Notes
Souvenir
Souvenir
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
1 2 3 4 5
|
Kỷ
Niệm
Về
tới Tân Sơn Nhất,
chìa cái
này ra, không hiểu có bị đuổi không?
Phạm
Năng Cẩn, một trong Thất
Hiền, đọc, mê quá, thằng cha này viết về mày thật tuyệt!
Đam mê
văn chương đồng nghĩa
với nhọc nhằn vất vả. Chiêm nghiệm lại điều ấy thật chẳng sai chút nào.
Đọc rất
nhiều, viết rất nhiều mà chẳng được bao nhiêu. Đã có lúc tôi có ý định
tạo cho
mình một phong cách, một lối đi riêng rẽ nhưng rồi rốt cuộc cũng chẳng
tìm thấy
gì. Văn chương là khu rừng rậm rạp đầy bí hiểm, mỗi người tự chui vào
và tự tìm
đường bò đi. Ở đấy chẳng biết dựa vào ai, chẳng có ai giúp đỡ. Và may
thay tôi
đã tìm được cho mình một cây gậy chống cho đỡ vấp ngã mỗi khi bị say
chếnh
choáng trên cõi đời này. Cây gậy ấy chính là quê hương, Tổ quốc, là
hướng tâm
về cội nguồn dân tộc Việt Nam.
Lá bùa hộ mệnh đó là kim chỉ nam xuyên suốt qua những sáng tác của tôi.
Sống
giữa thế giới mênh mông
của trời đất và lòng người, thênh thang thế mà nhiều khi vẫn thấy cô
quạnh. Nơi
đất khách quê người ngồi nhâm nhi ly cà phê, thả hồn qua làn thuốc để
cố tình
kéo quá khứ về hiện tại và tôi bỗng thấy thương quá chính mình và những
số phận
trần gian. Những lúc như thế tôi lại ngồi vào bàn viết, viết tất cả
những gì
chợt đến, đuổi theo những gì đột ngột trôi đi. Những khuôn mặt thân
thương bạn
bè, người thân trở thành nhân vật, bờ tre gốc lúa, cánh diều hóa thành
những
vần thơ. Hình như thời gian càng trôi đi bao nhiêu thì ký ức của người
xa xứ
càng khắc khoải. Từ nửa vòng trái đất tôi cảm thấy mình công bằng hơn
khi đánh
giá một vấn đề.
Kỷ
Niệm
Nhung ngay o Sai-gon : tap
truyen / Nguyen Quoc Tru
Note:
Tối qua, nhớ Sài Gòn
quá, Gấu dạo net, gặp Những Ngày Sài
Gòn ở Thư Viện Úc, trên. Thú quá.
Không
ngờ cuốn sách nhỏ bé của Gấu kiếm ra cái thế giới của nó ở xứ Kanguru!
(1)
Va, petit
livre, et choisis ton monde. Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.
Mẩu
quảng cáo trên một số Văn, một
anh bạn văn trong nước gửi cho (1)
(1)
Chú đã
tìm lại
được mấy cái này chưa, đều trên báo Văn.
Có cái quảng cáo
"Những ngày ở Sài Gòn" trên Văn số 161, chuyên đề "Thi sĩ Quách
Tấn", 1970.
Truyện "Kiếp
khác" trên Văn số 135, 1969, "tuyển tập văn mới".
Tks. NQT
Xe miền Tây
Mình
gọi đó là
“liệu pháp đường xa” mỗi khi cần phải chống sốc vì phải đi về giữa hai
môi
trường sống, hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi… mỏng.
Nên
hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm
lạnh
người đời mình thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán ăn
bên đường,
cùng với được mất đắng cay sau những ngày rời tổ. Có quá nhiều thứ phải
bỏ lại,
và mình cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe chạy thì chậm
rãi, nhà
cũng xa vừa vặn để mình trở lại là mình (hoặc gần giống mình). Thôi thì
chân chất, ừ
thì quê mùa… miền
Tây mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải Sài Gòn Hà Nội, đây là một
thế
giới khác rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh mì ở bến
xe đem
về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường,
nhiều
người ngồi chồm hổm chờ ngoài sân không dám ghé mông ngồi vào ghế, sợ
thức ăn
đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay
nắn hai
túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài cái kim tây. Có lần mình ngồi
cạnh một bà
già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo, cắn lóc cóc.
Những người miền Tây
quăn queo lam lũ
thật thà này, bolero này, dầu gió này mình không bao giờ gặp trên những
chuyến
bay. Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham xe đò có bạn bè cười, mình
chống
chế bằng một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người thì
không xa
lạ với tôi. Nhưng trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại là
sến cho
rồi, có
sao đâu…
NNT
Gấu đọc câu
gạch dưới ở trên rồi, nhưng không nhớ của ai, bây
giờ mới kiếm ra, khi đọc Errata, của Steiner:
Nothing human is alien to
me: Nihil alienum. Của nhà viết kịch La Mã
Terence (190-158 BC).
Cô Tư, sến, boléro, dầu gió, kịch La Mã, mới ghê!
Trong Errata, cùng khúc đó, Steiner đưa ra một ý nghĩa thật tuyệt vời
cho từ
‘stranger’, kẻ xa lạ, mà có thể đây mới là ẩn dụ của cái tít cuốn
truyện của
Camus. (1)
(1)....
There is a fundamental implication
to the legends, numerous in the Bible, but also in Greek and other
mythologies,
of the stranger at the door, of the visitor who knocks at the gate at
sundown
after his or her journey. In fables, this knock is often that of a
concealed
god or divine emissary testing our welcome. I would want to think of
these
visitors as the truly human beings we must try to become if we are to
survive
at all.
It may be that the Jew in the
Diaspora survives in order to be a guest - so terribly unwelcome still
at so
many shut doors. Intrusion may be our calling, so as to suggest to our
fellow
men and women at large that all human beings must learn how to live as
each
other's 'guests-in-life'. There is no society, no region, no city, no
village
not worth improving. By the same token, there is none not worth leaving
when
injustice or barbarism take charge. Morality must always have its bags
packed.
This has been the universalist precept of the prophets, of Isaiah,
Deutero-Isaiah and Jeremiah in their ancient quarrel with the kings and
priests
of the fixed nation, of the fortress-state. Today, this polemic
underlies the tensions
between Israel and the Diaspora. Though the thought must,
like the ritual name of God,
be unspeakable, the greater verity is that Judaism would survive the
ruin of
the state of Israel.
It would do so if its 'election' is indeed one of wandering, of the
teaching of
welcome among men, without which we shall extinguish ourselves on this
minor
planet. Concepts, ideas, which exceed in strength any weapons, any imperium, need no passports. It is
hatred and fear which issue or deny visas. I have felt more or less at
home -
the Jew is often a polyglot almost unawares - wherever I have been
allowed a
table to work at. Nihil alienum, said
the Roman playwright. 'Nothing human is alien to me.' Or to put it
another way:
what other human presence can be stranger to myself than, at times, I
am?
Steiner: Errata, p. 56
*
Những gì thuộc về con
người...
From:
Sent: April 5, 2010 12:59:48
AM
To:
…. Cô
Tư lên tiếng cho đồng
quê Nam Bộ đang bị công nghiệp hoá bức tử, chứ cổ là con nhà cách mạng
thứ
thiệt, thì Scarlett với Melanie cái nỗi gì?
Câu được gạch dưới của cổ là
chỉ lặp lại lời một người khác trong một blog, và cũng là câu mà
"bác" Marx và cách mạng hay trích dẫn, học sinh sau 75 biết ráo, khổ
cho Gấu phải truy lục.
Tôi thấy Gấu quá đau đáu với
Miền Nam
xưa mà thành ra lẩm ca lẩm cẩm như vậy.
Tôi cũng thích văn của cổ bất
luận cổ là ai, thuộc nhóm nào.
Với tôi, văn chương có những
vô thức sáng tạo, có con người thuần tuý bên ngoài chính trị. Đó là lý
do tôi
thích GNV, ông cứ lèm bèm những v/đ chính trị, nhưng bên trong ông lại
có một
con người thuần túy của văn chương, rất nhân hậu và cảm động.
Kính,
Một độc giả.
Phúc
đáp:
Rất nhân hậu và cảm động!
Đa tạ, muôn vàn đa tạ.
Kính
GNV
Trần Văn Toàn tại quê hương
Phát Diệm, 2006.
TRẦN VĂN TOÀN: TRIẾT HỌC THÌ DÙNG LÀM GÌ?
Trần
Văn Toàn sinh năm 1931
tại Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình. Bảo vệ cao học về thần học Công giáo
(1954)
và tiến sĩ triết học (1960). Ông từng dạy luận lý học, triết học, lịch
sử khoa
học và thần học Công giáo tại: ĐH Huế và thỉnh giảng ĐH Sài Gòn, Đà Lạt
trong
các năm 1960-1965; ĐH Công giáo Lovanium / Kinshasa/
Congo,
1965-1973; ĐH Công
giáo Lille
(Pháp), 1973-1996. Ông cũng dành thời gian nghiên cứu K.Marx và các
triết gia
vô thần, cũng như nghiên cứu về triết lý và lịch sử khoa học
(philosophie et
histoire et des sciences). Nhân cuốn sách Hành trình vào triết học -
cuốn “hành
trình” đầu tiên do chính người Việt viết (?) - được tái bản sau 44 năm,
chúng
tôi có cuộc trò chuyện với ông, không chỉ về cuốn sách này.
Tại Việt Nam, ông được độc giả quan tâm
nhiều nhất, có lẽ là cuốn sách mỏng Tìm hiểu triết học Karl Marx (Nam
Sơn, Sài
Gòn, 1967) – bởi tính khách quan của nó. Sau hơn 40 năm, đáng lẽ cuốn
này nên
được tái bản đầu tiên, nhưng thực tế thì chưa. Xin hỏi, là người học
bài bản về
thần học, lúc ấy ông viết cuốn này vì lý do gì?
Về vấn
đề tư tưởng, thì năm
1954, sau khi học xong cử nhân triết học ở ĐH Công giáo Louvain (Bỉ),
với
tiểu-luận-văn về một triết gia duy linh, thì đất nước chia đôi, tôi
thấy cần
phải nghiên cứu về K.Marx, để hiểu cho đúng, một là vì miền Bắc đi theo
chủ
nghĩa Marx, hai là vì tôi cũng đã được mấy giáo sư ở Louvain chuyên môn
về Marx
chỉ dẫn cho. Vào thời đó nhóm sinh viên Việt Nam ở Louvain, trong đó có
ông bạn
Lý Chánh Trung, đã có học tập với nhau về tư tưởng của Emmanuel
Mounier, có
khuynh hướng xã hội, dân chủ, nhân bản. Về hai điểm này chúng tôi thấy
gần
Marx. Vẫn biết là ông vô thần, nhưng ở Âu châu người ta đã tách rời tôn
giáo
với chính trị, cho nên tôi không thấy vấn đề là nan giải. Trong khi
soạn luận
văn tiến sĩ, tôi có làm việc ít lâu ở Viện Nghiên cứu xã hội (Institut
fuer
Sozialforschung) tại Frankfurt (Đức).
Từ đó
trở đi tôi vẫn để ý tìm hiểu vấn đề xã hội, đồng thời chú trọng đến vận
mệnh
con người cá nhân, có nhân cách, cần được bảo vệ. Ngoài ra tôi cũng
nghiên cứu
chủ trương vô thần của Marx và của một số triết gia khác, như
Feuerbach,
Nietzsche, v.v.. Dĩ nhiên là vẫn giữ lập
trường phê bình. Có một điều mà ít ai để ý là: chính Marx cũng luôn giữ
lập
trường phê bình như thế, vì phần lớn các bài vở hay sách vở ông viết,
đều lấy
đầu đề là “phê bình”.
Độc giả trẻ
ngày nay chưa có
dịp để đọc lại cuốn sách này quả là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, Hành
trình vào
triết học – thì có những lý thú riêng của nó, bởi tính bao quát, tường
minh và
dễ tiếp cận hơn. Lý do của việc tái bản cuốn sách này thì ông đã viết
trong
“Lời nói đầu”; chỉ xin hỏi, theo ông, những cuốn sách tương tự như thế
này sẽ
giúp ích gì cho những độc giả trẻ thời nay?
Triết học thì dùng làm gì?
Vấn đề không phải là để biết nhiều hệ thống tư tưởng Đông - Tây, vì
giữa các
môn phái có thể có nhiều cái khác nhau và mâu thuẫn nhau. Nhồi sọ như
thế,
ngoài mục đích dạy học, thì có lẽ là vô ích đối với cá nhân, mà còn có
thể sa
vào cái bệnh “ngộ chữ”. Có người rất uyên bác, biết nhiều, viết nhiều,
dạy
nhiều, ví dụ những người đọc hay là soạn tự điển triết học, nhưng khó
mà biết
họ tin cái gì là phải. Cho nên giáo sư triết học chưa chắc đã là triết
gia, mà
triết gia chưa chắc đã là giáo sư triết học. Vấn đề không phải là học
lấy một
giáo điều, hễ có bậc thượng trí anh minh sáng suốt nào lên tiếng thì
mình phải
theo. Vấn đề là xem người xưa suy nghĩ, đặt vấn đề nhân sinh như thế
nào, lý sự
làm sao, để rồi mình suy nghĩ lấy cho mình, lấy cái lý mà xét, mà phê
bình, tự
phê bình, để tìm ra cái phải điều trái. Đó là lối triết lý của người Âu
châu,
đã bắt đầu từ Hy Lạp thời thượng cổ: họ bắt đầu bằng những bài đối
thoại của
Platon, chứ không bắt đầu từ câu “Tử viết”.
Có tính chất “tiếp thị” trực
tiếp hơn một chút, nếu phải nói riêng với độc giả trẻ của cuốn sách
này, ngày
hôm nay, ông sẽ nói như thế nào?
Có
mấy
đề tài đáng được suy
nghĩ: 1) Ngày nay ta học nhiều về khoa học và kỹ thuật: khoa học là để
làm chủ
vũ trụ một cách lý thuyết, kỹ thuật là để làm chủ vũ trụ một cách thiết
thực.
Cho nên một đàng thì cần suy nghĩ về cái bản chất và cái lý sự trong
khoa học,
một đàng thì tìm xem kỹ thuật có ý nghĩa gì đối với con người cá nhân
cũng như
đối với xã hội. 2) Người ta sống là sống trong xã hội. Thầy Khổng dạy
trong
sách Trung dung rằng “nhân (chữ nhân và chữ nhị) giả nhân dã”, nghĩa
là: có
được sống với người khác, và có sống được với người khác, thì mới thành
người.
Cho nên cần suy nghĩ về cuộc sống chung giữa người ta với nhau, về bản
chất của
xã hội và về liên quan giữa cá nhân và xã hội. Đó là vấn đề đạo đức xã
hội, bao
trùm những suy nghĩ về lòng “nhân ái”, và về những định chế công bình.
Con người ta khác con vật là
ở chỗ có văn hóa, mà văn hóa thì căn cứ vào ngôn ngữ. Ngôn ngữ làm cho
ta vượt
ra ngoài cái cá nhân của ta mà thông tin, thông cảm, thông đồng với
người khác.
Nó còn làm cho ta vượt được ra ngoài giây phút hiện tại, để nhớ đến cái
quá khứ
không còn nữa, để nói về những cái bây giờ đang làm cho ta chú ý, và về
cái
tương lai chưa có mà ta đang dự tính. Cho nên thiết tưởng cần suy nghĩ
về tiếng
nói, về các loại lời nói, về các công dụng của nó, và về giới hạn của
nó.
Lý Đợi thực hiện
12/06/2009
*
Cái sự gen đột
biến, biến thành ruồi, tay tổ sư Mác Xít Lukasc đã tiên đoán ra được,
và gọi là
"vật hóa", la réification, nhưng ông đổ tội cho tư bản chủ nghĩa, có
khuynh hướng biến con người thành đồ vật, và chỉ có ý thức giai cấp vô
sản mới
đảm bảo cho con người thoát khỏi sự trù ẻo này.
Nhà xã hội học Joseph Gabel, trong tác phẩm Ngụy Ý Thức, tìm ra
mắc mớ
giữa lý thuyết “ruồi hóa” của Lukacs, và chứng bịnh thần kinh phân
liệt, thì
quả là quá thú vị!
Bếp Lửa trong
Văn Chương
Gấu đọc Lukacs từ
cái hồi mới lớn, chữ Tây ăn đong, vậy mà nhờ làm cho Mẽo, sắm đủ thứ
sách thời
thượng, nào là Mác, nào là hiện sinh, nào là tiểu thuyết mới, chỉ để
trả thù
cái hồi nghèo quá, không có tiền mua sách toán, mà đành phải bỏ ngang
chứng chỉ
Toán Đại Cương, bởi vì ngoài tập cours in ronéo của thầy Monavon ra,
đâu có
biết hình dáng một cái bài tập, một cái bài toán chứng chỉ Toán Đại
Cương nó ra
làm sao!
Cái cours của thầy, hồi đó, là cũng do sinh viên góp tiền in, nhưng
ngoài ra,
sinh viên chẳng hề phải đóng một thứ tiền gì nữa, chế độ học vấn của
Ngụy xem
ra bảnh hơn của nhà nước VC quá nhiều.
Gấu đọc Histoire et conscience de classe, Lịch sử và Ý thức giai cấp,
"tân thánh kinh" của chủ nghĩa CS, là cũng vào những ngày đó. Rồi đọc
cours của Saussure, cũng thời đó! Ngồi Quán Chùa, khoe với ông anh, ông
nói,
mày cho tao mượn đọc thử coi!
Mới đó, mà ông anh cũng đã đi xa được mấy niên rồi.
BHD thì lại càng biền biệt.
Lạ một điều, có vẻ như BHD rất được độc giả Tin Văn quí mến. Đó là phần
thưởng
tuyệt vời Gấu cũng không ngờ, và cũng đành "khiêm tốn" đón nhận, và
thật lòng cảm ơn quí vị xa gần!
Tks all of U.
BHD & Gấu
Ảnh hưởng sâu đậm của Lukacs ở
Gấu là từ
cuốn Lý thuyết tiểu thuyết của ông. Còn ảnh hưởng Mác xít, là
từ Henri
Lefèbvre với cuốn Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử, và
Trần Văn
Toàn, với cuốn Tìm hiểu triết học Marx, mới được tái bản tại
Việt Nam,
[chưa, xin lỗi. NQT]
Lý Đợi phỏng vấn Trần Văn Toàn
Ngô Vương Toại, NQT, Đặng Phú
Phong, Dương Văn Hùng
CHẠM
MẶT TỬ THẦN
Mẩu hồi ký của bạn HXS này, giá
thêm vào
một tí, sau đây, thì cũng thú:
Lần gặp lại NVT, tại Tiểu Sài Gòn, 2005, NVT có kể cho NQT này nghe,
là, khi
nằm trong bệnh viện, Tướng Râu Kẽm có tới thăm, đề nghị phát cho anh
một cái mề
đay Anh Dũng gì gì đó, anh lắc đầu, không nhận, “tớ chưa phải là lính
của Cậu”!
*
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
Từ một điểm khởi đầu
Vì sao vũ trụ lùn và đen?!
Vì sao em lùn và đen?!
Vì sao thơ lùn và đen?!
Mẹ kiếp. Chúng nó bảo là mật ngữ!!!
Happy
Birthday! [16.8.2007]
Chúc đại ca viết càng ngày càng bảnh.
NLV
Tks.
Happy
Birthday To GrandPa
by Jennifer
16.8.07
*
!
Hình trên, Ngô
Vương Toại và Gấu, chụp bữa hôm sau bữa ngồi Cà phê Factory, tại nhà
Phạm Phú
Phong.
Đó là lần đầu tiên Gấu gặp Ngô Vương Toại, nhưng kể như trước đó, đã
nhìn thấy
ông ta rồi!
Đó là lần ông được đám VC biệt động thành hỏi thăm sức khoẻ. Đám này
cướp diễn
đàn của Sinh Viên Văn Khoa, trong một đêm lửa trại, để vinh danh Mặt
Trận Giải
Phóng, vì đúng bữa đó, là sinh nhật của Mặt Trận, hình như vậy. Bạn
Toại, trong
ban tổ chức, hoảng quá, bèn dằng lại cái mi cờ rô, thế là đòm một phát,
thủng
ngay cái thùng nước lèo.
Gấu, làm UPI Radiopho Operator, bèn có việc làm, là gửi bức hình "bạn
ta".
Bữa gặp mặt đó, anh cho biết, thời gian nằm nhà thương, Tướng Râu Kẽm
có vô
thăm, đề nghị gắn huân chương anh hùng quân đội VNCH, anh lắc đầu, nói,
anh
hùng không, mà quân đội VNCH, lại càng không, vì anh chưa bị gọi đi
lính.
Nhật
Ký Tin Văn
Bữa ngồi Cà phê Factory, trong
đám ngồi cùng bàn có tới ba thằng "chạm mặt tử thần”: Ngô Vương Toại,
Bùi Hồng
Sĩ, và Gấu Nhà Văn!
DTQ
Note:
Đập Givral, cũng được.
Nhưng đừng tạc tượng PXA, nhé! (1)
Ui
chao, lại nhớ Brodsky:
Give me another life, and
I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or
simply
sitting
there. Or standing there,
as
furniture in the corner,
in case that life is a
bit
less generous than the former.
Cho tớ
một đời khác, và tớ sẽ
hát
ở Quán Chùa.
Hay giản dị ngồi ở đó.
Hay đứng ở đó, như cái
bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau
không rộng lượng bằng cuộc đời trước....
Cuộc
đời trước, khi còn
Givral, Gấu có vài kỷ niệm, tuy không nhiều bằng Quán Chùa.
Một,
với cô bạn.
Ui chao, lại thèm kể ra, mà lại
tiếc quá!
Cái sự
tiếc quá này, mới đây
thôi, đọc một bài viết của tay Alberto Manguel, Borges si tình, Borges in Love, trong Into Looking-Glass Wood, mới nhận
ra cái lý của nó....
(1)
Nay, quán café Givral đã
"qua đời". Chỉ mong rằng sau này, nơi đây, trước cửa quán café Givral
cũ, sẽ có một bức tượng nhỏ của một người đàn ông mảnh khảnh bên cạnh
một chú
chó berger cao lớn với dòng chữ: "Phạm Xuân Ẩn - nhà tình báo huyền
thoại".
Nguồn
Ui
chao, tới bây giờ Gấu mới
hiểu được tại sao Cao Bồi ở những giây phút cuối cùng đã không làm sao
mà đi được:
ông chỉ sợ đám VC hậu duệ của ông dựng tượng, ở ngay cái nơi ông được
phong tướng,
và người qua kẻ lại chỉ vào tượng mà.... thì thầm:
-Tướng Givral không còn
Givral!
Hay:
-Kẻ làm mất Sài Gòn!
1.
Căn
phòng của René Berval,
đường Catinat, nơi có căn phòng được sử dụng cho Fowler và Phượng,
trong Người
Mỹ Trầm Lặng
2. Granger ở ngoài đời, Larry Alllen, ký giả Mẽo, nguyên mẫu của nhân
vật
Granger, trong truyện.
3. Greene & Le Roy & nhân vật Q.A. Q.A, theo Norman Sherry, tên
thực là
Leo Hochstetter, ở Bến Tre.
4. Phượng và René Berval.
Cú
này, theo Greene, là kiệt
tác của Trình Minh Thế
When Greene interviewed
President Diem, he asked him
why he had allowed The to return when he was responsible for killing so
many of
his own people. Greene recalled that Diem burst into peals of laughter
and
said: 'Peut-etre, peut-être'!
The
manager of the Majestic,
who was also the owner, was a Corsican called Mathieu Franchini. He was
very
influential in Saigon, and had
married into a
Vietnamese family. Franchini was a 'fixer' and must have been a source
of
information for Greene. Greene's diaries prove that they often drank
together
at both the Continental
Palace
and the Majestic.
In a sense Greene had no luck
with the original for 'Phuong'; for one thing he met her on the last
full day
of his first visit to Saigon. On
Sunday, 4
February 1951 he was very tired and missed Mass. He had coffee with
Elaine,
'wife of absent journalist' (who was to become Hugh Greene's wife), met
the
Toppings, had dry martinis with them and took them to lunch at the
Vieux
Moulin. After a siesta, he went to 'terrible reception by Alliance
Francaise'.
'Anna, the ugly Chinese journalist', he writes in his journal, 'had
brought her
beautiful sister, but hemmed in with Lycée teachers.’ This
sister became Phuong in The
Quiet
American.
Norman Sherry: The Life of
Graham Greene
Volume 2: 1939-1955
Vợ chồng GNV tới thành phố Toronto
đúng vào
mùa lạnh
năm 1994.
Và cái chuyến đi ra khỏi thành phố đầu tiên, là để đến Montreal, gặp
Nguyễn Đông Ngạc, nhưng chủ yếu, là để nhận 500 đô Mẽo, của Sĩ Phú để
lại cho,
sau chuyến ghé thành phố cho một show ca nhạc, mấy ngày trước đó. Trong
phôn,
anh nói, tụi mày qua sớm, khi tao còn business, thì khá hơn.
Đó là món tiền lớn nhất từ bạn
bè, những ngày mới qua xứ người.
Lần đó, vợ chồng cô bạn chở đi.
Gặp Nguyễn Đông Ngạc, và một
số bạn văn qua anh.
Chuyện đời nhiều khi thật lạ.
Người lo lắng nhiều nhất cho vợ chồng GNV, là Nguyễn Đông Ngạc, khi tụi
này còn
ở trại tị nạn Thái Lan. Nhưng, cái chuyện có được địa chỉ của anh, thì
thật là
một tình cờ của định mệnh!
Gấu
đã kể là, cái thư đầu tiên,
Gấu nhận được từ bạn văn, là của một nữ văn sĩ nổi tiếng lắm trước
1975. Bà viết
thư, còn trách móc, qua trễ quá, hết mùa vượt biển rồi, và kèm thư của
bà, là cái
thư của nhà văn chủ tịch Văn Bút Mít, gửi cho bà, trong đó viết, bà
biểu tôi lo
cho một nhà văn gì gì đó, ở trại mà lại không cho tôi địa chỉ của ông
ta, thì làm
sao tôi lo.
Không
có tiền gì hết. Ý bà
là,
tao cho mi cái địa chỉ nhà văn chủ tịch PEN Mít, rồi tùy mày liên lạc
với ông
ta, nhé.
Món
tiền đầu tiên nhận được
từ
bạn bè, là của một ông bạn quí, cất công đi từ Mẽo qua trại, là 300
bath, bằng
10 đô Mẽo, so với món tiền của Sĩ Phú mới xa vời làm sao.
Viết
như thế, để thấy tấm
lòng
của ông bạn Sĩ Phú của GNV!
Trại
Sikiew. Thái Lan
*
Note:
Cuốn của Nabokov, Gấu, mới qua đây, là đã tậu rồi, khi bắt đầu đi bán
bảo hiểm.
Rồi
dọn nhà, làm
mất [thì cứ nói vậy cho nó tiện việc sổ sách].
Cuốn
Kindle, là do Jennifer Trần
mê quá, năn nỉ ông ngoại hoài.
Cháu
bắt ông ngoại phải cám ơn, trên TV.
Thank
U. NQT
Happy
Birthday to Mom
13.4.2010
Richie
Hiếu & Jennifer
Thảo
Xì Lô,
cô Út sinh ngày 13
tháng 4 năm 1975. Sau này những lúc gia đình quá khổ sở, bố mẹ cô vẫn
thường
than thở, phải chi không có cô chắc là gia đình đã đi Mỹ từ những ngày
tháng Tư
năm đó rồi.
Trước
Tháng Tư 1975, ngoài
công việc của một công chức, bố còn làm thêm cho một hãng thông tấn
nước ngoài.
Khi hiệp định Paris chấm dứt chiến
tranh Việt Nam
được ký
kết, bố thôi làm cho họ, tính bỏ Sài-gòn đưa gia đình về một tỉnh lỵ.
Nhưng
biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29 tháng
4 bố
không còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người
sếp cũ,
lúc này làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản.
Lúc đó cơ
quan DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có
thể đi
bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được
thôi. Bố
không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc
Việt đang
chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người
dân
Sài-gòn. Chết một đống còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua cho
biết,
ngày xưa bà Nội đã nói với Bá như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào Nam,
nhưng Bá
không đi vì còn mê phong trào. Bố đã ở lại.
Phải chi ngày đó bố chạy theo người
Mỹ, gia đình mình đã không gặp những cảnh ngộ đói khổ, tủi nhục như hầu
hết
những gia đình Miền Nam
khi Cộng Sản Bắc Việt thắng trận.
Nhưng chính những ngày tháng sống dưới chế độ
Cộng Sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ mà gia đình mình đã trải
qua
khiến bố mẹ hiểu nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở nước người nhiều khi
phải trả
một giá quá đắt. Chắc chắn một điều, con không thể quên tiếng Việt. Đó
là khí
giới hữu hiệu nhất để chống lại sự tha hóa mà đôi khi người ta lầm lẫn
là hội
nhập. Và để chống lại sự cô đơn, niềm lãng quên, và tuyệt vọng.
Tự
Truyện
"Tay này không học bơi, theo chiều, hay nguợc
chiều dòng nước"
Hannah Arendt
Trong
bài viết về ông, trên tờ
Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín, 2009, có một chi tiết sai: ông
mất ở Port-Bou,
thuộc Tây Ban Nha, không phải Pháp.
Những
Kỳ Tích về Walter Benjamin
"To great writers, finished
works weigh lighter than those
fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với
những
mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)
Ui
chao, câu
trên mà đề tặng
Gấu Nhà Văn thì thật là tuyệt:
Bài viết nào cũng nhếch nhác, chẳng bài nào hoàn tất, chẳng biết khúc
nào
Gấu viết, khúc nào Gấu chôm chĩa!
Vẫn thua giấc đại mộng của Benjamin: Viết một đại tác phẩm, toàn trích
đoạn, chôm của kẻ khác!
*
Cuốn
sách "Thương
Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu tàn, thất bại, một
dự
án bất khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới, để viết về
một nền
văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ phẩm
của cái
nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu
gọi của
Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch
sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành tựu của những
kẻ thắng:
lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà việc viết sử
bắt đầu
nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.
Thời Tập
5.5.1974
Gấu Nhà Văn đọc Tắt Lửa Lòng
Tks
NQT
*
Một bạn
văn ở trong nước gửi cho Tin Văn.
Đọc bài
viết của Gấu Nhà Văn, về Tắt Lửa Lòng, mà sững sờ!
Hồi đó, quả là Gấu
có đọc sách, thật.
Bây giờ, đọc toàn ba cái làm xàm trên net!
Văn hoá đại chúng, cuộc khởi nghĩa của đám đông: Kít!
Thiêng thật. Vừa
nhắc tới TT, là xuất hiện liền!
Ui
chao, sếp, ông chủ chi địa
của Gấu, nhà văn NMG, lúc đó còn là nhà văn trẻ!
HNT ở đây, là tác giả Thư Từ Đường Sơn
Cúc, Hình như là tình yêu, mới mất. Không phải nhà biên khảo lừng
danh, tức
HN, tức NTH, tức, tức... ở hải ngoại!
Đám hủi này, cần chửi ai, là chúng phịa ra một cái tên lạ hoắc, cần
thổi lẫn
nhau, lại phịa tên.
Gấu này “ngây thơ”, mắc hỡm hoài, chán thật!
*
Ui chao, sắp đi rồi, được đọc
bài viết từ hồi nảo hồi nào, mới ngộ ra là, BHD bỏ anh cu Gấu, thì cũng
giống
như Lan bỏ Điệp:
Mi đầy sân si, mê ba cái danh
hão, nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, chẳng xứng với ta! (1)
(1)
Bây
giờ đọc TV chán rồi,
N. không thích style
chửi nhau, hạ nhục nhau, mắc gì phải
phanh phui… cứ thấy ai viết “hớ” là chửi liền, làm dơ trang viết nhiều
lắm.
Mình nói người ta chợ cá Đồng Xuân mà mình thì chợ Đông Ba. Bỏ mục Dọn đi. Đúng
là style thích gây chiến của đàn ông.
Chán khi đọc xong một bài về
abc thì bị đọc thêm một câu: Ấy, cái bọn abc ngày xưa không hiểu gì về
cái này
hết…
Văn là người, một người thích
chửi, thích vạch lá thì ai dám đến gần, Bông hồng đen hồng đỏ có sống
lại cũng
không dám đến gần
Đã qua cái thời ngây thơ hàng me, bây giờ chỉ còn cái tâm mà
tâm chửi dù cho chửi người đáng chửi thì ai dám đến gần.
Độc giả TV
*
Đa tạ. NQT
|