tay LHB
Trên
The Paris Review có bài
của Liao Yiwu: Nineteen Days
Ghi chú
trong ngày
Khi Milosz coi sự từ bỏ của
ông, cái lô
gíc toàn trị - một lô gíc có vẻ nuốt sạch mọi hoàn cảnh trí thức ngang
ngược,
khó bảo, trái nghịch… vào chính nó – như là “một cuộc nổi loạn của cái
bao tử”,
thì đây không giản dị là một chuyển động tiêu cực, nhưng là một cách
gìn giữ niềm
tin với những trực giác về điều tốt và giá trị thực.
Cố gắng giải thích, trong Cầm Tưởng, 1953, hoàn cảnh của mình,
ông miêu
tả một khoảnh khắc trong thời kỳ Đệ Nhị Chiến, khi, trong một đám đông
dầy đặc
luần quần tại một nhà ga xe lửa tại Ukriane, giữa những đinh tai nhức
óc của
những khẩu hiệu phát ra từ những chiếc loa phát thanh, ông nhìn thấy
một ông
chồng, bà vợ và hai đứa con thầm thì với nhau.
“Đó là một nhóm người, như hòn đảo nhỏ trong một đám đông, và đám đông
này
thiếu một điều chi rất ư riêng biệt để cho nó trở thành một cuộc sống
của con
người khiêm tốn, và bình dị."
Ui chao, đây đúng là ý nghĩ của
Gấu, khi
đang ăn hỏa tiễn của VC, co rúm người lại, vậy mà vưỡn không quên nhớ
đến… cô
bạn:
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi
nhớ bám
riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng
cơn hấp
hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những
giờ phút
lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung
quanh
thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu
thương
cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị
như thế
nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
NKTV
Mộ Gió
Truyện
ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Hồi ấy chị lên mười ba, em
nhỏ hơn
hai tuổi.
Mười bảy tháng Mười năm đó, ba má đi
đám giỗ, để hai chị em lại nhà. Lúc xách cặp chèo ra cửa má ngoái lại
dặn chị :
- Ở nhà coi chừng em...
Chị dạ. Má rải lời dặn dò nằm lển nghển khắp nơi. Chị
ngó ngoài sân thấy “Coi chừng ông trời chuyển mưa thì đem củi vô nhà“
và ”Đóng
cái cổng rào lại” đứng dựa hàng bông lồng đèn kêu cọt kẹt, bước vô nhà
vấp “Lấy
chổi rơm quét mạng nhện trên bàn thờ” và “Nhà hết gạo rồi, con lội bộ
lại đằng
tiệm mua nấu đỡ” thì nằm nép trong góc bếp. Ở sàn lãn gió thổi xập xòe
làm “Còn
mấy con cá rô đem kho tiêu” đập đuôi xao xác vách thùng.
Một mình chị làm bao nhiêu chuyện đó cũng xong, nhưng
em cứ cà nhổng chạy chơi với chuồn chuồn thì ức. Ba hay nói phải chia
việc mà
làm, “mỗi người có một bổn phận...”. Con trai kiếm cá con gái hái rau,
con trai
ra ruộng rẫy con gái vùi đầu trong xó bếp. Bao giờ con trai trở thành
đàn ông
nó có bổn phận đưa tay đánh, còn con gái (giờ đã là đàn bà) thì giơ
thân ra chịu
đòn. Vụ đó ba không dạy, hai chị em tự biết thôi.
Những bài học về bổn phận chị thuộc nằm lòng, nên khi
em đòi đi tiệm mua gạo thay vì bắc ghế quét mạng nhện bàn thờ, chị buộc
lòng gật
đầu. Làm chị phải nhường em.
Chị thích được đi tiệm để săm soi mấy cây kẹp tóc thèm
chơi. Nhưng tiệm cũng là thiên đường của em, với những cục kẹo sặc sỡ
như những
cái bong bóng sặc sỡ. Dù mỗi lần em đi tiệm dường như răng lại mòn hơn,
dù em
hay chểnh mảng kiểu như mua đường cát về tới nhà thấy cát nhiều hơn
đường, còn
lẫn lộn thêm mấy con cuốn chiếu. Bữa trước đi mua đậu trắng em về với
cái túi
không, đậu chảy theo cái lỗ thủng rải dọc đường như cô công chúa Mỵ
Châu để lại
dấu vết cho chồng. Bữa trước nữa em lội sông mang gạo về, má phải đem
mớ gạo ướt
mèm xay bột.
Sẽ xảy ra vài kịch tính ở quãng đường giữa nhà và tiệm
tạp hóa bà Tư Mốt: một nhánh cây gãy lộ ra ổ ong mật, một con diều của
ai đó
mắc kẹt trên đọt so đũa, một tiếng chim hót nghe gần... cũng làm chân
em chậm lại
mươi phút hay vài giờ hay hết phim, nếu nhà bà Tư Mốt đang mở một cái
phim võ
thuật kiểu như Ngôi chùa Thiếu Lâm tự.
Nên trưa ấy quá bữa rồi mà gạo chưa về tới nhà, chị tưởng
em còn hóng hớt đâu đó. Cái mẻ kho nằm nguội ngắt chờ cơm.
Nhiều ngày sau đó, khi xóm nhỏ nháo nhác vì một cư dân
mười một tuổi đã biến mất, chị vẫn nghĩ em đang chơi đâu đó. Chị giận
sôi những
người đã tỏ ra thất vọng khi không tìm thấy thi thể em, ở ngoài đồng
hay dưới
đáy sông. Một câu đố không tìm ra câu trả lời, ông trời cà chớn quá.
Nhiều tháng sau đó, khi ba má vẫn vật vã rã rượi, chị
vẫn nghĩ em đi chơi đâu đó sẽ về. Cho tới khi má rọi cái ảnh em hồi
mười tuổi
đặt lên bàn thờ, đứng chung với mấy ông bà già u mặc. Trong ảnh, em mặc
áo thun
vàng đồng phục của đội bóng nhi đồng trường lúc đang nhận giải ba cấp
huyện,
mặt em nghiêng về trái khoe mụt ruồi lớn như con ve chó, giống như hình
ảnh
cuối cùng của buổi sáng ấy chị ngó thấy em chạy vù đi.
Cái ảnh là kết cuộc cho những chờ đợi nhưng hi vọng đã
bay hơi theo ánh mặt trời. Má sực nhớ biết đâu thi thể thằng nhỏ trôi
ra biển hay
bị kẹt dưới chân cầu nào, rồi âm thầm tan rã. Biết đâu giờ hồn nó vất
vơ vất vưởng
đói ăn. Ba má bắt đầu kêu em về trong những bữa cơm. Có lần chị quên
không dọn
dư ra một cái chén, ba bợp tai chị cắm đầu, nói “đã kêu mày coi chừng
em rồi
mà...”.
Coi như chị đã được định tội xong, và định sẵn cho mọi
lỗi lầm dù chẳng mấy liên quan như chuột cắn ổ gà, dông làm ngã cây đu
đủ... Nếu
mỗi lần đau trên người chị mọc sợi lông, thì những lần má ngồi khóc bên
sông,
những lần ba buông đũa giữa bữa cơm bởi tiếng bầy trẻ trai đi bắn chim
ngang
nhà, những cái tết lặng lờ qua, những khói nhang tối tối, những lần giở
quần áo
em ra giũ bụi... đã biến chị thành con khỉ.
Và nếu mỗi lần đau là một giọt nước, một hạt cát thì chị
thành sông, thành đồi cát năm ba mươi tuổi.
Chị sống một mình. Mỗi khi định cười giòn thì chợt nhớ
mình đã để mất đứa em. Mỗi khi định lấy ai đó làm chồng thì nhớ trong
cơn mê sảng
má thảng thốt kêu Võ, Võ ơi. Mỗi khi định sống cho ra con người thì nhớ
ba lúc
lâm chung vuốt mãi mắt mới chịu nhắm.
Chị vẫn tin em đi chơi đâu đó. Nhà vẫn cặm trên nền cũ,
vườn cũ, kiểu cũ. Cây nào chết thì trồng lại y giống cây đó. Đoạn rào
nào gãy
thì được thay giống hệt. Chị chôn chị chỗ buổi sáng em guộn mấy tờ giấy
bạc mua
gạo vô dây lưng quần cộc xanh dương, áo màu xám tro lấm lem mủ chuối
vẫy tay rẽ
trái chạy vù về phía tiệm tạp hóa bà Tư Mốt. Lúc đi em không đóng cửa
rào làm mấy
con gà đi qua nhà hàng xóm bươi tơi bời giồng cải họ mới gieo.
Một bữa chị qua hàng xóm mượn trẻ con nhổ tóc ngứa, đang
ngủ gà gật, đang lúc hờn hờn cái thân mình chẳng có đứa nhỏ để sai vặt,
chợt
nghe bên nhà chó sủa. Chị hỏi vóng qua hào ranh. Người đó ngập ngừng:
- Cho tôi hỏi nhà chú Mười Hưng.
- Phải rồi, nhà ba tui đó, cậu kiếm ai?
- Em Võ nè, chị Hai...
Người đó nói vậy. Chị không biết cách nào mình đã về đến
nhà, bay, hay bò lết, hay nhảy ào xuống hào càn qua những dây rau
muống. Chỉ biết
chị phải về sụp xuống trước bàn thờ, để thưa:
- Đó, ba má thấy chưa, con đã nói là thằng Võ đi chơi mà...
Chị quỵ ở đó rất lâu, tóc xấp xải trải xòe ra đất, lưng
khum khum như một ngôi mộ. Chị không hỏi em đã đi đâu, chẳng ích gì...
Đàn ông
rong ruổi đường xa, đàn bà vạ vật ngồi canh cửa, đời phân công vậy mà...
Nguồn
Note:
Truyện này hao hao
chuyện đời GNV!
Thằng em bỏ đi xa, vô nước Nam Kỳ, hơn nửa thế kỷ sau, về, chị vuỡn
còn, Đất Bắc vẫn
còn, chỉ không còn đứa em!
Nó không làm sao nhận ra quê cũ, chị cũ!
Cũng
hao hao chuyện Lưu Nguyễn
lạc Địa Ngục.
Về.
Quê hương biến thành Thiên Thai!
Còn gọi là Thiên Đàng Xạo Hết Chỗ Nói!
Cái
đoạn Tô Hoài viết về Nguyễn
Hoạt, ngay nơi Chương I, Chiều Chiều, bạn đọc TV có
thể coi tại VN thư quán.
V/v
Nguyễn Hoạt gửi thư cho 1 người bạn còn ở lại Miền Bắc, thời gian trước
1975,
chúng ta đành tin theo Tô Hoài, nhưng những gì mà TH viết về Hiếu Chân,
thì
sai, thí dụ, HC có xe hơi, có vệ sĩ, hay làm thượng nghị sĩ, và chi
tiết về cái
chết của HC cũng sai.
TH
chẳng biết gì về cái chuyện Mẽo di tản nhân viên của họ
trước ngày 30 Tháng Tư 1975, nên viết 'gay gắt',“Mẽo đưa ba thứ
rẻ rách
như HC đi Mẽo làm gì”, là 'khen' HC!
Giọng điệu TH viết về HC thì
cũng giống như ông viết về nhiều người như về DQS, về VP, và về đa số
những nhà
văn Miền Nam
mà TH gọi là Ngụy.
Gấu này không hiểu lý do nào mà Đặng Tiến lại đặc biệt chú ý
đến cas Hiếu Chân Nguyễn Hoạt như ông viết:
Đọc Tô
Hoài viết về Nguyễn Hoạt
Hiếu Chân, giọng rất ư hằn học, sau khi nhắc lại một số kỷ niệm thời
quen biết,
một độc giả bình thường, thì cũng nhận ra, lý do là, TH 'tức đến phát
điên lên' bị những thông tin sai
lạc, về HC sau này, nghĩa sau 1954, khi chạy vào Sài Gòn, nào là có xe
hơi riêng, có vệ
sĩ, đã từng làm thượng nghị sĩ!
Một người viết đã lâu năm đã từng tạo cho mình
một tiếng tăm, một địa vị trong văn đàn như Đặng Tiến, đúng ra là phải
cải chính
giùm, kẻ đã chết ở trong tù VC, không làm sao biện bạch được.
Thay vì vậy,
Người phán:
Trong Chiều
Chiều Tô Hoài đã gay gắt riêng với Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, vì là, hay dù
là, chỗ
cố tri trước 1945 (tr.20). Phải chăng vì Hiếu Chân tránh gặp lại Tô
Hoài sau
1975, vì chút hào khí tuyệt vọng của con người chiến bại, hay tự cho là
như thế.
Còn phần Tô Hoài, thì không có vấn đề ấy; như cái lần đưa đám ma
ông Minh
Đức, chủ nhà xuất bản, anh đã phải trả lời Nguyễn Tuân : « Trong đầu
tôi không
có câu hỏi nào về việc như ông hỏi » (CBCA, 1992, tr. 57). Đây
cũng là một
câu nói chìa khoá, để tìm hiểu Tô Hoài. Có những câu hỏi Tô Hoài không
bao giờ
đặt ra. Nguyễn Tuân có vẻ không tin (tr. 57), nhưng mà đúng vậy. Ngược
lại, có
lúc anh ấy đặt ra những nghi vấn rất chi là vớ vẩn. Cũng có thể Tô Hoài
không biết là Hiếu Chân đã bị bắt và chết trong nhà giam Chí Hoà, 1985.
Tôi dừng
lại hơi lâu ở trường hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy
nhất, nhưng
có nguy cơ bị khuếch đại và xuyên tạc.
Đặng
Tiến
Theo
như Gấu biết, có thể có, chuyện HC qua Lào và nhân đó, gửi thư về cho
một ông bạn cũ, như TH kể.
Gấu nhớ
là, có 1 lần, HC được
‘nhà nước VNCH’ trao cho ‘mission’ qua Lào, gặp 1 đấng rất oách trong
chính phủ
Lào, có thể là thủ tướng, lâu quá Gấu không còn nhớ, để giải quyết một
rắc rối gì
đó, giữa hai nước, vì cái tay rất oách này, là bạn học của HC khi còn
học ở Hà
Nội. Thời gian này, hình như còn tờ nhật báo Tự Do thì phải, tức
là sau
1954 ít lâu, có thể còn Diệm.
Những thông tin sai lạc như thế, mà TH còn biết, và có thể chính vì
chúng mà ông
có thái độ hằn học với HC.
GNV
chẳng đã từng viết, cái mộng
ăn cướp Miền Nam,
của Gấu,
là từ TH mà có được, ngay từ khi còn bé tí, đọc TH viết về thiên đàng
ấm áp
Miền Nam:
Mais les
circonstances m'ont aidé. Pour
corriger une indifférence naturelle, je fus placé à mi-distance de la
misère et
du soleil. La misère m'empêcha de croire que tout est bien sous le
soleil et
dans l' histoire; le soleil m'apprit que l'histoire n'est pas tout.
Changer la
vie, oui, mais non le monde dont je faisais ma divinité. C'est ainsi,
sans
doute, que j'abordai cette carrière inconfortable où je suis,
m'engageant avec
innocence sur un fil d'équilibre où j'avance péniblement, sans être sûr
d'atteindre
le but. Autrement dit, je devins un artiste, s'il est vrai qu'il n'est
pas
d'art sans refus ni sans consentement.
Albert Camus: L’Envers
et l’Endroit.
Préface.
Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng
dưng tự nhiên, tôi để
mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin
rằng mọi
chuyện đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và trong lịch sử, mặt trời làm cho
tôi
hiểu rằng lịch sử không phải là tất cả.
Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm
mặt trời!
NKTV
As a theme, death
is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam" genre is
frequently used to exercise self-pity or for metaphysical trips that
denote the
subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the
alive)
over minority (of the dead).
Brodsky
[Tạm dịch: Như là một đề tài, cái chết quả là một thứ thuốc thử mầu tốt
để xét
nghiệm đạo hạnh của một nhà thơ. Cái dạng ‘ai điếu’ thì thường được sử
dụng, để
rèn luyện cái trò tự thương thân, trách phận, hay là trong những chuyến
đi siêu
hình nhằm thể hiện tính cao ngạo ngầm của kẻ sống sót đối với nạn nhân,
của đa
số (những kẻ còn sống) đối với thiểu số (những người đã chết)]
Phải
tới khi đọc Brodsky viết
về Anna Akhmatova, thì Gấu mới vỡ ra được cái không khí ai điếu của văn
học hải
ngoại, ngay sau 1975 ít lâu, ở cái đám may mắn chạy thoát trước ngày 30
Tháng Tư,
1975.
Sở dĩ Võ Phiến viết bằng cái
giọng ở trên cao ngó xuống, ấy là vì ông nghĩ, ông còn sống, trong khi
tất cả đều
đã chết rồi!
Cũng thế, là Mai Thảo, qua những
dòng thơ sau đây, về bạn ông là TTT:
Những
Thanh Tâm Tuyền trăm năm đã xa
Những Vũ Hoàng Chương nghìn
ngày đã khuất
Những bạn bè mà chúng nó đã
giết
Còn viết được ư thằng sống sót?
Mai Thảo: Viết văn trở lại.
[Ta thấy hình ta
những miếu đền]
Ghi chú
trong ngày
Hội
chứng Nhà Thổ
Không biết từ khi nào mà xứ
ta bị nhiễm hội chứng trang trí phố xá kiểu nhà thổ như bây giờ ?
Phố phố đèn lồng đỏ, băng rôn
đỏ, đèn nháy đỏ, tím, hồng cứ là loạn xạ. Xưa chỉ có bên Tàu mới có
kiểu ấy,
vài nước văn minh như Sing, Hà Lan, Đức, Thái...chỉ tập trung vào một
chỗ gọi
là phố đèn đỏ. Ấy nhưng ở ta thì hiện nay: cả thành phố đều ...đèn đỏ !