*

Gấu nhớ nhà
1


















Gấu có nhớ nhà không?

Bánh cuốn Thanh Trì
Tình cờ đọc lại bài viết của Vũ Bằng, mới thấy văn phong Mít, mới từ 1957 tới giờ, cũng đã ngậm ngùi tang thương dâu bể.
Nhưng, ngay cả cách ăn, cách thưởng thức, bánh cuốn Thanh Trì, như VB miêu tả, thì cũng thật dâu bể, so với cách của Gấu!

..... Khi đã đi làm, có lương tháng, có nhà ở, do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không cho ngoái cổ nhìn lại con hẻm xưa, có những buổi sáng chạy xe vòng vòng đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết đâu còn sót lại qua dĩa bánh cuốn Thanh Trì, nơi con hẻm đường Trần Khắc Chân, khu Tân Định. Thứ bánh cuốn mỏng tanh, không nhân, chấm nước mắm nhĩ màu mật, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa. Chủ nhật đổi món bún thang dậy mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng chút thơm tho của đôi ba giọt cà cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù... Nhìn bước đi thời gian trên khuôn mặt xinh tươi của mấy cô con gái bà chủ tiệm, mới ngày nào còn tranh giành đồ chơi, còn tị nạnh đùn đẩy nhau trong việc phục vụ khách, bây giờ đã biết đỏ mặt trước mấy cậu thanh niên. Tự nhủ thầm hay là tới 79 đợi một tô phở đặc biệt sau khi len lỏi qua các dẫy bàn chật cứng thực khách, cố tìm một cái ghế trống. Hay tới quán bà Ba Bủng để rồi lưỡng lự, giữa một tô bún ốc; cố tìm lại hình bóng con ốc nhồi ngày xưa, tại một vùng quê của xứ Bắc Kỳ xa lơ xa lắc, chỉ muốn quên đi, chỉ muốn chối từ nhưng cuối cùng khám phá ra, trong đáy sâu âm u của tâm hồn, của tiềm thức, của quá khứ, hiện tại, tương lai, của hy vọng, thất vọng, của hạnh phúc, khổ đau... vẫn có một con ốc nhồi ẩn náu dưới mớ bèo trên mặt ao đầy váng; giữa một tô bún riêu, hay một tô bún chả thơm phức vẫn còn chút dư vị chợ Đồng Xuân, mới ngày nào được về Hà-nội ăn học. Ôi tất cả, chỉ vì thèm nghe cho được cái âm thanh ấm áp của mấy đồng bạc cắc reo vui suốt con hẻm Đội Có, Bà Trẻ cho, ngày nào, ngày nào...
Lần Cuối Sài Gòn
Quan trọng nhất, trong bánh cuốn Thanh Trì, là nước mắm chấm, và phải là nước mắm nhĩ!
Vũ Bằng cũng không giải thích, tại sao bánh cuốn Thanh Trì lại liên can, mắc mớ tới nỗi sầu Hà Nội?

*
Bẩy Đêm

Đây là cuốn sách đầu tiên mà Gấu nhìn thấy, của Borges, tại một thư viện Toronto, những ngày đầu đến xứ lạnh. Gồm những bài diễn thuyết của Borges. Nhan đề là từ Ngàn lẻ một đêm, một trong những đề tài diễn thuyết trong bẩy đêm, của Borges.
Lần đó, mê bài viết về Đạo Phật của ông, photocopy, mang về, cũng chưa có thì giờ đọc, lần này vớ được nó trong một tiệm sách cũ.
Nhưng không hiểu, khi đặt tít như vậy, Borges có có trong đầu, cuốn Bẩy đêm khoái lạc?
Đêm Borges nói về thơ ca, kết thúc bằng câu này, mà chẳng khoái [lạc] sao?
Bông hồng thì chẳng tại sao. Nó nở bởi vì nó nở.
The Rose has no why, it flowers because it flowers.
[Nguyên tác tiếng Tây Ban Nha]
Heidegger cũng đã từng sử dụng câu thơ trên, làm nhan đề cho một chương sách của ông.

Vĩnh Biệt
La rose est sans pourquoi, fleurit parce qu'elle fleurit,
N'a souci d'elle-même, ne désire d'être vue.
Bông hồng thì chẳng tại sao, nở hoa bởi vì nở hoa
Chẳng lo lắng gì về mình, chẳng muốn ai nhìn thấy mình
Heidegger trích dẫn Angelus Silesius, trong
Nguyên lý của trí tuệ, Le Principe de raison
*
Like a bird, echo will answer me.

B.P [Boris Pasternak]
*
And the heart doesn't die when one thinks it should.
Czeslaw Milosz, "Elegy for N.N".
*
Ông già bán một quầy nước nhỏ đìu hiu ven bậc thang xuống thác Bạc, bằng câu chuyện đời mình, lại giải thích được tại sao thị trấn có vẻ không có sức sống, dù thơ mộng bên sườn núi. Những người dân lao động đã được (hay bị ?!) chuyển xuống khu dân cư dưới chân núi. Theo hướng ngón tay quăn queo, vượt qua những ngọn cây xa xa, là xóm ông, nơi mỗi ngày ông già bảy mươi tuổi cắp thùng nước đá đi về gần mười cây số để kiếm sống.
Tôi nhìn về phía nhà ông, nghĩ, ở đó, tôi mới nhìn thấy khói le lói từ những bếp than tổ ong sắp bắt lửa, mới nhìn thấy một ngày thường, thấy mồ hôi trên những khuôn mặt lam lũ, nhọc nhằn, nhưng gần gũi, thân thiện. Ở đó, tôi mới ghi được những bức ảnh trẻ con mắt trong veo níu nhau ríu rít cười phô răng sún.
Chứ không phải chỉ có mây mù...

Nguyễn Ngọc Tư: Chỉ còn lại là mây mù.
*
... và, nếu như thế, “hậu thế” sẽ đọc Gấu qua... BHD!
Phách lối vừa thôi cha nội!
Tuy nhiên, đây chính là lời khen của độc giả Tin Văn, không phải chỉ một người.
Ngoài những trang về BHD ra, còn lại là đen thui.
Một độc giả, từ thưở Gấu vừa mới khởi nghiệp, cũng bạn văn, phán, ui chao đọc lại Tứ Khúc mới thấy khủng khiếp! Thảo nào mấy đấng bạn quí của anh thù anh đến như thế!
Tác phẩm lớn có sự đóng góp của Quỉ. Gide phán về Dos.
Nếu như thế, phần đóng góp của Quỉ Đỏ mới khủng khiếp làm sao, ở trong
Tứ tấu khúc, Cõi khác
*
Mối tình tưởng tượng nhưng luôn có cảm tưởng cuộc chiến coi nó như kẻ thù, luôn soi mói rình rập, khi nhắn nhủ khi đe dọa, phải chi mi đừng tưởng tượng ra một cô bạn tuyệt vời như vậy, phải chi mi bớt yêu thương cô bạn đi một chút, số phận không phải của riêng mi mà biết đâu của cả dân tộc sẽ bớt chút thê thảm. Khi cô bạn tìm được người bạn đời, mi không còn trông cậy vào đâu để chạy trốn nỗi cô đơn, đành trốn chui trốn nhũi vào trong mớ sách vở, và khi hết còn chịu đựng nổi, đã tàn phá đời mi thay vì chịu thua... Đó những ngày trên khuôn mặt người dân Sài-gòn khi ra đường còn nguyên vẻ hốc hác mất ngủ, xen đôi nét mừng rỡ vì đêm qua Việt Cộng tha không pháo kích vô thành phố. Hằng đêm, họ không còn được nghe lời ân cần chúc đồng bào ngủ ngon, xin đồng bào vặn nhỏ chiếc la-dô để khỏi làm phiền bà con lối xóm. Thay vào đó là một giọng nói đã được gột bỏ mọi rào đón: Tên những người phải trình diện theo lệnh Tổng Động Viên, nghe như đã thuộc tài nguyên của một thế giới khác, những con số kèm theo tên mỗi người ít ra còn chút ý nghĩa vì chúng cho biết sắp tới lượt ai được Thần Chết coi giò coi cẳng...
*
Ui chao phách lối thiệt. Giá mà Gấu này đừng phịa ra một cô bạn thánh nữ hơn cả thánh nữ, như thế, có khi vưỡn còn Miền Nam!

Khi rời Hà Nội, Gấu muời bốn mười lăm tuổi, cỡ đó, và, ký ức của Gấu về nó, là của một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ may mắn được ra Hà Nội học. Và khi nhớ lại, quãng đời tuyệt vời như thế, không có hình bóng một cô bé con, thì “nói không được, nói không được”, và, có thể vì vậy, khi nhìn thấy BHD lần đầu, một cô bé đen nhẻm, ốm tong ốm teo, nhưng cặp mắt thì cực kỳ thông minh, nụ cười phô ra chiếc răng khểnh… Gấu này bèn ơ ra ka một tiếng, Hà Nội của Gấu thiếu đúng hình bóng của cô bé mười một tuổi này!
Bởi vì phải như vậy, mới hiểu được, tại sao, khi BHD bỏ đi, em cay đắng phán:
"Mi đâu có yêu thương gì ta, mi yêu thương một con bé 11 tuổi, là ta, từ đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé đó."
Nếu không, tại sao cô Nga, một nữ điện thoại viên trên Đài, sau khi đọc những dòng chữ trong lá thư đầu tiên của BHD gửi cho Gấu, “thứ tình yêu đầy đam mê mà anh có đó, em không có”, bèn phán:
“Cái cô bé này không có thương cậu đâu!”