Ghi
chú
trong ngày
Thứ nhất,
cho đến nay, Tiền Vệ là một trong hai tờ báo mạng văn học duy nhất bằng
tiếng
Việt. Chỉ có hai. Tờ kia là Da Màu. Hết. Báo, thực sự là báo, theo tôi,
cần có
ba điều kiện chính: Một, phải được cập nhật mỗi ngày; hai, có nhiều
cộng tác
viên khác nhau chứ không phải chỉ có một người duy nhất (như ở các
blog); và
ba, bài vở phải mới chứ không phải là một dạng tập hợp từ các nguồn
khác, hoặc
báo in hoặc báo mạng, đâu đó (như hầu hết các tờ báo mạng hiện nay,
trong cũng
như ngoài nước).
Thứ hai,
trong hai tờ, Tiền Vệ thuộc lớp cao niên hơn Da Màu. Và cho đến nay, có
lẽ là
có tuổi thọ cao nhất trong tất cả các tờ báo mạng các loại, kể cả các
tờ báo chỉ
tập hợp bài vở từ những nơi khác.
Source
Thầy Cuốc
phán nhảm. Hoặc cố tình vờ trang Gió O của Bà Huệ, thí dụ.
Mười năm Tiền
Vệ phải chỉ cho thấy, chỉ 1 truyện ngắn, chỉ 1 bài thơ, thuộc loại...
hay,
tiêu biểu
của 10 năm, nếu không, 10 năm rồi lại 10 năm nữa, không vẫn hoàn không.
Tự bốc phét
về mình, thì dễ quá!
Nếu chỉ nói
về khoản này thua xa… GCC, và trang TV!
Báo thực sự
là báo, phải có cái đọc được, ngửi được.
Tờ Gió O,
tuy Bà Huệ có tí máu… khùng, nhưng luôn có những bài bảnh như vậy.
Hà, hà!
Ba điều kiện
của 1 tờ báo mạng, như Thầy Cuốc đòi hỏi, cũng nhảm.
Blog,
như… TV, như của NL, thí dụ, do 1 người làm, nhưng đằng sau nó, là cả 1
thế giới.
Sau Trang TV là hai địa ngục Lò Thiêu & Lò Cải Tạo.
Sau Blog NL, có thể là cả 1 tương lai dịch thuật cho cả 1 nước
Mít
[Hà, hà!].
Sau Hậu Vệ
là gì thì ai cũng biết.
Là hai ông Trùm.
Một ông vua bịp - chỉ 1 từ, thật phổ thông như từ "lệch pha" mà cũng
không biết, chỉ 1 câu trong bài viết Cái chết của tác giả
của
Roland Barthes, bản tiếngAnh, cũng đếch dịch nổi.
Một ông là đủ thứ ông, nào nhà biên
khảo, nhà thơ, nhà dịch thuật và nhà… cớm.
Gió O, tuy
không lên bài hàng ngày, nhưng mỗi lần lên bài, chắc chắn có 1 bài đọc
được. Đó
là sự thực, tuy Gấu "cũng" không chịu được diễn đàn này, nhất là những
cơn lên đồng
của Bà Huệ!
[Sorry, nhe!]
Bài vở toàn
mới, không có nghĩa là toàn rác, như của Hậu Vệ.
Cả
10 năm trời
dài thòng, không có lấy 1 cái truyện ngắn, 1 bài thơ, đọc được, vậy mà
mới cái
nỗi gì
Đây
là do
đám chủ trương, chứ không phải do tác giả, hay cộng tác viên, hay độc
giả. Cứ
giả như có 1 bài hay, thì hai đấng chủ trương cũng không nhận ra, hay,
nhận ra,
nhưng vứt vô thùng rác!
Những gì GCC
viết về hai ông Trùm, là đều có chứng cớ.
Những người cộng tác với Hậu Vệ hẳn cũng phải biết.
Vậy mà họ vẫn viết.
Điều này cũng giải thích sự tệ hại của diễn đàn này.
Dòng dã 10 năm
trời, không có lấy 1 cái truyện ngắn, bài thơ ra hồn, không có lấy 1
bài tiểu
luận cho thấy tình hình văn học trong nước, ngoài nước, thế giới. Thay
vì vậy,
thì tố cáo hết vụ dịch loạn này, tới vụ khác, không chỉ tố cáo, mà còn
tính đập
bể nồi cơm nhà người, vậy mà có chi tự hào?
Hậu Vệ bảnh
sao bằng Chợ Cá?
Vậy mà cũng sập tiệm, và Gấu thực sự chẳng hề mong Hậu Vệ đi theo bà
chị của
nó, nhưng, số trời làm sao tránh?
Hà, hà!
Với một bài
thơ tầm thường, chúng ta có thể sẵn sàng mang ra để bình luận hay giải
thích.
Nhưng nếu là một bài thơ hay, không cách gì chúng ta có thể bình luận
được. Bởi
vì những bài thơ hay là những bài thơ vượt ra ngoài ngôn ngữ thông
thường. Nếu
chúng ta dùng ngôn ngữ thông thường để nói, tức thị chúng ta đã làm
hỏng bài
thơ đó. Cũng tương tự như khi chúng ta coi một bức tranh, hoặc ta thấy
nó đẹp
hoặc không. Ta không thể nhờ một người nào đó chỉ hộ ta nó đẹp ở chỗ
nào! Tôi
đã thấy có vị coi tranh hỏi tranh này vẽ cái gì vậy? Và người hướng dẫn
trả lời:
chỗ này là người đàn bà, đây là mái tóc, dưới là cái mũi, cái miệng...
Tôi nghĩ
người họa sĩ thấy người khác bình luận tranh của mình như vậy, chắc
chắn sẽ
không vui chút nào cả! Thi sĩ cũng vậy. Hôm nay, có mặt Du Tử Lê ở đây,
tốt nhất
là tôi không bình luận gì về thơ Du Tử Lê. Vậy, tôi chỉ xin nói kinh
nghiệm của
tôi, trước đây độ mươi, hai mươi năm, tôi không thích thơ Du Tử Lê lắm.
Cho đến
những năm 75, 76, một bài thơ của Du Tử Lê, bài Khi Tôi Chết Hãy Đem
Tôi Ra Biển,
bài đó được rất nhiều người thích và chính tôi cũng đã mang ra trong
một cuộc hội
thảo về tại Boston, để giảng cho một số văn sĩ, thi sĩ Mỹ, hầu cho họ
dịch sang
tiếng Anh, xem họ có thích hay không? Đó là một bài thơ rất tiêu biểu
cho tâm
trạng người Việt tỵ nạn từ Việt Nam sang Hoa Kỳ, và, nói rằng bao giờ
tôi chết
đi thì hãy đưa tôi ra biển để sóng đẩy tôi qua Thái Bình Dương, trở về
Việt
Nam. Đấy là một bài thơ mà tôi rất cảm động. Ý thơ rất đẹp, lập trường
tốt nữa.
Nhưng nếu bảo bài thơ đó tuyệt diệu hay không thì tôi thành thật nói
rằng nó
cũng không có gì là tuyệt diệu lắm. Đó là một bài thơ bình thường. Ai
cũng có
thể làm được. Tôi nghĩ cái đó không khó.
Ông Số 2 phán
về bài thơ nổi cộm “lập trường tốt” của Du Tử Lê
Lần đầu tiên,
GCC được đọc bài viết.
Trước nghe
ba chớp ba nháng, rằng ông phán, bài thơ của DTL ai làm cũng được. Hóa
ra không hẳn như thế. (1)
A Failed
Poet
I'm a failed
poet. Maybe every novelist wants to write poetry first, finds he can't
and then
tries the short story which is the most demanding form after poetry.
And
failing at that, only then does he take up novel writing.
W Faulkner
(Interview
with Jean Stein, Lion in the Garden 238)
Tôi là 1 nhà
thơ thất bại. Có lẽ mọi tiểu thuyết gia đầu tiên muốn làm thơ, thua,
bèn quay
qua viết truyện ngắn, bảnh nhất, sau thơ, và chỉ khi thua nữa, bèn viết
tiểu
thuyết.
Life behind
the Iron Curtain.
Đời sống đằng
sau Bức Màn Sắt
Louis Menand
đọc Bức Màn Sắt của Applebaum.
Note: Trên số The New Yorker mới,
26/11/2012, một độc giả cho biết, tờ Partisan Review
“cũng” của Xịa.
Trên số NYRB mới, 22, 11, 2012, có bài viết của
Anne Applebaum, Như thế nào Bức Màn Sắt “vấp ngã” [How the Iron Curtain
Fell]
Có vẻ như thời
điểm này, là lúc nhìn lại nó, Bức Màn Sắt?
GCC đã tính
đi 1 đường về đề tài này, nhưng đụng cú đi xa gặp bạn & Em:
Cũng trong đoạn
này, tác giả kể là, de Beauvoir thức suốt đêm đọc ngấu nghiến Đêm
Giữa Ban
Ngày, và cảm thấy rất ấn tượng, hớp hồn, 'enthrallling'.
Anne
Applebaum nhận xét về nó mới khủng: Chỉ nó, và bạn của nó, là Trại Loài Vật, tránh cho Âu Châu không bị
nhuộm đỏ.
Bà này mới cho ra lò Bức Màn Sắt:
Iron
Curtain: The Crushing of Eastern Europe 1944-56 by Anne Applebaum
–
reviewAnatol Lieven on a cold warrior's account of the creation of the
Soviet
bloc (1)
Intel Life
Cuốn “Ma Đói”,
TV tính dịch hầu quí vị độc giả -đặc biệt vị độc giả “phục sát đất Bác
Gấu về những
giai thoại liên quan tới cái đói làm biến đổi lương tâm con người” -
mua cả hai
ấn bản Tẩy và Hồng Mao, nhưng cứ lần lữa hoài....
HERTA
MÜLLER'S HUNGRY EYE
This novel
first appeared the year Herta Müller won the Nobel prize. The qualities
which
bagged her that gong—poetic concision and clear-eyed honesty—are here
too,
taking us inside the mind of Leopold Auberg, her narrator, an ethnic
German
from Romania transported in 1945 to a Soviet labour camp. It's a
landscape of
slag and gravel, digging and deprivation, always accompanied by the
"hunger angel" of the title: "everything I did was hungry,"
Leopold says. "Everything matched the magnitude of my hunger in length,
width, height and colour."
The book is
full of touches like that—sensations taking on substance and form,
inert
objects becoming animated and insidious. The wind can listen, and
cement
"flies and crawls and sticks". Although Leopold is one of many in the
camp, we're always with a real individual and in a real place. Müller's
great
strength is concrete detail. At night the bed bugs cluster where
Leopold's
dribble soaks into the pillow.
The toil is
unremitting, but Müller gives us light as well as dark. Leopold sees
beauty in
the pink streaks in a slag heap and in carpet beaters glimpsed on a
drive to a
brick factory. Most of all he finds consolation in memories of the
ordinariness
of home: "sometimes things acquire a tenderness, a monstrous tenderness
we
don't expect from them". It's a line that could apply to Müller's
prose,
always exactingly grounded by the practicalities of survival—managing a
bread ration,
lugging cinder blocks, or making a tasteless weed palatable. This is
privation
transmuted into poetry.
Mo Yan
Blowback
The AP tells
us that Nobel laureate Herta Muller “wanted to cry” when she heard Mo
Yan had
received the award, though is silent on why.
Hãng AP cho
biết, Muller muốn khóc khi nghe tin MY được Nobel, nhưng im lặng về tại
sao bà
muốn khóc
Michael
November 26,
2012 at 3:08 pm
That’s ok,
when we heard that Herta Muller had won the Nobel, we wanted to cry,
too.
Cũng OK
thôi, khi chúng ta nghe tin Muller được Nobel, chúng ta cũng muốn khóc
vậy
Fiction
Bull
by Mo Yan
November 26, 2012
CHARLOTTE
BRONTE'S SILENT REVOLT
November 24,
2012
Is “Anna
Karenina” a Love Story?
Liệu, “Kha Lệ
Ninh”, chuyện tình?
Có chuyện tình
ở đó, nhưng đúng hơn, hậu quả cực khủng của nó. Và đó mới là điều mà
Tolstoy quan tâm.
I
suppose
that there’s a love story here, but what really interested Tolstoy
wasn’t love,
per se, but its extreme consequences.
Bài Ai điếu Bà Vợ Góa nhà thơ
Mandelstam của Brodsky, lần đầu ra
mắt độc giả, March 5, 1981:
Tôi [Brodsky]
gặp bà lần
chót vào
bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế
chiều,
và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng
chén dĩa
in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu
thuốc, và
hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run
rẩy
dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái
tóc xám
mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại
của một
đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.
It's the
possession of this prism supplied to her by the best Russian poetry of
the
twentieth century, and not the uniqueness of the size of her grief,
that makes
Nadezhda Mandelstam's statement about her piece of reality
unchallengeable.
It's an abominable fallacy that suffering makes for greater art.
Suffering
blinds deafens, ruins, and often kills. Osip Mandelstam was a great
poet before
the revolution. So was Anna Akhmatova, so was Marina Tsvetaeva. They
would have
become what they became even if none of the historical events that
befell
Russia in this century had taken place: because they were gifted.
Basically, talent doesn't need history.
Would Nadezhda Mandelstam have become what she
became had it not been for the Revolution and all the rest that
followed?
Probably not, for she met her future husband in 1919. But the question
itself
is immaterial; it leads us into the murky domains of the law of
probability and
of historical determinism. After all, she became what she became not
because of
what took place in Russia in this century but rather in spite of it. A
casuist's finger will surely point out that from the point of view of
historical determinism "in spite of is synonymous with
'"because." So much then for historical determinism, if it gets so
mindful
about the semantics of some human "in spite of."
Chính vì sở hữu một lăng kính
như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20
của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng
- khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược
lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có
nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và
thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách
mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn
là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố
lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng
đếch cần lịch sử.
Liệu Nadezhda Mandelstam trở thành như là bà bây giờ, là do Cách Mạng,
và tất cả những gì tiếp theo sau nó? Có lẽ không phải như vậy, bởi vì
bà gặp người chồng của mình vào năm 1910. Nhưng một câu hỏi như thế, tự
thân nó, là không thích hợp; nó dẫn chúng ta tới những vùng đất mờ ảo,
của trò xác xuất - rằng chuyện như thế có thể xẩy ra - và tới thuyết
tất định về lịch sử. Nói cho cùng, bà trở thành như bà ngày nay, không
phải bởi vì những gì đã xẩy ra ở Nga, trong thế kỷ này, mà đúng ra là,
bất chấp những chuyện đó. Ngón tay trỏ của một tên ngụy biện chắc hẳn
sẽ vạch ra rằng, theo quan điểm của thuyết tất định lịch sử, thì "bất
chấp" đồng nghĩa với "bởi vì". Rút cục ra, tất định thuyết về lịch sử
thì cũng chỉ có vậy, nhưng ví bằng, nó quan tâm một tí, tới “cái gọi là
con người”, nằm ở trong ngữ nghĩa của từ 'bất chấp'...".
Ai
điếu như thế, chứ có đâu như Xứ Mít! (1)
Tuyển tập tiểu
luận 30 năm của NYRB, GCC mua ngay ngày hôm sau, khi từ Cali trở về,
kịp làm
sao, đúng cái hẹn thử “tai nghe”, hearing, của bịnh viện.
Tại tiệm sách
cũ quen thuộc, Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, kế cái trung tâm tạm trú
đầu tiên,
khi vừa tới Xứ Lạnh từ Trại Tị Nạn.
Cũng là nơi
gặp lại cô bạn, sau bao nhiêu năm trời xa cách.
Hai trở ngại
lớn, hai đại họa đúng hơn, với GCC, lần đi xa dối già này, là tai và
răng. Răng
còn đúng 1 cái. Lũ bạn khốn nạn cười khả ố, nè, có dám hôn em, với chỉ
1 cái răng
không đấy?
(1)
Thanh
Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu
thuốc
và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.
Khi
viết những dòng trên, MT đinh ninh VC đã làm thịt TTT!
Y chang những dòng VP viết về nhóm Sáng Tạo trong VHTQ
Còn
đây là ai điếu của TTT, cho bạn mình:
Mai Thảo gửi
tới chúng tôi Đêm Giã Từ Hànội.
Tôi nhận được
một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người gửi, trong đựng xấp bản thảo
đánh máy.
Bút hiệu Mai Thảo hoàn toàn xa lạ với tôi.
Liếc nhìn
dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng nhìn
xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Câu trích đề
của truyện đột ngột khác thường. Nó không trích ra từ một tác phẩm khác
đã có.
Nó như tự trên trời rớt xuống, hay nói như Mai Thảo là câu “bắt được
của trời”.
Cái chiều sâu của nó làm chóng mặt.
Tưởng nên nhắc
nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi biết, cho đến lúc bấy giờ
chưa thấy
được dùng trong văn chương Việt Nam. Phải đợi vài năm sau, khi Phạm
Công Thiện
xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche, văn từ “hố thẳm” mới tràn lan và
trở
thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện
thì rõ câu trích đề là một câu ở trong truyện. Phượng là tên nhân vật.
*
Đây là một
truyện không cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt
đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe – theo
bước di
chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi
chìm
trong giấc kín bưng triền miên của chúng - , ở sự dồn đẩy khôn ngưôi
của chữ
nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới
chốn nhòa tắt
mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã
Từ Hànội là truyện hay tùy bút đều được.
Cứ theo ký ức cùng cảm thức của riêng tôi, trong và sau khi đọc, thì đó
là một
bài thơ. Thơ là thứ tiếng nói tàng ẩn trong quên lãng bất chợt vẳng
dội, đòi được
nghe lại (nghĩa là đọc lại, lập lại). Người ta nghĩ đến một truyện
ngắn, một
bài tùy bút, một quyển tiểu thuyết đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng thời
nghe và
gặp lại một câu thơ, một bài thơ.
Đêm Giã Từ
Hà Nội là một bài thơ thỉnh thoảng vẫn vẳng dội trong tôi mà tôi không
thể nhớ
toàn vẹn - tỷ như lúc này đang viết đây tôi không cách nào tìm đọc bài
thơ ấy
trừ cách tưởng tượng dựa vào ý ức và cảm thức còn sót đọng, trừ câu
trích đề.
*
Nhớ trong buổi
họp kiểm bài vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã không thể ngăn
nổi mình
yêu cầu các anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe tôi đọc Đêm Giã Từ Hànội đăng trọn
trong một
kỳ báo, không cần lời giới thiệu. Và tôi đọc say sưa, hùng hồn liên
hồi. Và các
anh chịu khó ngồi nghe trên căn gác lửng tối chật của tòa báo. Anh Tế
kết thúc
buổi họp nói đùa "Anh làm chúng tôi mất cái thú tự mình khám phá".
Năm di cư thứ
hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh
của đất Bắc
ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên
xưng nó là
câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa
ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự
nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của
Pushkin."]
Khi từ Phú
Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng
Cỏ, trông
xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của
một ngày
cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm...
dưới
ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ. [Câu văn là một câu
gắn
liền trong mạch văn, tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất
toàn. Câu
thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó
gợi nhắc].
*
Đăng bài
Anh, tôi viết lời nhắn mời anh đến chơi tòa soạn. Mai Thảo đến.
Chúng tôi
thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ ấy.
Good Night,
Sweet Prince!
Hamlet – Shakespeare.
Chúc Người
An Giấc, Công Tử của Lòng Ta.
Thanh
Tâm Tuyền
2-98
[Lần đầu
đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân
1998]
Văn học
biết
gì về Giàng Búi?
Linda
Lê vô chung kết “Goncourt” với Sóng Ngầm (1)
Linda
Lê,
une voix qui nous hante
Obs 25 & 31 Oct, 2012
Linda Lê được
Nobel của Tẩy năm nay, là thế nào cũng có bài trên trang Sến: Chỗ đứng
của Da Vàng,
Mũi Tẹt, Nam Kít, Mặt Nạ Trắng Linda Lê ở đâu?
Hà, hà!
Luận & Thư
từ một Ba Lan bị Nazi chiếm đóng 1942-1943
Note: Trong
số tiểu luận, có 1, viết… giùm nhà thơ
ông anh của GCC: Huyền thoại về Đảo Xa, The Legend of The Island.
Tuyệt lắm, TV
thể nào cũng giới thiệu!
Note: Bài
này, tháng nào cũng hót, theo
server!
Gừng càng
già càng cay. Những linh hồn chết của
Gogol lại sống lại với bản tiếng Anh, mới, của nhà Penguin.
Tuồng ảo hoá
đã bầy ra đấy: đầy người và vật, trong cõi thực mấp mé bờ siêu thực.
Nabokov,
trong một bài tiểu luận lớn, và độc đoán, coi Những Linh
Hồn Chết, một thứ "Văn Đẻ Ra Đời", trong đó,
những câu kệ của Gogol, giống như những câu thần chú, kêu gọi ra một
thế giới,
và thế giới này có thể, hoặc phát triển hoặc huỷ diệt, thì đều theo
cùng một
cách, là khùng điên ba trợn.
Gogol gọi,
đây là một "bài thơ" (1), và theo một số đường hướng, tác phẩm tiếng
Anh gần gũi nhất với nó, là The
Canterbury Tales, trong đó, nhịp điệu văn không
những làm tăng thêm, mà còn tạo ra cái bất ngờ khoái tỉ về chi tiết,
của người
và vật.
Nabokov cũng
bị ảnh hưởng Gogol, trong "Nhạt Lửa" ("Feu
Pâle", 1962),
câu chuyện một gã khùng cứ nghĩ mình là vua. Trong một tiểu luận về
Gogol
(1944), dành cho những độc giả không chuyên, không rành tiếng Nga,
Nabokov đã
đưa ra một Gogol với một tầm nhìn lớn, nhưng luôn bám vào chi tiết. Ông
nhấn mạnh
tới tính mỹ học nội tại của bản văn, theo đó, nghệ phẩm không phải là
phát ngôn
viên của tác giả: nó muốn là chính nó, sáng tạo ra thực tại cho chính
nó. Ông
viết:
"Chiếc
Áo Khoác" của Gogol là một cơn ác mộng tối tăm và thô kệch đã chọc
những lỗ
thủng đen ngòm vào dòng đời chẳng có chi là rõ ràng. Một độc giả phiến
diện sẽ
chỉ coi đây là một câu chuyện của một tên hề quá lố. Một độc giả
"nghiêm
túc", coi đây là một tố cáo chế độ thư lại ghê tởm của nước Nga. Nhưng đây
là một tác phẩm không dành cho bất cứ độc giả nào không biết cười,
không thèm đến
phát điên, một tác phẩm làm cho mình "đau đầu". Hãy tóm lấy một độc
giả có đầu óc sáng tạo: đây là một câu chuyện dành cho anh ta. Và với
độc giả
này, Gogol chính là một bậc kỳ tài, về phi lý. Ở đây, là nghệ thuật
chống lại cái
thực, là hiện thực huyền ảo, là thế giới được tái dựng lại…
NQT
(1)
Trong lời tựa,
bản tiếng Việt, dịch giả Hoàng Thiếu Sơn viết rõ hơn: Puskin đã từng
khuyên
Gôgôn sáng tác Những linh hồn chết
thành một thiên 'trường ca' - poema
- Chữ
"poema" đây không phải có nghĩa là một tập thơ mà là một tiểu thuyết
trường thiên có tính sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn
cho in
lên bìa chữ "poema" to hơn tên sách.
Chúng ta đều
chui ra từ “Chiếc Áo Khoác”.
(We have all come out of the folds of ‘The Overcoat’).
Trong những
chú giải về Sự Sa Ngã của Con Người, có một, theo đó, Cõi Phúc của Adam
bị huỷ
diệt, không phải bởi vì Adam vi phạm lệnh của Thượng Đế (God), nhưng là
do anh
mê đắm mê đuối.... Lolita, xin lỗi, BHD, xin lỗi, Eva,
tuyệt phẩm sáng tạo,
một toà thiên nhiên như thế đó! Cũng vậy, cõi phúc của Akaky đã bị huỷ
diệt, vì
sự xuất hiện của chiếc áo khoác:
“Vậy là tiêu
trầm, biến vào hư không…. chẳng để lại một trò huênh hoang bắng nhắng
nào, đối
con người đó, [một ngày đẹp trời kia], một người khách hào hoa trong bộ
dạng
chiếc áo khoác bất thình lình xuất hiện, làm cuộc đời khốn khổ của anh
sáng
lên, chỉ một giây phút phù du; [rồi sau đó] là tai ương giáng lên
đầu…”, vẫn Gogol,
khi viết về cái chết của nhân vật của mình. Chính “người khách hào hoa…
làm
sáng ngời dù chỉ đôi phút phù du”, cái áo khoác, và Akaky “hệ lụy” vào
nó (his
attachment to it) đã xóa sạch cõi phúc của anh: một khi “đời thực” xuất
hiện,
đâu ai còn nghĩ đến “chép lại” làm chi nữa?
Theo 1 nghĩa
nào đó, Cái Tốt thì đơn điệu
It
must end
in the inexplicable
Bởi là vì nếu
Prague là một “bà mẹ nhỏ”, thì “bà mẹ nhỏ” này có móng vuốt sắc lắm!
“Trong thư,
em viết, có thể, em sẽ ghé thăm Prague trong tháng tới. Tôi muốn nói
liền với em, đừng,
hãy để cho tôi hy vọng, rằng, sẽ có 1 ngày, tôi khẩn cầu em, vào cái
lúc mà tôi tận cùng, kiệt quệ, và em đến liền
tức thì, nhưng lúc này, đừng, đừng”
Thư Kafka gửi Milena
Jesenská, 18 Juillet 1920
Bản tiếng Tây:
Tu m’écris
que tu viendras peut-être à Prague le mois prochain. J’ai presque envie
de te
dire : ne viens pas. Laisse-moi l’espoir que si, un jour, je te demande
de
venir quand je serai dans la pire détresse, tu arriveras immédiatement, mais maintenant il
vaut mieux que tu ne
viennes pas”
Ui chao, đọc
1 phát, thì bèn nhớ ra cái cảnh Trung Uý Kiệt chạy dưới trời Đà Lạt,
mưa, ướt sũng, như con gà nuốt dây thun, run,
như con
thằn lằn đứt đuôi... vô Bưu Điện, đánh 1 phát điện tín, "cầu kíu"
cô học trò nhí,
Oanh, "S.O.S.
Au secours!"
Rồi chạy ra, rồi lại chạy vô, lấy lại bức điện.
Em cũng… vô
ích, cũng nhảm, chẳng đáng,
chẳng đáng!
Hà, hà!
*
Đúng buổi
sáng ngày Kiệt bị quật ngã, chàng mới có quyết định đánh bức điện tín
cho Oanh.
Chàng đội mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên lỗ tai như
tiếng sấm.
Chàng viết bức điện tín, tay run như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết,
chàng
nhớ đúng như in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ người ta cứu tôi
với. Kiệt.
Kiệt nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân
viên Bưu Điện
vốn quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt: Ông không điên chứ ông Kiệt? -Tôi
điên chớ,
rõ ràng là tôi điên đây thôi. –Ông nhất quyết gửi bức điện này? -Chớ sao nữa, còn gì nữa. Tôi đang cần tiền,
hết tiền tiêu rồi, phải kêu kiểu đó mới có tiền. Kiệt cười hộc. Chàng
ra khỏi
Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin rút bức điện lại. Chàng ướt
còn hơn
buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa hết cảnh vật, nhòa hết cảm xúc, ý nghĩ,
và quyết
định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
-Anh coi thường
em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ
hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận dữ. – Mình
là cái
quái gì. Anh chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường, thường
hết, dễ
sống. Không có ai là ghê gớm, là thiết yếu đối với ai ở đời này. Rỡn
chơi vậy.
Em hiểu không, nói rỡn vậy mà chơi thôi. Chẳng đáng một đồng bạc cắc.
Anh đâu
có thiết yếu cho em, mà em đâu có thiết yếu cho anh. (1)
Hay là
cảnh
chính GCC đợi BHD nơi quán cũ, chưa đầy 5 phút, đã bỏ đi!
Lần
cuối
cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong
Chợ Lớn.
Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ
cô bé đưa
em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang
bữa ăn
chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi
sáng
em thấy chị đi với anh Gấu."
Bạn bè, cô,
và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ
nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại
những
kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh
nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y
khoa, suốt
quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn
nói, con
này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ
(có lần
anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa đó, mưa
lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ
hồ hy vọng
những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những
kỷ niệm
về một cô gái
Hà Nội,
độc,
và
đẹp... (2)
Lolita
vs BHD
Bà Viễn Phố
trả lời mấy câu hỏi của tôi qua điện thoại. Rằng thì việc in sách Quê Hương Tôi
trong năm 2012 với tên Tràng Thiên thay vì Võ Phiến là việc bà biết và
đồng ý để
cho Nhã Nam làm.
Source
Ngay khi cuốn
của Võ Phiến được Nhã Nam in, với tên Tràng Thiên, Gấu có nhờ 1 anh bạn
phôn
ông VP, được bà Viễn Phố trả lời, gia đình không biết chuyện VN in sách
của Võ
Phiến.
Gấu nghĩ,
đúng như trên, như bà trả lời bà Huệ.
Khi bà Viễn Phố trả lời điện thoại anh bạn của Gấu, là vì bà có
tí ngại, và có thể cũng chẳng coi anh này ra cái chó gì cả!
Trả lời cho qua
chuyện.
Anh bạn này đã có lần được VP nhắn, mời Gấu ghé nhà chơi, nhưng mải
chơi quá, Gấu
quên.
Bỗng
nhớ tới… Brodsky, quái thế!
Ông này, đi là đi 1 lèo, và khi bị cật vấn, ông tìm đủ cách để giải
thích cái
vụ việc đếch trở về. Nhưng bị dồn đến chân tường, ông trả lời thật là
tuyệt
vời:
Cái phần đẹp nhất
của tôi thì đã có ở đó rồi. Thơ của tôi.
Trường hợp VP, theo tôi cũng thế.
Bà vợ của ông làm hỏng hình ảnh đẹp nhất của chồng mình.
Viễn Phố, Võ
Phiến mà biến thành Tràng Thiên!
Hay là đi với… ma thì phải thế?
Lan
man, thì nó ra chuyện KL tính mò về hát. Trường hợp bà này đẹp hơn
nhiều, và bi
thương hơn nhiều. Nó liên can đến tiếng hát, nhạc TCS, người chết hai
lần, bài
thơ tình đâm thấu tim bạn,
như Szymborska phán, và như thế, nó liên
quan
tới Trại Cải Tạo, Trại Bỏ Đói, đến vượt biển, lưu vong nơi xứ người....
Từ
từ Gấu lèm bèm tiếp!
Hà,
hà!
Ngày mới qua
Mẽo thì Bác Giai dịch cái tên Mẽo thành tên tiếng Mít, khi lấy Đô Xanh
của Mẽo,
bây giờ Bác Gái gật đầu cái chuyện VC lấy tên Tràng Thiên, thay cho Võ
Phiến, để
lấy Đô Đỏ của VC.
Theo bài viết của Bà Huệ, bà Viễn Phố cho biết, bản quyền sách VP đã uỷ
cho đám
con cháu.
Việc này mở đường cho
những tác phẩm sắp xb của VP tại Việt
Nam,
nhưng VP, do mất trí nhớ rồi, vô can!
NMG thì cũng được VC ban cho cái giải thưởng sách hay nhất xứ Mít rồi.
*
Bao giờ ông
về?
-Có thể, tôi
không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi nên về. Tôi sẽ không
về. Đâu có
ai cần tôi ở đó.
-Đừng nói bậy,
họ sẽ không để ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh ông trên đường phố...
tới tận
Moscow... Tới Petersburg... Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều
khiến tôi không muốn về. Tôi đếch cần ai ở đó. (1)
*
Having sampled two oceans as
well as continents,
I feel that I know what the globe itself must feel: there's
no where to go.
Elsewhere is nothing more than a far-flung strew
of stars, burning away
Đã nếm trải hai đại dương cũng
như hai lục địa
Tôi cảm thấy rằng, tôi biết được, chính trái đất này phải cảm nhận như
thế
nào:
Không có nơi nào để mà thoát cả.
Bất kỳ đâu đâu, có khác gì một chùm sao xa xăm tắt lịm dần. (2)
Cali
Tháng Tám 2011
Bond &
Cao Bồi & Gấu
Bài này tính
viết lâu rồi, cứ lừng khừng, cố "kiềm chế", hay, cố "cưỡng lại", vì một
vài sự kiện,
có thực, liên quan tới định mệnh, quái thế, của Gấu.
Nhưng sắp đi xa rồi, viết
mẹ hết ra cho nó khỏe thân.
Hà, hà!
JAMES BOND'S
OFFICE FLIRTATION
Đọc cái bài
này, về 1 nhân vật bị chính người đẻ ra nó lơ là, GCC bỗng nhớ đến
nhân vật
Hà, trong Đôi Bạn của Nhất Linh. Chỉ
mãi đến khi về già, viết Viết và Đọc Tiểu
thuyết, thì Nhất Linh mới nhận ra nhan sắc thầm của em Hà này,
vượt hẳn
Loan của Dũng!
Hà, hà!
Có tí gì tương tự với… "Bác Gái Nhà"
chăng?
Hà, hà!
DNM by MT
Note: Đây
cũng 1 bài thuộc loại văn chương ai điếu, theo cái nghĩa của Brodsky,
khi ông
viết:
As a theme,
death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam"
genre is frequently used to exercise self-pity or for metaphysical
trips that
denote the subconscious superiority of survivor over victim, of
majority (of
the alive) over minority (of the dead).
Joseph
Brodsky: Anna
Akhmatova Poems'
Introduction [The Keening
Muse]
Như một đề
tài, cái chết là “lửa thử vàng”, một thứ thuốc thử đạo hạnh của một nhà
thơ.
Cái giọng 'tưởng niệm', cái dòng văn chương ‘ai điếu’, thường được sử
dụng để
thực tập sự tự thương thân trách phận, hay là trong những chuyến đi
siêu hình
làm bật ra tính ưu việt tiềm ẩn của kẻ sống sót đối với nạn nhân, của
đa số
(người sống) đối với thiểu số (ngưòi chết).
Lần đầu tiên
Gấu đọc câu trên, là ngộ ra cả 1 kiếp bạn quí thời mới lớn, và quái làm
sao, lại
nhớ đến ông cậu, Cậu Hồng, con Bà Trẻ của Gấu.
Ông này, có
tật, đưa bạn gái đi chơi, là để 1 tờ giấy 500 trên túi áo ngực, chiếc
áo sơ mi
thì màu trắng, để khoe.
Gấu cũng tưởng
tượng ra được, 1 tờ ai điếu như trên, của bạn quí, những ngày thờ Cô Ba!
GCC đọc bài viết của MT,
những ngày mới ra hải ngoại. Và nhớ liền cái chi tiết MT viết về TTT:
Thanh Tâm
Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu
thuốc và
tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.
TTT, phải đợi
MT đi xa rồi, mới dám kể chuyện ông hạnh ngộ MT như thế nào, trong bài ai điếu
Theo đó
suy
ra thì cái vụ nhặt truyện ngắn DNM từ sọt rác một tòa soạn, chỉ là một
giai
thoại!
…
thường được sử dụng để thực tập sự thương thân trách phận.
Ui
chao, ngay từ những năm 1960, sau khi được VC cho ăn hai trái mìn
Claymore, ở
nhà hàng nổi Mỹ Cảnh ở bờ sông Sài Gòn, đếch chết, khi giữ mục điểm
sách cho
trang VHNT cuối tuần của nhật báo quân đội Tiền Tuyến, khi ông anh nhà
thơ còn
trông coi trang này, là Gấu đã ngửi ra mùi nỗi bơ vơ của bày "ngựa non,
ngựa hoang, ngựa da vàng,
nhược tiểu", và nhân cái chết của Y Uyên còn đang nóng hổi, Gấu bèn đi
đường
cảnh cáo những nhà văn nhà thơ tay súng, tay thơ - những nhà văn quân
đội - rồi:
Hãy cố gắng
mà sống sót
cuộc chiến [tất nhiên, không phải theo kiểu bỏ chạy, hay bợ đít VC],
bởi là vì,
chỉ 1 khi bạn sống sót, thì bạn mới có thể đối diện với 1 cuộc chiến
khác, cũng
khủng chẳng kém: văn chương!
Cái
cô bạn gái của ông cậu của Gấu, Cậu Hồng, con trai độc nhất của Bà Trẻ
của Gấu,
là một cô gái của Xóm Đội Có, Phú Nhuận.
Gấu là người tình đầu của cô. Khi Gấu rời cái xóm cũ, thì Gấu bỏ quên
luôn cô,
chạy theo BHD. Khi cô quen ông cậu của Gấu, bà chị gái của Cậu Hồng,
tức Dì Nhật,
lắc đầu, không thể để thằng Hồng lấy nó được, vì nó đã đi chơi với
thằng T bao
lâu rồi, ai cũng biết.
Mãi sau này, thì Gấu mới biết, cô gái bỏ ông cậu của Gấu, vì cái vụ tờ
giấy bạc
để trên túi áo. Cô nói với Gấu, khi gặp lại ở hải ngoại, và cô
cũng qua hai đời chồng.
Và
khi nói về Gấu, cô phán, anh ấy hiền lắm. Ông chồng thứ nhì phát điên
lên được.
Y chang ông chồng
của cô
bạn, tức cô phù dâu!
Sự
thực là như vậy. Gấu quen cô mà chẳng hề bao giờ có chuyện bậy bạ. Bây
giờ về
già nghĩ lại, thì cũng tiếc!
NKL,
ông bạn học cùng thời đó, có lần hỏi Gấu, một thằng như mày, mà... tha
ư?
Gấu
bật cười nghĩ lại, nhớ lại, thì hiểu ra, cô nào cũng quá
tin cậy Gấu, giả như
Gấu có làm, thì cũng tin cậy mà cho, nên Gấu không dám làm!
Hà,
hà!
Rạp Đa Kao,
khi đó, là nơi Gấu hay chở em tới coi ciné.
Hồi đó, ở Phú Nhuận, sống
nhờ Bà
Trẻ, gia đình sống bằng cái sạp bán đồ mã não của Bà Trẻ ở Chợ Phú
Nhuận. Không còn ở hẻm Xóm Đội Có nữa, mà
dời qua hẻm
Nguyễn Huỳnh Đức, đằng sau Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Em ở xóm Đội Có cũ,
người
quen xưa, thì cứ cải luơng như vậy cho nó tiện, vì em rất mê đọc truyện
trên mấy
tờ nhựt báo… Đâu có dám đưa em đi rạp gần nhà, khu Phú Nhuận, mà phải
tới Rạp Đa
Kao!
Bữa nào
Gấu
kể tiếp, sợ Gấu Cái bực!
Không phải
chỉ Gấu, mà thằng em Gấu, rồi ông cậu của Gấu, đều thương cô bé này. Cô
nói về
thằng em đã mất của Gấu, anh S. láu hơn anh nhiều, còn ông Hồng thì cù
lần quá.
Anh thì quá hiền!