*



1
2

Lolita by Vargas Llosa

Lolita vs BHD

Âm nhạc của trái cầu

Ghi 1/chet_vi_tinh.html










Lolita vs BHD

*

Em Alice ở ngoài đời, của Lewis Carroll

Alice hay là tuổi thơ muôn đời: Sức mạnh trinh nguyên và lật đổ [La force pure et subversive]. Pure, như Người Đẹp Bay Lên Trời của Garcia Marquez. Nhưng đúng vào lúc bạn nhìn em mà con heo của bạn xổng chuồng, là bạn ngỏm!
Le Monde Dossiers & Documents. Culture- Alice, no # 424, Nov 2012

*

Divine levity: Khinh suất thánh

Tiếng tăm của Na Bô Kộp thì cao vời vợi, và còn cao hơn nữa, và sẽ còn nhiều tác phẩm sắp ra lò viết về ông.
Martin Amis phán.

Trước mắt, thì có Lolita của Mít, và bài viết của NL, và trang web của Nhã Nam, và Mr. TV nữa chứ!
Nhưng người đầu tiên dịch Nabokov, là TTT, sau khi ra tù VC, nghe nói, do đói quá!

*

Trong bài viết về Nabokov, “Cruelty, Beauty, and Time on Nabokov’s Ada and Lolita, Độc, Đẹp và Thời gian trong tác phẩm Ada Lolita", Pamuk biện minh cho cái ác của Na bô cộp
[Chưa thấy ai biện minh cho cái ác của Sến, và đám nhà văn VC Bắc Kít, ngoài GCC ra !!!]:

Để hiểu cái ác và cái đẹp của nó, của Nabokov, chúng ta phải nhớ là đời tàn bạo với ông ra sao. Sinh ra trong 1 gia đình trưởng giả, quí tộc Nga, ông bị chúng xung công hết sau cú cách mạng Bòn xề vịt thành công. (Sau này, ông phán, ông đếch thèm để ý đến chuyện vặt này!)

Ui chao, chính đây là nỗi đau lớn của Người.

Y chang anh chàng VC nằm vùng NBC của trung tâm WJC, chuyên mời VC qua Mẽo lãnh tiền, viết về Mít lưu vong!
Anh ta than thở, phải bỏ tiền ra hối lộ đám VNCH mới được đi du học Mẽo, trốn thoát cuộc chiến, và suốt đời thù Mẽo, mê VC!
Ông bạn văn của Gấu, xin không được nêu tên, suốt đời thù VNCH, vì trốn lính, bị bắt, bị đưa đi lao công chiến trường, và mê VC!
Nhà thơ NS, suốt đời thù VC, vì tịch thu mẹ mất cái trường to đùng của ông, như 1 lần trả lời phỏng vấn.
Nhìn ở 1 mặt khác, thì chính đó là nỗi đau của họ, khi không biết đến cái khổ, cái nhục, cái đói, khi sống với VC sau 1975!
Cũng thế với Nabokov.
Cũng thế đối với đám bỏ chạy bợ đít VC, cả ở Bắc cũng như ở Nam Kít.

Nabokov chê Camus, chê Faulkner, viết văn không bằng ông, nhưng chính đấy là nỗi đau của Nabokov: Đếch biết nỗi khổ đau của con người.

Văn TTT cũng có chất hung bạo, độc ác, mà Gấu coi như là biểu hiện của cái gọi là chất đực, virility, ở nơi ông: Bạn còn nhớ, 1 nhân vật của ông quần 1 em tơi bời hoa lá, rồi buông 1 câu, "em biết tay anh chưa"!
Cái cảnh trong Người Gác Cổng mới ghê: Anh già bị thằng bồ của đứa con gái tẩn cho một trận vì thèm con bé quá, và trước khi bỏ đi, thằng bồ thét đứa con gái, cởi cái xú chiêng ra, ném vào mặt thằng già, cho nó tí ân huệ!

Thằng bồ nhặt một thanh sắt cầm tay đứng giữa sân rình rập. Con nhỏ lắng tai thấy tiếng giầy im lặng, bất thình lình nó xô lão Chà vùng dậy, nhảy xuống đất, ngã chúi va đầu vào tường và la lên:
- Anh ơi.
Nó hốt hoảng chạy vội ra giữa sân ôm lấy thằng bồ. Thằng này hỏi:
- Nó đâu?
Con nhỏ chỉ tay về phía xe hơi nhưng níu tay thằng này lại, lắp bắp trong hơi thở:
- Không có gì hết, chưa có chuyện gì hết.
Thằng này dằng tay ra xăm xăm bước tới, con nhỏ chạy theo níu kéo không được. Lão Chà vịn vào thành xe nhẩy xuống, té và đống dầu nhớt, thằng nhỏ cầm thanh sắt đập liên hồi, con nhỏ bưng mặt khóc. Thấy lão Chà chỉ còn thoi thóp, nó bảo con nhỏ cùng nó khiêng xác lão Chà để lên thùng xe. Con nhỏ thút thít nói:
- Thôi chạy đi anh ơi.
Nó quắc mắt dữ tợn bảo:
- Đừng lôi thôi.
Đặt lão Chà vào đúng chỗ nằm lúc trước của con nhỏ, nó đập bể ve dầu thơm ở bên cạnh, lột hết quần áo của lão liệng vào góc.
- Anh làm gì vậy?
Nó không đáp và truyền lệnh:
- Cởi cái xú chiêng liệng vào đống quần áo đó.
Con nhỏ còn ngần ngừ, nó bật tung nút áo và nắm tay dật đứt cái bao vú liệng vô đống đồ của lão Chà. Vừa lúc ấy lão Chà hồi tỉnh một vài giây, ngửi thấy mình nằm trên dầu thơm, thân thể trần truồng và con nhỏ đang nhìn xuống, ngực nó không cài trắng muốt. Rồi tiếng thanh sắt liệng xuống thành xi măng...

Nói một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền đất.
Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux...
Một Thanh Tâm Tuyền "khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động...
Nguyễn Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau.
Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão!
Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái....
Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những con người đứng bên lề...



*

Vladimir Nabokov

Một trong những quái gở trở thành nhà văn là, để làm được như thế, bạn phải đau khổ về 1 tuổi thơ bất hạnh.
Đôi khi, trường hợp ngược lại xẩy ra. Như là 1 bằng chứng, là cái hình Vladimir Nabokov, khi đó 8 tuổi. Thằng bé ngồi ở dưới cái cổng ở Vyra, căn nhà mùa hè của gia đình, đang “nghiên cứu” một cuốn sách về bướm, chân đi đôi vớ tắt thở!
Nhìn là biết liền, thằng bé con nhà giàu. Một gia đình trưởng giả, quí tộc, có 1 ông bố, một bà quản gia, là một bà đầm. Vào năm 1917, Cách Mạng chấm dứt tất cả. Thằng bé mà bạn nhìn thấy trong tấm hình còn không còn hiện hữu.
Mà thực thế không, nó hết còn hiện hữu?

Sau này, khi bắt đầu viết ở xứ người, lưu vong, Nabokov quần thảo tơi bời cái thế giới của bức hình để moi ra giả tưởng của mình. Tuy nhiên, ông không viết “về” một nước Nga đã mất, nhưng mà là, mầy mò, sờ xoạng, nhâm nhi, hít ngửi, "giữ liên lạc", “keeping contact” với những mùi vị của cuộc đời mà ông đã được hưởng thụ, khi còn là 1 đứa bé. Thật sớm sủa, ông đã khám phá ra, ông có tài, [như Đoàn Dự ngửi mùi đàn bà, con gái] “synesthetic”, như bà mẹ của ông. Với ông, màu xanh có mùi vị. Cái tài “tai nghe âm thanh, mũi ngửi ra mùi vị”, hay “nhìn màu ra mùi” này đánh dấu sự phát triển trí thức và thẩm mỹ của ông.
Và, như 1 người đàn ông, ông sửa soạn ngồi vào bàn, và viết, với thái độ, dáng vẻ của thằng bé ở trong hình: ngồi 1 cách rất ư là vương giả, th
ật hách dịch, thật quyền uy , để nghiên cứu, xem xét, và để mổ xẻ, giải phẫu sáng tạo. Cái ghế bằng liễu gai, phong nhã, lịch lãm, chồi bông nơi cửa sổ, căn nhà mùa hạ thần sầu, chính nó - ba cái lẻ tẻ nhưng cũng thật là cần thiết “đưa anh vào mộng”. Bởi thế văn xuôi của ông, thì đầy cái gọi là “xì tai”, thơm phức [mùi... Lolita], chưa kể mùi tự thuật.

Pamuk coi “Hãy nói đi hồi ức”, bảnh nhất về văn phong của Nabokov. Gấu cũng chỉ đọc được hai cuốn của ông, là Lolita,Speak, Memory
Thú thực, Gấu không thấy 1 tí nào, của Nabokov và Kafka ở trong Sến, văn cũng như đời!

Đọc, rồi…  liên tưởng, và Gấu bèn ngộ ra 1 hành vi, cử chỉ, tưởng rất ư là tình cờ, khi bỏ chạy quê hương Miền Nam, "nhà văn nhớn" Gấu Cà Chớn, thay vì quơ vội cái áo thung, ông bạn quí ban cho, những ngày viết muớn, ghiền xì ke, ở bên ngoài vỉa hè Bưu Điện, Sài Gòn, thì là cuốn Lolita, bản tiếng Tây.

1989. Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc "Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
 Ghi chú trong ngày

Tạp văn (1)

Nabokov có 1 từ để gọi thứ văn chương tạp ghi của Mít, là “poshlost”, theo nghĩa “ăn cắp của ăn cắp”, imitations of imitations. Tuy nhiên nghĩa của từ này rộng hơn nhiều, như ông giải thích, khi trả lời tờ The Paris Review. TV post lại ở đây, rồi nhẩn nha bàn tiếp.

Nabokov vốn, vừa bạo miệng, vừa phách lối. Với ông, những tác giả được chấp nhận [accepted authors] chẳng có nghĩa gì: Tên của họ được khắc trên những cái mả rỗng, sách của họ toàn đồ bá láp… Brecht, Faulkner, Camus và nhiều người khác tuyệt đối chẳng là gì đối với tôi.

Tuy nhiên, câu trả lời sau đây, thì thành thật. Khi được hỏi, ngoài chuyện viết ra, ông làm gì, hay thích làm gì, ông phán:
-Ô, săn bướm, lẽ dĩ nhiên, và nghiên cứu bướm. Những lạc thú và phần thưởng nhờ cảm xúc văn chương, chẳng là gì hết so với khám phá ra 1 loài bướm lạ, và ngắm nó dưới ống kính… Giả như không xẩy ra cách mạng ở Nga, thì tôi đã dâng hết đời mình cho “lepidopteroloy” [ngành nghiên cứu bướm và  bướm đêm, moth] và chẳng thèm viết một cuốn tiểu thuyết nào hết.

Những nhận xét của Nabokov về cuốn tiểu thuyết “Dr. Zhivago” của Pasternak, cho thấy, ông không cảm được nỗi đau của người khác, và phần nào, đây là nỗi thua thiệt của ông, do “con nhà giàu” mà ra.
*

One of the fallacies about becoming a writer is that, in order to do so, you have to suffer an unhappy childhood. Sometimes, the opposite is the case. As evidence, we have this photograph of Vladimir Nabokov, age eight. He sits on the porch at Vyra, the Nabokov summer home, studying a butterfly book and wearing a breathtaking pair of socks. As you can see, Vladimir was a rich kid. He came from an aristocratic family, had a father and a French governess. In 1917, the Russian Revolution ended all that. The boy you see here ceased to exist.
Or did he? Later, when he began to write in exile, Nabokov would draw again and again on the world of this photograph to derive his fiction. He would do so, however, not by writing about his lost Russia but by keeping in touch with the qualities of existence his childhood there had acquainted him with. Early on, Vladimir had discovered that he was synesthetic like his mother. For him, the color blue had a taste. Such doublings of consciousness marked his intellectual and aesthetic development. As a man, he set upon his writing with the attitude of the boy in this photograph: magisterially seated to peruse and dissect creation. The elegant wicker chair, the sprig of blossom in the windowsill, the fanciful summerhouse itself, these things accompanied the waking of Vladimir's sentient mind. Thereafter, his prose was full of their style and fragrance, if not their autobiographical presence.
All of Nabokov's novels reenact the discovery that the color blue has a taste.
Vladimir here is almost Lolita's age. His  connoisseur's eye and screened pelvis foretell Humbert Humbert. This was before exile, before Nabokov's own father was shot and killed- tragedies Vladimir would write about, for the most part, obliquely, preferring to make his books like the one here in his lap: a collection of shimmering creatures, delicately pinned, each, in its journey from worm to butterfly, demonstrating the extravagant imagination of nature.

-Jeffrey Eugenides (1)

Một trong những quái đản về chuyện trở thành nhà văn, là phải có 1 tuổi thơ khốn nạn.
Trường hợp Nabokov là 1 bằng chứng ngược chân lý cà chớn này.
Tớ là thằng bé có 1 tuổi thơ hạnh phúc nhất, không thể nào tưởng tượng ra được.

Gấu được đọc hai bài viết về cuốn “Dr Zhivago” thần sầu, một của Milosz, đã giới thiệu lai rai trên TV. Một của “Italồ Canvìnồ” [Italo Calvino], trong “Tại sao đọc những nhà văn/tác phẩm cổ điển”, cũng thật trứ danh. Sẽ lèm bèm về nó trên TV


Lại nói thêm về sư phụ của Sến, Nabokov.

TTT cũng mê Nabokov, và đã từng dịch Nabokov, bằng 1 cái tên khác, để kiếm sống, sau 1975.
Nhân vật Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, cũng có 1 cõi riêng, với cô Oanh, cô Hiền, y chang Nabokov, để cả thực tại vào trong ngoặc, bà vợ sau cùng khám phá ra sự thực thê thảm, không phải là thằng chồng ngoại tình, mà là, nó đếch coi mình có mặt ở trên cõi đời này:

Thùy ngồi ngả trong ghế. Ở đi văng xa, Kiệt đang xỏ giầy. Nàng nhếch mép khinh bạc. Kiệt trừng trừng, hung hãn, xong cúi buộc giây giầy. Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách thức. Hắn thở phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động khuôn mặt ngẩn ngơ. Phút ấy Thùy tỉnh ngộ dưới mắt Kiệt nàng không là gì. Hắn cười trong cõi riêng. Từ bao giờ hắn vẫn sống trong cõi riêng, với nàng bên cạnh. (1)

Cả 1 thế giới tiểu thuyết của Nabokov là 1 cõi riêng, the lost domain, chữ của Fowles, đệ tử của Alain Fournier, tác giả Anh Môn. Lolita thì cũng 1 cõi riêng, của những gã già mê con nít, không phải con nít, mà là nymphet, đàn bà-con nít.

BHD của anh cu Gấu cũng 1 thứ đàn bà-con nít, ngay từ nhỏ, đã già hơn Gấu rất nhiều, đã nhìn ra thằng cha Gấu chỉ mê đứa con nít ở trong em, thay vì mê 1 đứa con gái bình thường!
Và cùng đứa con nít, là Hà Nội của nó!
Mi đâu có thương yêu gì ta, mi mết 1 đứa con nít, 11 tuổi, là ta, từ hồi nảo hồi nào, và Hà Nội của mi ở trong đứa con nít đó.

Hà, hà!

Nhưng phải là Varga Llosa mới nhận ra Nabokov và cô bé Lolita của ông:

Lolita Thirty Years On

Một tác phẩm văn học lớn luôn gây những cách đọc đập lộn lẫn nhau; nó là cái hộp Pandora, trong đó, mỗi độc giả khám phá ra những nghĩa, những ngụ ý, sắc thái, và ngay cả những câu chuyện khác nhau. Lolita hớp hồn những độc giả phiến diện nhất, cùng lúc, làm mê mẩn những độc giả khó tính nhất, qua cơn lũ của những ý tưởng, ám dụ, ẩn ý, và tính phong nhã, sành điệu của văn phong; những độc giả khó tính, đòi sự tuyệt đối của cái đọc, những kẻ đến với cuốn sách với cái hất hàm, nè, liệu mi có làm nổi 1 việc làm thật dễ dàng đối với mi, nếu là một tuyệt tác: Hãy làm cho ta kinh ngạc!, như 1 anh chàng trẻ tuổi đã đòi hỏi ở tác phẩm của Cocteau.

Varga Llosa 

Nhưng chỉ đến sau 1958, khi ấn bản ỡ Mẽo ra lò, cùng với cỡ trên chục ấn bản khác, trên toàn thế giới, thì cánh bướm của em nhí Lô mới tỏa rộng ôm choàng lên quá cả con số những độc giả của cuốn sách. Trong khoảng một thời gian ngắn, cái từ mới “Lolita”, vẫn như 1 cánh bướm [hai mới đúng chứ nhỉ], mở ra một khái niệm mới: người đàn bà-con nít, được giải phóng mà không cần nhận ra, một biểu tượng vô thức của cuộc cách mạng đã xẩy ra trong xã hội đương thời. Tới một chừng mực nào đó, thì Lolita chính là cái mốc lịch sử đó, cái cột cây số đó, milestone, và là một trong những nguyên nhân của một thời đại dễ dãi, khoan dung cho cái bướm, thằng cu, con hĩm, sexual tolerance, thách đố, coi như pha, những cấm kỵ, của tầng lớp thanh thiếu niên tại Mẽo, và Tây Âu, và trào lưu này lên đến đỉnh cao vào thập niên 1960.
Nàng “nymphet” không ra đời với nhân vật của Nabokov. Nàng có, hẳn nhiên, chẳng chút nghi ngờ, ở trong những giấc mơ của những tên “dâm loàn, đồi bại” [chữ của TTT, trong Một Chủ Nhật Khác, đúng ra, chữ của bà vợ Trung Uý Kiệt, chửi...  Cô Hiền, người đàn bà chỉ có thể làm tình nhân, không thể làm vợ], và ở trong sự mù lòa và những xao xuyến run rẩy của những cô gái ngây thơ, và sự thay đổi khí hậu đang bắt đầu đem đến cho nó sự tin cậy. Nhưng, nhờ cuốn tiểu thuyết, nó mang một cái dáng riêng, rũ khỏi sự hiện hữu giấu diếm nóng nẩy, bồn chồn của nó, và thâu đoạt chùm chìa khoá của thành phố. Điều lạ thường, là, cuốn tiểu thuyết của Nabokov đã gây ra cơn cuồng phong, địa chấn, ồn ào, náo nhiệt đó, thấm vào, ảnh hưởng tới, cách cư xử, thái độ, sự nhạy cảm của hàng triệu triệu con người, và trở thành một phần của huyền thoại học hiện đại.
Bởi vì thật khó mà tưởng tượng, một ông nhà văn Nga, lưu vong, chuyên mê bướm [bướm thiệt nhe], như là Nabokov, một nhà văn trong số những nhà văn của thế kỷ, chẳng bao giờ thèm để ý đến những vấn nạn, những giải pháp phổ thông, đương thời, lại tạo ra cơn địa chấn đó, một nhà văn đếch thèm để ý đến, ngay cả cái gọi là thực tại: thực tại là cái chó gì, như ông ta viết, nếu nó không được đặt ở trong mấy cái ngoặc kép.

Vargas Llosa

Lolita vs BHD

We never grow up - only older, then old-
Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già.

In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.

Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga.... 

Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành, cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?

Hà, hà!