Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975 công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư
năm
1994
Canada
I
1
|
Album |
Thơ | Tưởng Niệm
| Nội cỏ của thiên đường | Sáng tác | Chuyện văn|
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác |
Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường| Lý thuyết phê bình
| Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi |
Text Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín |
Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn|
Giai thoại | Potin | Linh tinh
| Thống kê | Viết ngắn |
Tiểu thuyết
| Lướt Tin
Văn Cũ
| Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết| Chân Dung | Jennifer
Video
Thơ
Mỗi Ngày|Viết
mỗi ngày| Sách
& Báo
Mới
Bướm Vạn Tượng ngày nào của GCC
Trời ơi, sao bác miệt thị người
Bắc dữ vậy, bác thù tới tận xương tủy, bác làm
tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách Sáng Thế (Cựu Ước)
ông Abraham mặc cả với Chúa, nếu tìm ra được một
người tốt trong thành phố Sodome-Gomorrhe thì xin Chúa
tha cho thành phố khỏi bị hủy – nhưng không tìm
ra được một ai... nên thành phố phải bị hủy.
Bác «lãng mạn» quá,
cứ mong chờ có một cú ngoạn mục của các nhân
tài.
Mong bác sức khỏe sống lâu để chờ ngày
đó.
Tks
Bà bạn của Cô Dung của Gấu, cũng me Tây,
có hai ông Tây là chồng, ở với mỗi ông
nửa tháng. 1954, chắc cũng được 1 trong hai ông bảo
lãnh, qua Tây. Nhớ, có 1 lần bà cô
viết thư, kể, hai bà đi shopping, bà cô của Gấu,
tay quặt sau lưng, có tí tiền, có ai đó gỡ
tay bà, lấy tiền, tưởng là bạn mình, hóa
ra không phải.
Đọc thư, Gấu thú thực, quá phục cái
tay “ăn trộm” cực bảnh đó.
Khi Gấu đậu cái bằng Trung học đệ nhất cấp, bà
mừng quá, viết thư về, ra lệnh, học tiếp. Thế là Gấu
có quãng đời, là 1 tên học trò thực
thụ, trọ học bên Thủ Thiêm, nhờ thế quen bạn Hàm.
Tháng tháng tới nhà 1 người bà con của người
bạn của bà cô, lấy tiền đóng tiền ăn, tiền học.
Cả hai bà me Tây chắc là có
ý muốn Gấu làm rể nhà này, vì có
lần Gấu nhìn thấy 1 cô gái đi lại trong nhà.
Nhưng rõ ràng là cái quá
khứ me Tây của bà bạn của cô Gấu làm hỏng
cái sự gán ghép đó. Bởi là vì,
cái gia đình đó rất ư là bực mình,
1 lần Gấu đến lấy tiền, chắc là sau khi rõ ý
định của bà me Tây bà con của họ.
Họ tởm Gấu như tởm bà me Tây của gia đình
họ, y chang dòng họ Gấu tởm bà cô của Gấu.
Lẽ tất nhiên, họ đều không tởm tiền của những
me Tây như vậy.
Những chuyện như thế, ở cái xứ Bắc Kít,
bây giờ vẫn xẩy ra. Bữa trước Gấu đọc trên net, 1 câu
chuyện tương tự.
Câu chuyện 1 em Bắc Kít vướng vụ điệp viên
cái con mẹ gì đó, chắc cũng xêm xêm!
Suốt thời gian trung học, Gấu cố học tiếng Tây,
chỉ để viết được 1 cái thư bằng tiếng Tây, cám
ơn ông Tây già, chồng của bà cô của
Gấu. Đó là ước mơ học ngoại ngữ đầu tiên của GCC.
Nhớ, lần bà cô viết thư, kể lại, cái
thư của mày, tao cũng đọc được, hiểu được.
Ôi sung sướng làm sao!
Bà cô của Gấu mù chữ. Khi biết mình
sẽ theo chồng về "mẫu quốc", bà muớn 1 ông dậy bà
tiếng Mít. Những thư đầu của bà, chữ nào chữ
nấy, như 1 con gà tồ!
SLEEP
The night assigns us its magic
task. To unravel the universe,
the infinite ramifications
of effects and causes, all lost
in that bottomless vertigo, time.
Tonight the night wants you to forget
your name, your elders and your blood,
every human word and every tear,
what you would have learned from staying awake,
the illusory point of the geometricians,
the line, the plane, the cube, the pyramid,
the cylinder, the sphere, the sea, the waves,
your cheek on the pillow, the coolness
of the fresh sheet, gardens,
empires, the Caesars and Shakespeare
and the hardest thing of all, what you love.
Oddly enough, a pill can
erase the cosmos and erect chaos.
-S.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
Ngủ
Đêm trao chúng ta sứ mệnh
thần kỳ,
Hãy làm sáng tỏ vũ trụ,
Những nhánh nhiếc vô cùng tận
Của những hậu quả & nguyên nhân
Tất cả tiêu táng thòng
Trong cơn choáng, sâu thật sâu, kể như
không đáy, là,
Thời gian.
Tối nay, đêm muốn mi quên
Tên của mi
Hơi bị nhiều đấy nhé!
Có mấy tên NQT, như đã có lần Thầy
Kuốc hất hàm hỏi,
Rồi GNV mà có lần Gấu Cái rất ư là
bực mình, thằng này là thằng nào?
Nhưng Sad Seagull thì lại gật gù,
Ta ưng cái nick này, thay vì mi!
Rồi, Hai Lúa, Jennifer Trần, Tuấn Anh –cái tên
này, một lần khi còn Xề Gòn, Gấu Cái giận
điên lên, xé luôn tờ Vấn Đề, vì là
tên của cô bạn, cô phù dâu ngày
nào, và tên thằng cu lớn, được ghép lại –
Rồi “Kẻ Đúp” nữa chứ?
Cái xác của mi, trong 1 lần tắm sông Mê
Kông,
Tò mò tự hỏi, không biết xác của
ai
Cứ như Đường Tam Tạng trên đường thỉnh kinh!
Thời gian chờ qua sông
Vô Trại Tị Nạn
Những vị trưởng thượng của mi
Máu của mi, thứ máu Bắc Kít cực kỳ khốn
nạn, hà, hà!
Mọi từ của con người, và mọi giọt nước mắt,
Điều mà mi học được khi tỉnh thức,
Cái điểm hàm hồ của những nhà hình
học
Tuyến đường, máy bay, hình lập phương, hình
kim tự tháp
Hình ống, hình tròn, biển, sóng
Má của mi thì ở bên trên cái
gối
Cái mát lạnh của tấm trải giuờng,
Những mảnh vườn
Những đế quốc, những Xê Da và Shakespeare
Và điều căng nhất, hắc ám nhất cũng được, cái
- người, cũng được - mà mi yêu
Tếu cực tếu, là,
Chỉ 1 viên thuốc
Là xóa sạch vũ trụ
Và dựng dậy hỗn mang.
SOMEONE
WILL DREAM
What will the indecipherable future dream?
A dream that Alonso Quijano can be Don Quixote without leaving his village
and his books. A dream that the eve of Ulysses can be more prodigious
than the poem that recounts his hardships. Dreaming human generations
that will not recognize the name of Ulysses. Dreaming dreams more precise
than today's wakefulness. A dream that we will be able to do miracles
and that we won't do them, because it will be more real to imagine them.
Dreaming worlds so intense that the voice of one bird could kill you. Dreaming
that to forget and to remember can be voluntary actions, not aggressions
or gifts of chance. A dream that we shall see with our whole body, as Milton
wished from the shadow of those tender orbs, his eyes. Dreaming a world
without machines and without that afflicted machine, the body. Life is
not a dream, Novalis writes, but can become a dream.
-S.J.L
J.L. Borges: Poems of the Night
Gấu sắp mơ
Cái tương lai đếch làm sao giải mã được sẽ
mơ cái gì?
Một giấc mơ mà thằng cu Gấu Bắc Kít nhà quê,
có thể là... Gấu Nhà Văn, mà đếch cần
rời cái ngôi làng Thanh Trì ở ven đê
sông Hồng, và cô Hồng Con của nó?
Một giấc mơ mà “thời gian trước”, the eve, của Ulysses
có thể hoành tráng hơn nhiều, so với bài
thơ kể cuộc đời nhọc nhằn của xừ luỷ
Mơ những thế hệ con người không nhận ra cái tên
Ulysses.
Mơ những giấc mơ chính xác hơn nhiều so với sự tỉnh
thức của ngày hôm nay.
Một giấc mơ sẽ có thể làm những phép lạ mà
chúng ta sẽ không làm, ấy là bởi vì
nó thực hơn, thay vì tưởng tượng ra chúng.
Mơ những thế giới dữ dằn đến nỗi tiếng chim cũng có thể làm
thịt mi.
Mơ, quên và nhớ có thể là những hành
động tự nguyện, không phải những gây hấn, hay những quà
tặng của cơ may.
Một giấc mơ mà chúng ta, với trọn cơ thể của chúng
ta, như Milton ao ước, nhìn thấy đôi mắt của mình,
từ cái bóng của những quả cầu dịu dàng.
Mơ một thế giới không có máy móc, và
không có túi thịt thối tha, như nhà Phật nói,
hay cái cỗ máy hơi một tí là bị ảnh hưởng,
là cái cơ thể của con người
Đời thì đâu phải là mơ, là mộng, như
Novalis viết, nhưng có thể trở thành mơ, thành mộng.
Tị Nạn
Don’t set them up to fail
To become an asylum
seeker in Europe is to have overcome adversity. First, to have
survived the dangers in your homeland. Then to have survived the
journey and reached your destination. Only last week, Unicef warned
that women and children were being raped, beaten and starved in Libyan
detention centres. Last year, more than 5,000 migrants died attempting
to cross the Mediterranean, and Balkan countries shut their borders,
blocking many who had hoped to reach northern Europe. To have your
claim recognized, and to become a refugee, is harder still. It
means negotiating a complicated system that often gets it wrong. So
refugee status is a mark not only of suffering but of the ability to
withstand it. The attention already given to perilous journeys, and
the populist backlash to the surging numbers of asylum seekers in Europe
over recent years - though arrivals fell in 2016 - now needs to encompass
what happens at their destination. Making a home in a new land is challenging
even for those who move by choice and with plentiful resources. Now
add in trauma and sometimes physical issues too; a language barrier;
skills or qualifications that cannot be transferred. But many of the
problems they face are entirely unnecessary.
How the UK treats those gaining admittance
is just as critical as who we do and don't let in. We have
not done our part if we allow them through the door, but not
to make themselves at home. Of Europe's big five nations, only
Italy - handling much larger numbers - treats asylum seekers and
refugees worse than Britain, which is, for instance, the only EU nation
to allow indefinite immigration detention. Asylum seekers are
almost never granted the right to work. Bizarrely, those recognized
as refugees are routinely forced into destitution because they lose
existing entitlements and accommodation before their new benefits
and housing have been processed. The "move on" period is 28 days; the
British Red Cross has found it takes an average of 42 days to first payment
of benefits, and in some cases far longer.
The UK needs a proper dispersal policy,
so asylum seekers are not just dumped in areas with cheap
housing. Allowing them to work - as many European countries do
- would help them to integrate and to support themselves. Much could
be learned from the UK's own Syrian Vulnerable Persons Resettlement
Programme, bringing in those already recognized as refugees. Though
it has its shortcomings, it is better funded and offers integrated
support for 12 months. That has led to a two- tier system, and the
challenge should be to raise up the way that others are treated, not
engage in a race to the bottom. Treating people decently is the right
thing to do. It ensures that they are able to contribute to their new
society as soon as possible. That is better for everyone. Those seeking
asylum in the UK have already succeeded against the odds. Why do we
then set them up for failure?
Tị Nạn: Đừng đẩy họ tới tình
trạng vô phương chống đỡ (1)
Trở thành 1 người tị nạn ở Âu Châu là trở
thành 1 kẻ phải vượt được không biết bao nhiêu là
tình trạng thù nghịch, trắc trở, nghịch cảnh.
Trước hết, sống sót những hiểm nguy ở nơi "quê hương
mỗi người chỉ có một, nếu đéo có, là đéo
sống nổi thành 1 con người", hà, hà!
Rồi sống sót cuộc hành trình, tới được nơi tới.
Mới tuần lễ vừa rồi, Unicef cảnh báo, đàn bà và
trẻ em bị hãm hiếp, đánh đập và bỏ đói tại
những trung tâm giam giữ Libyan.
Năm rồi, hơn 5 ngàn người chết khi toan tính vượt vùng
đất Địa Trung Hải, và những xứ sở vùng Balkan đóng
cửa biên giới, đóng lại hy vọng của những con người mong
tới được Âu Châu qua ngõ này.
Được đoái hoài tới, nhưng được coi là 1 người
tị nạn thì vẫn còn rất căng.
Vì bạn còn phải “thương lượng, đàm phán”
với cả 1 hệ thống rắc rối mà thường thường là, cái
hệ thống này, vờ bạn.
Bởi vậy, qui chế tị nạn là 1 dấu ấn của, không chỉ khổ
đau, mà còn của khả năng, "có cứng thì mới
đứng được ở nơi đầu gió"!
(1)
https://en.wikipedia.org/wiki/Set_up_to_fail
Being set up to fail is a phrase denoting
a no-win situation...
****
Note: GCC đến trại tị nạn sau dead line,
tức là sau cái ngày được tự động coi là
tị nạn chính trị, và phải trải qua thanh lọc.
Gửi thư cầu cứu 1 vị nữ văn sĩ, 1 trong
5 vị nổi tiếng số 1 trước 1975, tại Miền Nam, vị này
được 1 đấng Mẽo bệ về Mẽo trước 30 Tháng Tư chừng ít
ngày, khi thấy tên bà trên măng xét
1 tờ báo của lực lượng Khiến Chán ở trong trại.
Bà viết thư trả lời, mi đi trễ
quá, đi làm khỉ gì nữa, hết mùa
vượt biển rồi - nội dung thư đúng là như thế -
GCC đọc thư, thú thực, chỉ muốn viết thư cho VC, xin được
hồi chánh!
May quá. có được địa chỉ
của Nguyễn Đông Ngạc, qua 1 vị ở trong Trại.
Viết 1 phát là bạn trả
lời liền kèm tý tiền còm.
Tuyệt vời nhất, là bạn thông
báo cho cả 1 lũ ở bên Mẽo, những Viên Linh,
Định Nguyên, chúng phôn cho vị Chủ tịch
Pen Mít ở hải ngoại.
Vị này, cũng nhận được lời cầu
cứu qua vị nữ văn sĩ, nhưng nếu không có lũ bạn
bè như Viên Linh, NDN, DN phôn phiếc, chắc
là cũng vờ, vì, khi vị nữ văn sĩ thông báo
với anh, bà vờ luôn địa chỉ ở Trại của Gấu, chán
thế.
Anh viết, bà nhờ tôi can
thiệp cho 1 kẻ mà chính bà vờ không
cho biết địa chỉ của ông ta, làm sao tôi
can thiệp?
Vị này, viết thư xác nhận
GCC là member của PEN/VN (Ngụy)
Kể như xong được tầng đầu địa ngục!
Giả như không có được địa chỉ của
Nguyễn Đông Ngạc, là kể như xong đời GCC!
Valentine's
Day
Ghi_1/chet_vi_tinh.html
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Valentine_Day.html
LOPEZ LECUBE: You said once that you
have always been in love with a woman.
BORGES: Yes, but the women have changed over time.
LOPEZ LECUBE: Have you had so many loves?
BORGES: 1 asked my sister about her first love and
she said to me, "I don't remember much from my life but 1 know
that I've been in love since I was four years old," and as far as
I remember I have always been in love, but the people change.
The love is always the same, and the person is always
unique, even if she is different.
LOPEZ LECUBE: Who is that unique person?
BORGES: There have been so many that I've lost track.
LOPEZ LECUBE: Have you been in love with many women?
BORGES: It would be very strange if I hadn't.
LOPEZ LECUBE: Because I would say that actually one
has very few great loves.
BORGES: All love is great, love doesn't come in different
sizes, whenever one is in love, they're in love with a unique person.
Maybe every person is unique, maybe when one is in love they see
a person as they really are, or how God sees them. If not, why fall
in love with them? Maybe every person is unique, I could go further:
maybe every ant is unique, if not why are there so many of them? Why
else would God like ants so much? There are millions of ants and each
one is undoubtedly as individual as, well, as Shakespeare or Walt Whitman.
Every ant is undoubtedly unique. And every person is unique.
LOPEZ LECUBE: Like women ... ? The species known
as woman?
BORGES: I think that they're more sensible than men,
I have no doubt that if women governed countries, there would
be no wars, men are irrational, they've evolved that way, women too.
Borges: The Last Interview
Ông có lần phán,
ông luôn luôn yêu 1 người đàn
bà.
Borges: Đúng thế nhưng đàn
bà ưa thay đổi
Như vậy ông có nhiều tình yêu?
Tôi hỏi bà chị của
tôi về mối tình đầu của bà, và bà
cho biết, “bà không nhớ, nhưng nhớ là, yêu
từ khi bảy tuổi”, và như tôi nhớ được thì tôi
luôn luôn yêu, nhưng con người thay đổi. Tình
yêu thì luôn cũng vậy, vũ như cẩn, và người
yêu luôn duy nhất, ngay cả khi người đó khác
đi.
Ai là cái người duy nhất đó?
Nhiều quá làm sao
lần ra.
Như vậy là ông yêu rất nhiều người
đàn bà?
Lạ, là, nếu tôi không
yêu rất nhiều người.
Tôi hỏi như thế, là bởi vì thật
khó mà 1 người có nhiều mối tình lớn
trong đời.
Mọi cuộc tình thì
đều lớn, đều vĩ đại, đều số 1: tình yêu không
đến với những kiểu cọ lớn nhỏ khác nhau. Một khi yêu,
là một khi duy nhất, một người duy nhất. Có thể là
như thế này: Mọi con người thì đều là duy nhất,
khi 1 người đang yêu, họ nhìn con người thực sự như là
con người, như Chúa nhìn họ như thế đó. Nếu không,
thì yêu làm khỉ gì cho mệt? Mọi người thì
đều mọi duy nhất, và tôi có thể phăng thêm:
có thể mọi con kiến thì đều duy nhất, nếu không
thế, thì tại làm sao Chúa yêu chúng
quá như thế? Có hàng triệu triệu con kiến mà
một con kiến như thế, là 1 cá nhân như Shakespeare,
hay Walt Whitman. Mọi con kiến, không nghi ngờ chi, là
duy nhất. Và mọi người là duy nhất.
Lướt
TV
http://www.tanvien.net/Al/sgn_hn_1.html
[H]
HATRED. My life story is one
of the most astonishing I have ever come across. True, it lacks the clarity
of a morality tale, as in Joseph Brodsky's story: he was tossing manure
with a pitchfork on a state farm near Arkhangelsk, and then, just a few
years later, he collected all sorts of honors, including the Nobel Prize.
It does not lack similarities with the Polish fable about stupid Jas, however,
because it required a great deal of stupidity to act differently from my
colleagues in literary circles and to flee to the West, which was convinced
of its own decadence. The dangers of such a flight are described very well
in these lines from Hamlet, applied to the Cold War:
‘Tis dangerous when the baser
nature comes
Between the pass and fell incensed points
Of mighty opposites. (1)
To be despised and triumphant
in the course of a single life, to wait for the time when it would become
apparent that my enemies who made up disgusting things about me had made
terrible fools of themselves. What interests me most in all of this is the
difference between our image of ourselves and our image in others' eyes.
Obviously, we improve upon ourselves, while our opponents seek to strike
even imaginary weak spots. I muse over my portrait that emerges from songs
of hatred, in verse and prose. A lucky guy. The sort for whom everything
goes smoothly.
Incredibly crafty. Self-indulgent.
Loves money. Not an iota of patriotic feeling. Indifferent to the fatherland,
which he has traded in for a suitcase. Effete. An aesthete, who cares about
art, not people. Venal. Impolitic (he wrote The Captive Mind).
Immoral in his personal life (he exploits women). Contemptuous. Arrogant.
And so forth.
This characterization was usually
supported with a list of my shameful deeds. What is most striking is that
it is the image of a strong, shrewd man, whereas I know my own weakness
and I am inclined to consider myself, rather, as a tangle of reflexes, a
drunken child in the fog. I would also be inclined to take the side of my
enemies when they track down my insolence as a nonconformist, because the
polite little lad and Boy Scout is still quite firmly inside me, and I really
do condemn the scandals I caused in school, and in each of my violations
of the social norms I detect an attraction to brawling and psychological
imbalance.
My tendency toward splitting
hairs, and toward delectatio morosa, the label used by
monks for masochistic pleasures such as those they suffered by recalling
all their sins, argues against my alleged strength. It is not exactly pride,
but as for arrogance, it is well known that it usually masks timidity.
I count it as great good fortune
that I never fell into the clutches of the political police. A talented
interrogator would immediately have guessed my general sense of guilt and,
playing on it, would have led me to confess, in a great act of contrition,
whatever crimes he named. So many similarly unfortunate people were broken
in this way, and I feel profoundly sorry for them.
MILOSZ'S ABC'S
(1)
Những
kẻ dưới lúc nào cũng bị nguy hiểm khi bị đặt giữa các
quyền lực đối đầu nhau.
HAMLET
Why, man, they did make love
to this employment.
They are not near my conscience. Their defeat
Does by their own insinuation grow.
'Tis dangerous when the baser nature comes
Between the pass and fell incensèd points
Of mighty opposites.
( HAMLET-
Man, they were asking for it. I don’t feel guilty about them at all. They
got what they deserved. It’s always dangerous when little people get caught
in the crossfire of mighty opponents.).
Tks K.
NQT
Hận
thù
Câu chuyện đời tôi thì
là một trong những kỳ tuyệt nhất mà tôi đã từng
kinh qua. Đúng như vậy. Nó thiếu tí sáng sủa
của chuyện đạo đức, răn đời, như của Joseph Brodsky: được nhà nước
Đỏ cho đi bốc phân tại một nông trường tập thể gần Arkhangelsk,
vài năm sau đó, ông lượm đủ thứ vinh quang, trong có
giải Nobel văn chương. Tuy nhiên, đúng là câu
chuyện của anh chàng ngu ngốc Jas, trong chuyện dân gian Ba
Lan, bởi là vì, phải thật là khùng điên
ba trợn, thì mới hành động khác hẳn những đồng nghiệp
của tôi, trong giới văn chương, và rồi còn bỏ chạy
quê hương qua Tây Phương suy tàn. Những nguy hiểm của
chuyến đi của tôi thì được miêu tả thật là tuyệt
vời bằng những dòng sau đây, trong tuồng Hâm Liệt, áp dụng vào Cuộc Chiến Lạnh:
Những thân phận
thấp hèn lúc nào cũng bị nguy hiểm, bị đặt giữa các
quyền lực đối đầu nhau.
Cái vụ Bắc Kít
làm thịt thằng em Nam Bộ, theo GNV, là nguyên nhân
của “trọn tính người", theo tinh thần của bài viết sau đây
(1).
Nó hết còn là
chuyện thù hận quốc gia-cộng sản.
Trang TV sở dĩ lải nhải hoài,
chỉ mỗi chuyện này, là vậy.
Gấu đâu có thù VC, nhất là Bắc Kít?
Anh em, bà con, bạn bè… tất tất Bắc Kít.
Cũng có Trung Kít, Nam Kít, nhưng cốt lõi
của tất cả, vẫn là Bắc Kít.
Cả lò nhà mày là CS, trừ mày ra,
là thằng phản động.
Ui chao may quá!
(1)
Trọn tính người
Một người nhờ tôi lên
1 cái danh sách, những sách nên đọc. Tôi
đề nghị, nên đọc Nếu có phải 1 người của Primo
Levi. Rồi thêm vô, Những Kẻ Thiện Tâm,
của Littell, rồi thêm vô, Đời và Số mệnh của Vassili Grossman, Ba thằng lăng
nhăng, của Tô Hoài, rồi thêm vô, Đi tìm cái tôi của Nguyễn Khải…
Đến đây, thì ông bạn ngăn lại, thôi đủ rồi.
Bây giờ xin hỏi ông:
Có vẻ như ông khoái cái thú đau thương,
chỉ khoái đọc ba cái tởm lợm, morbide pour l'horreur?
Tôi đề nghị ông
bạn, đổi câu hỏi sao cho có vẻ bớt tởm lợm đi 1 tí:
Tại sao chuyện đó xẩy ra?
Tại sao khi BBP [Bắc Bộ Phủ] ra
lệnh làm thịt Nam Kít, không 1 tên Bắc Kít
nói: Không được.
36 năm sau, cũng vẫn chưa có 1 tên Bắc Kít nào
nói, không được?
Xã hội này có
phải đã mất hết ý thức về các giá trị làm
người rồi không, mất hết ý thức về các giá trị
nhân đạo rồi không, mất hết ý thức về công lý,
lẽ phải rồi không? Không, tôi không tin là
như vậy.
NTTH
Gấu thực sự tin, nó là
như vậy!
-
http://tanvien.net/Viet/5.html
(1)
"cái khay mỏng mảnh nhỏ chặt chồng chất
những chứa đựng cồng kềnh"
"những vấn đề quá lớn đặt ra một cách
khái quát và giản lược"
không hề biết tới "kỹ thuật xây dựng
một truyện dài" (thế mà vẫn dám viết một
truyện dài)
"thiếu thuần thục", "sống và sượng"
"Đây là một sáng tác
nhiều nhiệt tình. Nhưng đây cũng là một tiểu
thuyết chưa thành hình".
Nhiệt tình trong sinh sản thì tạo
ra những gì chưa thành hình. Người viết bài
này quá giỏi, tôi [NL] nghĩ đó là
Mai Thảo (ở Nghệ thuật, Mai Thảo là
chủ nhiệm kiêm chủ bút, Thanh Nam là tổng thư
ký). Giỏi ghê gớm, bởi vì nói từ cách
đây hơn nửa thế kỷ mà giờ vẫn đúng.
NL
Theo GCC nhận xét của MT, rất đúng. Truyện (tiểu
thuyết) của NTV chưa được gọi là tiểu thuyết, và đây
là cảm giác của GCC, khi đọc cuốn đầu tay của anh.
Nhưng cái câu khen MT, "Giỏi ghê gớm, bởi
vì nói từ cách đây hơn nửa thế kỷ mà
giờ vẫn đúng", thì lại không được, vì
viết đã trật thì cứ mãi mãi trật, giống như
đánh cờ, chưa sạch nước cản, vậy.
Cái viết của NTV theo GCC, cái gì cũng
sượng, đó là sự thực!
NQT
Nguyễn Hưng Quốc
1 hr
· Edited
·
TRANH THÁI TUẤN
Bức "Chiếc mành mành" này
được họa sĩ Thái Tuấn (1918-2007) sáng tác năm 2001,
sau đó, tặng nhà văn Võ Phiến (sinh năm 1925). Năm 2007,
có dịp sang California, tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn
được Võ Phiến mời ở nhà ông bà mấy ngày.
Ngày cuối, Võ Phiến gỡ bức tranh đang treo trên
tường để tặng lại tôi, bảo là "để làm kỷ niệm". Tôi
treo bức tranh ở phòng sách, mỗi lần nhìn, lại nhớ
đến hai người: Thái Tuấn và Võ Phiến, một người đã
khuất, một người đã 90 tuổi và không còn nhớ
gì nhiều. Cái nhớ nào, do đó, cũng thoáng
chút bùi ngùi.
Note:
GCC đọc, và thú
thực, không hiểu nổi tại làm sao VP lại đem tặng 1 bức
tranh TT tặng ông, cho 1 người khác?
Bất giác lại nhớ đến
Ngọc Dũng, có vài bức tranh tặng bà cụ TTT; trong có
bức - thường được gọi là “mọi đen” giữa đám bạn bè
của ông em nhà thơ.
Sau 1975 tranh ND có giá lắm ở Sài Gòn,
Trần Lê Nguyễn đói quá, đến năn nỉ bà cụ
Chất, để lại cho ông bức mọi đen, và Cụ đành biếu,
với 1 cái giá tượng trưng, và TLN có được
1 món tiền khá lớn nhờ bức tranh.
GCC không dám tưởng
tượng thầy K, vì một lý do nào đó, lại đem
tặng bức tranh của TT cho 1 người nào khác!
Vì chuyện liên quan đến bức mọi đen, và
vì bà cụ Chất ngày càng già, bạn
Chất, nhân 1 lần về Việt Nam bèn mang số tranh còn
lại qua Mẽo, nhờ vậy, lần ghé thăm anh GCC đi được 1 đường copy!
Tranh Ngọc Dũng
Chất: Cậu có nhớ, lần cậu ngủ nhà
tớ, vừa ngủ dậy, cậu phán, hôm nay phải về nhà,
coi nhà còn hay dọn đi đâu mất rồi, lại mất công
hỏi thăm hàng xóm?
Gấu: Nhớ chứ! Sao không nhớ?
Chắc chắn, bạn ta quên, những lần Gấu đói quá,
mò sang nhà thật sớm, để được bạn đưa đi ăn phở Đại Đồng.
Ăn thành quen, thành thèm, bạn ta phải cưa đôi
tô phở. Thay vì tô lớn, hai tô nhỏ. Sau cụ
biết, bèn ra lệnh, cho mỗi thằng một tô lớn!
GCC with TT's @ Kiệt Tấn's
Note: Giá
bữa đó, GCC hỏi xin - thì cũng "để làm kỷ niệm"-
chắc bị KT đá cho 1 cú, văng ra khỏi Paris!
Được đứng ké
bức tranh, ở nhà bạn như thế này, thì cũng đủ
sướng điên lên rồi, vậy mà - hỏi xin, để làm
kỷ niệm - và cuốn bức "mành mành" mang về nhà!
/translation/morrison.html
Bài viết này, đang
Top của Top Ten, qua Server.
Liệu có phải là do 8/3?
Về già, Gấu càng
ngộ ra, tất cả những gì bạn có, là ở trong cái
đọc, chứ không phải ở trong cái viết.
Morrison trả lời, đam mê sâu thẳm của tôi,
là đọc, là cũng theo nghĩa đó.
Ui chao Gấu lại nhớ một ông bạn quí. Ông
phán, tao ị ra cho thiên hạ đọc, chứ cần gì phải
đọc ai?
Gấu được ông anh dậy ba
búa. Búa thứ nhất liên quan đến dịch thuật. Đừng
sợ sai. Sai thì sửa. Búa này liên quan đến
văn học Mít. Ông đã từng phán, đại khái,
nhà văn Mít cứ viết xong thời thanh xuân, là
ngỏm củ tỏi. Do thiếu đọc.
Khi ông đọc truyện ngắn đầu tay, “Những con dã
tràng”, về nói với bà cụ, thằng Trụ sẽ đi xa
hơn DNM, là theo nghĩa đó.
Ông tin rằng Gấu sẽ đọc được nhiều hơn đám
Mít kia.
Đó là lời khen độc nhất của ông, về
Gấu.
Sau này, ông chê nhiều hơn là
khen.
Khi Gấu mê đám bạn quí, ông cảnh
cáo, nhưng Gấu đâu có hiểu được.
Lúc đó cần bạn quá!
Bạn quí mà sao không cần!
Bịp
Bịp thì phong nhã
hơn là thuổng
Cheating is more honorable than stealing
Cách ngôn Đức
Chúng ta bịp con nít
bằng hột xúc xắc, bịp người lớn bằng lời thề dưới ánh
sáng của Đảng
We cheat boys with dice, and men with oaths
Lysander, c.407BC
Chính cái tên
Cù Lần mà tôi lừa dối hoài hoài
là kẻ tôi yêu thương hoài hoài
It was the men I deceived the most that I loved the most
Marguerite Duras, 1987
Đàn ông sinh ra
là để nói dối, vì đó là phần số
của họ. Còn đàn bà, để tin họ.
Men were born to lie, and women to believe them
John Gay, 1728
Bạn có thể chắp cánh
cho 1 con heo, nhưng chớ có biến nó thành con
chim ưng
You can put wings on a pig, but you don’t make it an eagle
Bill Clinton, 1996
Osip
Mandelstam
Osip Mandelstam (1891-1938)
[in The Penguin Book of Russian Poetry]
Osip Emilievich Mandelstam was born in Warsaw to a Polish
Jewish family; his father was a leather merchant, his mother a piano
teacher. Soon after Osip's birth the family moved to St Petersburg.
After attending the prestigious Tenishev School, Mandelstam studied
for a year in Paris at the Sorbonne, and then for a year in Germany
at the University of Heidelberg. In 1911, wanting to enter St Petersburg
University - which had a quota on Jews - he converted to Christianity;
like many others who converted during these years, he chose Methodism rather
than Orthodoxy.
Under the leadership of Nikolay Gumilyov,
Mandelstam and several other young poets formed a movement known
first as the Poets' Guild and then as the Acmeists. Mandelstam wrote
a manifesto, 'The Morning of Acmeism' (written in 1913, but published
only in 1919). Like Ezra Pound and the Imagists, the Acmeists valued
clarity, concision and craftsmanship.
In 1913 Mandelstam published his first
collection, Stone. This includes several
poems about architecture, which would remain one of his central themes.
A poem about the cathedral of Notre-Dame de Paris ends with the declaration:
Fortress Notre-Dame, the more attentively
I studied your stupendous ribcage,
the more I kept repeating: in time I too
will craft beauty from sullen weight.
In its acknowledgement of earthly gravity and its homage
to the anonymous masons of the past, the poem is typically Acmeist.
Mandelstam was also a great love poet.
Several women - each an important figure in her own right - were crucial
to his life and work. An affair with Marina Tsvetaeva inspired many
of his poems about Moscow. His friendship with Anna Akhmatova helped
him withstand the persecution he suffered during the 1930s. He had intense
affairs with the singer Olga Vaksel and the poet Maria Petrovykh. Most
important of all was Nadezhda Khazina, whom he married in 1922.
Osip and Nadezhda Mandelstam moved to
Moscow soon after this. Mandelstam's second book, Tristia,
published later in I922, contains his most eloquent poetry; the tone
is similar to that of Yeats's 'Sailing to Byzantium' or some of Pound's
first Cantos. Several poems were inspired by the Crimea, where Mandelstam
had stayed as a guest of Maximilian Voloshin. Once a Greek colony, the
Crimea was for Mandelstam a link to the classical world he loved; above
all, it granted him a sense of kinship with Ovid, who had also lived by
the Black Sea. It was while exiled to what is now Romania that Ovid had
composed his own Tristia.
The final section of Mandelstam's 1928
volume Poems (the last collection he was
able to publish in his life) is titled 'Poems 1921-25'. These twenty
poems differ from any of his previous work. Many are unrhymed, and they
are composed in lines and stanzas of varying length. This formal disintegration
reflects a sense of crisis that Mandelstam expresses most clearly
in 'The Age':
Buds will swell just as in the past,
sprouts of green will spurt and rage,
but your backbone has been smashed,
my grand and pitiful age.
And so, with a meaningless smile,
you glance back, cruel and weak,
like a beast once quick and agile,
at the prints of your own feet.
For several years from I925 Mandelstam abandoned poetry
or, as he saw it, was abandoned by poetry. Alienated from himself and
the world around him, he supported himself by translating. He also
wrote memoirs, literary criticism and experimental prose.
What helped Mandelstam to recover was
a journey to Armenia from May to November 1930. The self-doubt of
'Poems 1921-25' yields to an almost joyful acceptance of tragedy.
Armenia's importance to Mandelstam is not surprising: it is a country
of stone, and one of the arts in which Armenians have long excelled
is architecture. And to Mandelstam Armenia represented the Hellenistic
and Christian world where he felt his roots lay; there are ruins of Hellenistic
temples not far from Yerevan and it was on Mount Ararat - which dominates
the city's skyline - that Noah's Ark is believed to have come to rest.
Mandelstam drew strength from a world that felt more solid, and more honest,
than the Russia where he had become an outcast.
In the autumn of 1933 Mandelstam composed
an epigram about Stalin, then read it aloud at several small gatherings
in Moscow. It ends:
Horseshoe-heavy, he hurls his decrees low and high:
in the groin, in the forehead, the eyebrow, the eye.
Executions are what he likes best.
Broad is the highlander's chest.
(trans. Alexandra Berlina)
Six months later Mandelstam was arrested.
Instead of being shot, he was exiled to the northern Urals; the
probable reason for this relative leniency is that Stalin, concerned
about his own place in the history of Russian literature, took a personal
interest in Mandelstam's case. After Mandelstam
attempted suicide, his sentence was commuted to banishment from Russia's
largest cities. Mandelstam and his wife settled in Voronezh. There,
sensing he did not have long to live, Mandelstam wrote the poems that
make up the three Voronezh Notebooks. Dense
with wordplay yet intensely lyrical, these are hard to translate.
A leitmotif of the second notebook is the syllable
'os'. This means either 'axis' or 'of wasps' - and it is the first syllable
of both Mandelstam's and Stalin's first names ('Osip' and 'Iosif' are,
to a Russian ear, just different spellings of a single name). In the hope
of saving his own life, Mandelstam was then composing an Ode to Stalin,"
he evidently imagined an axis connecting himself - the great poet - and
Stalin - the great leader.
In May 1938 Mandelstam was arrested
a second time and sentenced to five years in the Gulag. He died in
a transit camp near Vladivostok on 27 December 1938. His widow Nadezhda
preserved most of his unpublished work and also wrote two memoirs,
published in English as Hope Against Hope and Hope Abandoned.
Note:
A leitmotif of the second notebook
is the syllable 'os'. This means either 'axis' or 'of wasps' - and
it is the first syllable of both Mandelstam's and Stalin's first names
('Osip' and 'Iosif' are, to a Russian ear, just different spellings
of a single name).
Tên - first name -của Osip Mandelstam và của
Xì, đọc như nhau, trong tiếng Nga. Khi Osip làm bài
Ode to Stalin, để vinh danh Xì, tất
nhiên, để cứu mạng mình, nhưng thi sĩ tưởng tượng mình
"cũng như Xì", the great poet vs the great
leader!
8
It's true, I lie in the earth,
moving my lips,
But what I say will be learned
in every school:
The round earth is rounder in
Red Square,
And its slope asserts itself,
willingly,
The round earth is rounder in
Red Square,
And its slope is vast, unexpectedly
Sloping down-to fields of rice-
As long as one last slave is
left alive.
May 1935
Osip Mandelstam: Voronezh
Notebooks
Đúng như thế đấy, tớ
nằm trong lòng đất, mấp máy môi
Nhưng những gì tớ phán
thì sẽ được học trong mọi ngôi trường
Trái đất tròn,
tròn hơn, ở Công Trường Đỏ
Và đường cong của nó,
khẳng định chính nó, rất ư là hài
lòng
Trái đất tròn,
tròn hơn ở Công Truờng Đỏ
Và đường cong của nó
rộng rãi, thênh thang, rất ư là không
ngờ
Đường cong trải dài mãi
ra, tới đồng, tới ruộng
Trải dài mãi
Cho đến khi tên nô
lệ cuối cùng, còn lại.
Ta không muốn, như một cánh
bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã tư, ngã năm, ngã
bẩy,
Thành phố, thành đường....
Hãy học cùng với Mandelstam, nghệ thuật khó
khăn:
Lắng Nghe Tiếng Thời Gian.
[Như học cùng Phùng Cung:
Lắng Nghe Mới Rõ
Tiếng Tóc Mình Chuyển Bạc]
Nilkiata Struve
(Tựa "Tiếng Thời Gian", tập thơ xuôi của nhà
thơ Nga Ossip E. Mandelstam)
"Pour moi, pour moi, pour moi dit la révolution"
"Tout seul, tout seul, tout seul répond le monde"
On vivait mieux auparavant,
A vrai dire, on ne peut comaprer
Comme le sang bruissait alors
Et comme il bruit maintenant.
Mandelstam
Viết
mỗi ngày
Về cái chuyện sống, Sam
đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng
tôi có hẹn nhậu, liền sau khi Gill và tôi lấy
nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai, ba, lần thứ ba.
Một vợ là đủ rồi. Ông gật gù, lèm bèm.
Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn
ông cần có. Yeats một, và chỉ một mà thôi,
như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. – Tôi cũng sẽ chỉ có
thế.
Sam có những người hùng của ông… và tôi
nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong số đó.
Những hồi ức quan trọng nhất của tôi về Beckett thì không
phải về 1 nhà văn thần sầu, số dách, tuyệt cú mèo
nhưng mà là một người
bạn thần sầu. Tôi biết đến ông, là qua những
gì ông viết, nhưng liền đó, với tôi, ông
trở thành một trong số ít ỏi, mà chúng ta
cẩn thận chọn, ngược hẳn ý bà mẹ, để phục vụ, như là
ông via của mình.
Lần gặp chót, cách đây chừng vài tháng,
thì ông mỏng và trong suốt như... 1
anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
Ông sống trong 1 phòng của 1 cái nhà dành
cho đám người già ở đường Remy-Dumonce, chỉ cách
nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh" của ông
chừng vài nhà. Tôi sững sờ khi nhận ra, ông
sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới được căn phòng
của ông, người ta phải đi qua 1 cái gì được gọi như
là "phòng giải trí" của người già. Chừng một,
hoặc hai tá ông già bà lão Tẩy ngồi
một dọc, giống như đám chim sẻ trên sợi dây điện, coi
1 màn ca hát nhảy múa thật là cà chớn,
của một người đàn ông trên màn hình của
1 cái TV đen trắng, ở xứ Bắc Kít, khi chưa giải phóng
được Miền Nam để… nhận hàng, dù là
bơ thừa phó mát cặn Yankee mũi lõ bỏ lại. Tôi
nhảy bổ vào giấc mơ chiến thắng Miền Nam của đám già
đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi phòng của bạn quí
của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như chẳng có ai biết ông.
Tôi kiếm văn phòng của “viện dưỡng lão”, và
sau đó, được dẫn qua một cái sân nhỏ ở đằng sau khu
nhà, và tôi nhìn thấy một căn phòng nhỏ
xíu, ở tầng chệt, màn cửa sổ ấp ló. Beckett ở trong
phòng, mặc 1 cái áo cũ te tua, làm việc với
cây viết và mực, tại 1 cái bàn [loại bàn
thường dùng để chơi bài bridge].
Tôi đột nhiên đứng sững, lơ láo nhìn, nhớ
lại cú sốc của Beckett, lần ông khám phá ra,
tôi đếch biết “Dong buồm tới [Sailing to] Byzantium” của Yeats.
Đêm đó, trước khi rời cái bàn, bài
thơ của Yeats chạy từ hồi ức của Mr Beckett qua hồi ức của tôi, cùng
với 1 cái ghi chú nho nhỏ, có tính khoa bảng,
của sự cẩn trọng, của Sam: "Tôi thực sự không hoàn
toàn gật đầu hài lòng, ở cái phần “linh hồn
vỗ tay” của bài thơ!"
Căn phòng sau cùng của Samuel Beckett thì xác
xơ, nhỏ xíu, và buồn bã: một cái giường một
cái bàn bridge, và một cái ghế bàn ăn,
một cái TV “cho những sự kiện thể thao”, Giống 1 phòng nhà
tù, thấy sao thấm thía, và cái phản ứng liền
tù tì của tôi, là ôm ông lên,
rồi bỏ chạy ra khỏi căn phòng, ra khỏi lúc này, trở
về 1 khúc nào đó của thời đã qua. Phải cỡ chừng
một năm trời thì tôi mới quen nổi với cảm giác thôi
đành chịu như thế, đành để ông ở đó, đành
chấp nhận đó là sự chọn lựa của ông.
Hai chúng tôi nói chuyện vài tiếng đồng
hồ. Ông hỏi tôi về mấy đứa nhỏ, về công việc của tôi,
về những cuốc chạy marathon của Gill, bà xã tôi, tôi
có cần tiền không, hay là tôi OK?
Đến lượt tôi. Tôi hỏi về tình trạng sức khỏe của
ông. Ông rành căn bịnh đặc biệt của mình, giải
thích những cơ chế của nó như 1 khoa học gia. Não
của ông, máu luân lưu không đủ, không đúng
điệu. Nhưng khi ông chi ly về cái cảm giác, sensation,
[“xăng xa xườn”, Gấu Cà Chớn phiên âm theo kiểu “phiện
thú lắm”, “yên sĩ phi lý thuần”, inspiration] - về vấn
đề căn bịnh nó hành ông như thế trong cơ thể đặc biệt
của mình, thì lúc đó, ông là quả
là cả 1 nhà văn, all writer: cô đọng, sáng sủa
một cách rất là nghệ thuật, succinct and artfully clear:
“Tớ ở trong Cát Lầy của
TTT”,
"I am standing in quicksand."
Khi tôi rời Sam lần chót,
tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett
còn sống nữa. Tôi loay hoay sắp xếp đời mình, để có
thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần, bắt đầu vào
tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát lầy, tính
sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì đó về ông, rồi cát
lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông
luôn viết điều gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và
nếu như thế, họ sẽ bỏ qua một sự thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất:
Với cuộc đời của mình, Mr. Beckett [thì cũng giống như Mr.
Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái thế kỷ khốn kiếp, tồi bại,
là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà
văn, thì sau cùng vẫn khả hữu điều này: Sống, và
làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau chút lớn, và
một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể: Không
phải một vì thánh - ở vào những lúc chẳng
ra cái chó gì – not even totally tasteful – nhưng
vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ sĩ:
giọng trong sáng, đảm trách, thẳng 1 dòng với cái
đẹp nhất.
Và với nghĩa cả, good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối tha,
ghê tởm, và phẩm chất của Cái Chết, thì là
một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao mà hài
lòng, thỏa mãn.
|