*

Gấu nhớ nhà
1

1 2 3 4















Thư tín, 

Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.

Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.

Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.


"He is a pessimistic poet made melancholy by an intolerable political exile"
Poets cannot live by sympathy alone.
TLS viết về nhà thơ vừa mới mất, Mahmoud Darwish
*
Vừa nhận được Lần Cuối Sài Gòn trưa nay. Đọc trên chuyến xe lửa từ nhà trở lại sở. Đọc thích thú. Đọc chia sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn, có lẽ những thành phố anh đang gợi lại đã vĩnh viễn ngoài chúng ta, có phải thế?

Hà Nội là một chiếc bóng đằng sau Sài Gòn. Sài Gòn là một chiếc bóng đằng sau hiện tại. Chữ gợi lại chập chùng những bóng. Những người đã từng có mặt. Những chỗ ngồi. Những góc đường. Những tàng cây.

Mới cách đây vài hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke và tập Duino Elegies, vẫn còn bần thần, vì nhận ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn cái gì, là lập tức cái ấy đã là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là Lần Cuối. Chúng ta tới đây, như để có mặt, một lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi qua đi.
Đọc mới xong phần đầu của bút ký, và thơ, đã đầy cả Sài Gòn của một thời kỳ kỳ lạ, tan hoang, lãng mạn, đổ vỡ, và bi tráng của nó.

Cám ơn anh đã gửi sách. Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn xuống con nước Thị Nghè, trưa có mây - hay là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng xa xa Thủ Đức].
Vài hàng viết gấp kẻo anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ đọc tiếp Lần Cuối tối nay. Anh vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.
[Thư thân hữu, 1998]
TQ

Nhớ Bùn

"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..." 

Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.

Lần Cuối Sài Gòn
*

Sóc Trăng, cái tên thiệt là ngộ. Sóc là làng, bản, thôn... theo tiếng Khờ-me (ở đây người ta thường gọi là tiếng Miên) là điều dễ hiểu. Nhưng còn Trăng thì sao? Có phải là con trăng trong tiếng Việt hay là mang một nghĩa nào khác của tiếng Khờ-me? Ðiều này tôi chưa kịp hỏi, nhưng được biết ở đây có trên 30% là người Việt gốc Khờ-me, và cũng có rất nhiều người Hoa lập nghiệp đã từ bao nhiêu đời, nên nhiều người Sóc Trăng nói được cả ba ngôn ngữ Việt, Miên và Tiều.
Nam Đan: Cười cho hết hàm răng
*
Sóc Trăng ư? Khánh Hưng? Ba Xuyên?
Nơi thằng em nằm xuống.
*
Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này. 

Trở lại Ba Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.
Mộ Tuyết
*

V/v Mộ Tuyết 

Quân bất kiến cao đường minh kính...
Chiêu như thanh ty mộ thành tuyết 

Khi Nguyễn Đông Ngạc làm Hai muơi năm văn học Miền Nam, còn có cái tên Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, Gấu chọn truyện này, một phần để vinh danh sư phụ Faulkner [văn phong của truyện ngắn là từ Asalom, Absalom!]
Như sợ không ai nhận ra, Gấu bệ luôn tên sư phụ vô, cho chắc ăn:

Khi anh định viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu thương một người đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái), và như một kinh nghiệm của một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi đó, bởi vì anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo mới nhân dịp sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu tầm thường đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn chương, và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã trải qua đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ một cuộc vui, một cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước (cái không khí túm năm tụm ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến rũ), đã cho anh thêm một chút sức mạnh để chống lại những giấc ngủ lết bết, chống lại sự lười biếng làm tê liệt mọi dự tính: anh sẽ viết về những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa như là là ý nghĩa về đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân thật tầm thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
*
Và nhờ cuốn sách, tấm hình chụp Gấu đứng ở Sở Thú Sài Gòn, và tí tiểu sử, Gấu qua được cửa ải thanh lọc.
Khi đó, có một bà đang tập tành làm nhà văn, Gấu còn nhớ tên, sau đậu thanh lọc, qua Úc, rất mê văn Nguyễn Ngọc Ngạn, nhờ Gấu giới thiệu với ông, và tờ Làng Văn ở Canada.
Bà có mượn, đọc, chê: Viết về đứa em trai tử trận mà không có một dòng xót thương, không một giọt nước mắt.

Cũng góp mặt trong tập truyện, TTT chọn Dọc Đường. Càng về sau này càng thấy, đây là truyện ngắn tuyệt vời nhất của ông.
Gấu cũng nghĩ như thế, về Mộ Tuyết. NQT


  Gấu, nhà văn 

Nhiều khi tí tiểu sử trở thành bùa cứu mạng!

Trước 1975, Gấu có một cái hình, độc nhất, đóng vai nhà văn, một cái tiểu sử độc nhất, như sau đây. Không thể ngờ, chúng trở thành những lá bùa cứu khổ cứu nạn, khi đi thanh lọc, được nhà nước tạm dung xếp vào thành phần tị nạn chính trị, thay vì di dân kinh tế. Nhờ vậy mà sau đó, được phái đoàn Canada chấp nhận.

**

Trích Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên tập, xb trước 1975.
Năm sinh của Gấu, trên ghi 1938, theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh 16.8.1937

Theo Gấu đoán, sau khi gieo quẻ mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG, là do nỗi buồn lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh chạy về xin đầu thú đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”, ‘chết trong tâm hồn’. Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát chết, những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó thù mấy thằng khốn nạn VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến tranh bằng cách đẩy thằng khác vô thế chỗ mình, mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một nỗi “chết trong tâm hồn” khác…
Thú thực Gấu chưa từng thấy một anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng chưa từng có một bài viết, bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái sự về châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm thế.
Gấu này đã từng về "bắt tay với VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được cảnh cáo, thời tiết không đẹp như ngày anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn tụi này, thành thử rét.
Nói rõ hơn, Gấu thù chủ nghĩa CS, chưa từng thù một ông VC nào, trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng tởm.
Gấu tởm chúng một, chúng tởm Gấu muời. Hẳn thế!

Tứ Tấu Khúc về Lan Hương và Sài Gòn

 

 

Lan Hương
Thời Gian

Khu Rừng Trong Đêm

Mùa Hè Miền Nam




Tứ Tấu Khúc Alexandria
Alexandria Quartet
So we, learning to suffer and not condemn
Và chúng ta học đau khổ, không học kết tội
No single imagination can truly own a city
Chẳng có một tưởng tượng đơn độc nào có thể sở hữu một thành phố.
Sài Gòn đâu của chi riêng mi, mà còn của BHD.


*

*

Đọc vậy đủ rồi. Viết đi. Chẳng cần đọc nữa.
Nhớ, những ngày mới qua xứ lạnh, gặp lại cô bạn, và nghe cô ra lệnh.
-Viết về 'chúng ta'? Chữ sao quá chậm ? (1)
(1) Tôi viết kể từ khi em đọc,
Ôi chữ sao quá chậm, so với cuộc tình của chúng ta.

J'écris depuis que tu me lis,
Les mots sont en retard sur nos vies.

Cầm Dương Xanh

Nhưng, nhắc tới Durrell, mà làm sao bỏ qua bạn của ông, Henry Miller?
Số TLS đã dẫn quả là còn một bài nhìn lại Henry Miller, bằng cách đọc "Những Tân Thánh Kinh", New Bibles, tức tác phẩm của Miller, của Anais Nin, bạn gái của ông, bà này sợ còn dzâm hơn cả Miller, và của Durrell.
Henry Miller viết trong Thế giới của Sex, những xen huê tình, erotic scenes, trong những cuốn sách của ông, tương tự như những phép lạ của Chúa Ky Tô, trong Thánh Kinh.
Nin có một câu Gấu rất mê, và đã từng chép, để tặng Gấu Cái:
Mi giống như một con Gấu: Tất cả sự êm ái dịu dàng được bọc bằng một cái vỏ cứng cỏi, cùng với sự sần sùi tuyệt vời của nó, khiến ta chảy tan ra. Ta thật là buồn vì nhà ngươi chẳng bao giờ chịu khó hiểu ta thêm một chút. Tại sao mi không cố hiểu thêm về ta, mà cứ thế ngưng lại, dậm chân tại chỗ?
Chiều hôm qua, ta tự hỏi, làm thế nào, để ta có thể chứng tỏ cho mi thấy, là ta yêu thương mi biết là chừng nào. Làm sao chứng tỏ cho mi biết, bằng một phương tiện cho dù mắc mỏ cỡ nào đối với ta, rằng ta thương mi?
Và ta chỉ tìm ra được một phương tiện, đó là gửi tiền cho mi, để mi đi chơi với con mụ đàn bà nào đó.
Gấu Cái.
Thư của Anais Nin, bồ của Henry Miller, có sửa đổi chút đỉnh, cho hợp với tình cảnh vợ chồng Gấu!
[Tu es comme l'ours, Henry: tout de douceur dans une enveloppe de dureté, avec une délicieuse rugosité suave qui me fait fondre...]
* 

You only live twice
Or so it seems.
One life for yourself
One for your dream

Bạn chỉ sống hai phùa
Một phùa sống
Một phùa mơ
Gấu nhà văn

*
Tứ Tấu Khúc Alexandria
Tứ Tấu Khúc Saigon

Khi gặp BHD, cô bé 11 tuổi, cũng là lúc nỗi nhớ Hà Nội không còn sôi sục như những ngày vừa mới di cư, nhưng đã lặn sâu vào trong xương trong tuỷ, đột nhiên sống dậy, và thế là những gì gì, người nữ muôn đời, thánh nữ… tất cả hiển hiện mồn một trên bộ mặt đen nhẻm với chiếc răng khểnh, cặp mắt thông minh, dò hỏi, tại sao mi nhìn ta như vậy? Mi nghĩ ta là Hà Nội của mi, hử?
Rồi những mối tình sau đó, hình như cũng bị ảnh hưởng bởi mối tình đầu với một cô bé con, thành thử chẳng có mối tình nào có tí mùi sex, mùi lá khô vì đợi chờ, mùi lá ướt tèm nhẹp, mùi cỏ ngai ngái…
Thảm thật, thảm thật!
Thánh thiện thật, thánh thiện thật.
Note: Gấu viết đoạn trên trước khi đọc Tình Cát, trên blog NQL.
*

Sài Gòn nghĩa là gì?
“Đời của mi, ngay ở đây, tại nơi chốn vất đi này, mi đã làm hỏng nó…”
“Hãy nói lời giã từ thành phố mà mi đã đánh mất”
(Lawrence Durrell)
-Sài Gòn nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ.
Khi viết xong tập đầu của một bộ bốn cuốn, về thành phố Alexandrie (Quatuor d’Alexandrie: Justine, Balthazar, Mountolive, Clea, lần lượt xuất bản từ 1957 tới 1960), Lawrence Durrell (1912-1990) đã viết thư cho bạn mình là nhà văn người Mỹ, Henry Miller; bằng một câu nói nổi tiếng, ông định nghĩa tác phẩm của mình: “Đây là một thứ thơ xuôi gửi cho một trong những thủ đô lớn lao của con tim: Thủ đô của hồi tưởng.”
 Tất cả là giả tưởng. Chỉ có thành phố là có thực. Trong Lời Tựa cho cuốn Jusrine,  Henry Miller viết: Đây là một thành phố mà chỉ một người Anh lưu vong tự nguyện, sinh ra tại (dẫy núi) Himalaya, tìm thấy sự trưởng thành của mình tại Hy Lạp, chỉ người đó mới có thể làm cho nó tái sinh. Thành phố không chỉ đóng vai dàn dựng (décor): nó là một thực thể, một sinh vật sống động, mang hơi hám ma quỉ, được tạo nên bằng máu thịt, đất đá, tội ác, mơ mộng, và bằng cả huyền thoại.” “Những nhân vật làm nên cuốn tiểu thuyết cũng có một thực tại khác thường: tôi có thể đoan trước rằng họ sẽ gây sốc và hớp hồn một độc giả Âu châu. Trong họ, có tất cả bụi bặm và những cơn điên loạn của xứ sở Cận Đông.”
 Henry Miller coi câu chuyện kể trải ra, không phải như diễn tiến của một cuốn tiểu thuyết bình thường: nó như soi nhiều tấm gương cùng một lúc; nó uốn éo trong một chất thiêng: ánh sáng. Một thứ ánh sáng siêu nhiên, tắm đẫm hồi tưởng.
Trong Lời Tựa cho toàn tập, ấn bản tiếng Anh, tác giả viết: Đây là một nhóm bốn cuốn tiểu thuyết, được đọc như là một tác phẩm đơn (a single work) dưới tiêu đề chung là Tứ Khúc Alexandria. Cũng có thể cho nó một tiểu đề là: một từ của sự liên tục (a word of continuum, liên tục không gian-thời gian theo Einstein). Theo G. Steiner, Durrell đã chuyển viễn tượng (thuyết) Tương Đối, vào ngôn ngữ và cách tự sự. Ông nhìn thành phố Alexandria theo bốn chiều.
Cuốn Justine xuất bản năm 1957. Đây là một thời điểm rất có ý nghĩa với những độc giả người Việt, nhất là người Việt di cư, và đã từng sống ở Sài Gòn vào thời kỳ đó. Justine đã là một trong những đề tài được đem ra thảo luận của nhóm Sáng Tạo, trong nỗ lực đả phá cái cũ (đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn), và cổ xuý cho một cái mới. Cá nhân tôi tin rằng, mấy ông trong Sáng Tạo “mê” Alexandria của Durrell, là bởi vì vừa mới mất Hà Nội! Phạm Công Thiện cũng rất mê Durrell, nhưng qua một bài viết của ông mà người viết đọc từ thuở nảo thuở nào, ông chỉ mê Justine, cô điếm thượng lưu của thành phố này thôi.
Nhưng đâu phải một mình ông!
Những trích đoạn, là về thành phố Alexandria, nhưng khi đọc chúng, Jennifer tôi tưởng tượng, đây là nói về Sài Gòn:
Chính thành phố phải chịu xét đoán; nhưng chúng ta, những đứa con (của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est la ville qui doit être jugée; mais c’est nous, ses enfants, qui devons payer le prix.)
Sài Gòn là một máy ép tình yêu; thoát ra khỏi, là những kẻ bịnh hoạn, những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất cả những kẻ dục tính bị tổn thương nặng nề.
(Alexandrie était le grand pressoir de l’amour; ceux qui en réchappaient étaient les malades, les solitaires, les prophètes, tous ceux enfin qui ont été profondément blessés dans leur sexe).
Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Lũ đàn ông chúng mình, đều được tạo ra bằng bùn và quỉ ma của Sài Gòn.
(Tout homme est fait de boue et de daimon (1), et la femme ne peut pas nourrir ces deux côtés de sa nature à la fois: Mọi người đàn ông đều được tạo nên bằng bùn và quỉ ma, và một người đàn bà do bản chất, không thể nuôi nấng cả hai khía cạnh này cùng một lúc).
Chú thích: Theo tiếng Hy Lạp cổ, daimôn có nghĩa là “thiên tài che chở” (le génie protecteur), từ này sau có nghĩa là quỉ ma (démon), và còn được chỉ những nhân vật “trung gian” giữa thần và người. (Chú thích bản tiếng Pháp, dịch từ nguyên tác tiếng Anh, của Roger Giroux, nhà xb Buchet-Chastel, 1959, lần tái bản tháng Năm, 2000)

*

Liz , do Avedon chụp tại Nữu Ước, 1958, thời kỳ được Oscar khi đóng "Mèo trên mái nhà nóng", "Cat on a Hot Tin Roof".

Khi về, cô bé có thói quen để cô em vô nhà, còn cô chạy đến bên phông tên ngay bên đường cách nhà chừng mười bước để rửa chân, thật ra để đùa nghịch cùng những giọt nước. Những cử chỉ, dáng điệu của cô làm tôi sau này vẫn thường băn khoăn tự hỏi, không biết cô bé đi đón em tan trường về, hay ngược lại. Những giọt nước bị đôi bàn tay nhỏ bé ngăn chặn, bắn tung tóe, trầm bổng, trở thành muôn vàn nụ cười trên môi, trên má, trên tóc, càng thêm long lanh nhờ ánh mắt tinh nghịch, nhờ nụ cười, tôi gặp lại hình ảnh tuyệt vời này trong phim "Lần cuối nhìn Paris", như thể chính cô bé của tôi đã khám phá ra, đã tìm lại cho cả Châu Âu, cho cả loài người, một thành phố Paris bị chiếm đóng vừa được giải tỏa, và nữ tài tử Liz Taylor chỉ lập lại những cử chỉ thật đàn bà của một cô bé con-người nữ muôn đời ở trong tôi.
Lần Cuối Sài Gòn

Cảnh cô bé rửa tay chân ở máy nước trước nhà, cũng là vào năm 1958. Quái thế!
[Gấu nhớ rõ, vì đó là năm Gấu đậu Tú Tài, vừa mới quen cô bé].

*


Mỗi bài thơ là một khó. Thường xuyên, dòng đầu là quà tặng, tôi không biết, của Giời hay của khả năng bí hiểm mà người ta gọi là hứng khởi. Thí dụ bài Sun Stone, Đá Mặt Trời, của tôi: Tôi viết ba muơi dòng đầu, như có một người nào đó âm thầm đọc cho tôi chép. Tôi ngạc nhiên thấy thơ cứ thế tuôn trào, chúng như ở thật xa, mà cũng như thật gần, như ở ngay trong lồng ngực. Bất thình lình, ngưng! Tôi đọc lại, thấy chẳng phải sửa chữa gì hết. Nhưng đó chỉ là đoạn mở. Và tôi chẳng làm sao tiếp tục. Vài ngày sau, tôi khởi sự tiếp, không phải theo kiểu thụ động, mà là cố đẩy những dòng về hướng này, hướng nọ, và tôi viết thêm được ba muơi, hoặc bốn mươi dòng nữa. Tôi ngưng. Vài ngày sau, lại trở lại với nó. Bằng cách dị mọ như vậy, tôi khám phá ra trọn giọng điệu của bài thơ, và nó hướng về đâu. Nó giống như một cách điểm lại đời mình, một sự tái sinh của kinh nghiệm, nỗi quan hoài, những thất bại, những ám ảnh của tôi. Tôi nhận ra tôi đang sống khúc cuối tuổi trẻ của mình, và bài thơ, cùng lúc, vừa là một tận cùng, vừa là một bắt đầu. Octavio Paz
Ui chao, ông này phán về thơ, y chang như Gấu tính phán, về mối tình của Gấu, với BHD:
Tôi nhận ra tôi đang sống khúc cuối tuổi trẻ của mình, và BHD, cùng lúc, vừa là một tận cùng, vừa là một bắt đầu. (1)
(1) Tận cùng: Nhiều tận cùng lắm! Tận cùng một cuộc đời, một cuộc chiến, một cuộc tình....
Bắt đầu: Ouvrez-moi cette porte... Cửa sắp mở, Gấu sắp đi, và gặp BHD, và bắt đầu, và biết đâu, cuộc đời sau sẽ rộng lượng hơn cuộc đời này! [mô phỏng Brodsky]:

Give me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former
Cho tôi một đời khác, và tôi sẽ hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời này
To my daughter

No single imagination can truly own a city, so when we speak of Proust’s Paris , Joyce’s Dublin , Musil’s Vienna and Lawrence Durrell’s Alexandria , we are really clearing a space in our minds where specific happenings and feelings may be identified and reconvened. It is these novelists’ pressing need to set their narratives down in some palpable place, almost as aliens colonizing a territory, rather than a compulsion to celebrate their country or fictionalize an already famous vicinity that leads to their iconic inventions. Nguồn

K dịch giùm, Tks. NQT

Không một đầu óc tưởng tượng nào, một mình nó, có thể thực sự sở hữu một thành phố đâu, bởi thế khi chúng ta nói đến Paris của Proust, Dublin của Joyce, Vienna của Musil và Alexandria của Lawrence Durrell, là chúng ta đã dọn sạch một chỗ trống trong trí óc chúng ta sẵn sàng để cho những sự kiện và cảm xúc đặc thù nào đó được nhận diện và gom góp lại . Chính vì sự cần thiết phải sắp đặt những tình tiết chuyện kể của các nhà văn này vào một nơi chốn có thể chạm tay tới được, gần như theo kiểu ngoại nhân tìm cách chiếm hữu một vùng đất nào đó làm thuộc địa, hơn là ý hướng thăng hoa đất nước mình, hoặc  tiểu thuyết hóa một khu vực đã nổi tiếng sẵn, đã dẫn dắt họ đến những sáng tạo đầy biểu tượng.
Tks
Cau nay hay qua, ma kho dich qua
Nhat la khuc sau.
Tks again
NQT
TB: Đang chạy nước rút với Istanbul. NQT

Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Đó còn là nỗi sợ hãi đời sống, và mong muốn có một người cùng chia sẻ. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh buốt. Hình như bằng những xôn xao, những mơ hồ như vậy tôi viết cho Lan Hương những dòng cuối cùng: "Anh không sợ chúng ta không yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá".
Note: Câu văn trên, và cả cái truyện,
Lần Cuối Sài Gòn được viết tại Trại tị nạn Thái Lan, cc 1989-90.
Khi tờ LV ở Canada vô được Trại Cấm, một anh nhóc, đọc câu chót, phán, khủng khiếp quá!
"Anh không sợ chúng ta không yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá".
Xạo hết chỗ nói, tới cỡ đó, mà vẫn mất em như thường!

*

.. một cuốn tiểu thuyết của Durrell, nàng tặng chàng...  vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme” Thời Gian

Bài trên TLS, số 22 & 29 Tháng Tám, 2008, “Những tân thánh kinh”, Karl Orend điểm một số sách mới ra lò về Miller, đưa ra câu hỏi, nếu ông ta là sư phụ của...  PCT, thì sư phụ của ông ta là ai ? Và nếu những xen làm tình ở trong những tác phẩm của ông, thì cũng giống như những phép lạ của Chúa Ky Tô, ông là tín hữu Ky Tô, hay đệ tử của Phật ?
Cuốn “Sự tạo thành một thần tượng phản văn hóa”, của Maria Bloshteyn [Nhà xb Toronto Press, 262 trang, 60 US], còn có tiểu tít là “Dostoevsky của Henry Miller”, được coi là một thành tựu lớn lao, quan trọng trong trường văn chương so sánh. Nữ tác giả này thật liều cùng mình [It requires courage], khi coi một tác giả ở ngoài luồng đối với định chế văn chương Mẽo, tức Miller, là đề tài, và nghiên cứu, tìm hiểu sự liên hệ với một tiểu thuyết gia được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 19: Dos.
Bloshteyn, thật nghiêm trọng, khi coi Miller "như là một nhà văn". Mục tiêu của bà, là phám phá, khai triển, điều, bằng cách nào ông ta [Miller], Durrell, và Nin, được tạo hứng bởi Dos, về tư tưởng, và về văn phong.
Bạn của Miller, là Karl Wickens, có bà vợ là Beatrice, bà này vặc ông chồng, tại sao anh đối xử với Miller như là bạn quí, mà ngược lại, ông ta đếch coi anh là cái thứ chó gì, ông chồng nghiêm trang trả lời vợ: Anh tin rằng Miller sẽ là một Dostoevsky của Mẽo [Gấu bỗng tự hỏi, tại sao PCT không là một Dos của Mít?].
Bloshteyn chứng tỏ, cả ba đều đọc sai Dos, vì dụng ý của riêng họ. [Bloshteyn shows how Miller, Durrell and Nin all ‘misread’ Dos in line with their own bias and needs]
*
Hai bài viết, một, điểm những cuốn sách mới ra lò liên quan tới bộ ba Miller, người tình, Nin, và bạn, Durrell, và một, giới thiệu ấn bản mới nhất sắp ra lò của Tứ Khúc Alexandria, đều tuyệt. Tin Văn làm link và scan, hy vọng sẽ có dịp chuyển ngữ hầu độc giả.
Tứ Khúc Alexandria

Two poems from his Alexandrian period are keys to the Alexandrian tetralogy: “On First Looking into Loeb’s Horace” and “Alexandria”. The second of these is really a poem against the city, or more correctly a lament by an exile from Europe reacting to the place of his confinement; it ends sadly and lyrically.
So we, learning to suffer and not condemn
Can only wish you this great pure wind
Condemned by Greece, and turning like a helm
Inland where it smokes the fires of men,
Spins weathercocks on farms or catches
The lovers at their quarrels in the sheets;
Or as a walker in the darkness might,
Knocks and disturbs the artist at his papers
Up there alone, upon the alps of night.
It was on these very “alps of night” that Durrell was to analyse the lives and actions of his people, often encountered as walkers in the darkness, and fit them into an uncertain world, like insects caught in amber.