Gấu nhớ nhà
1
|
Trước
1975, là
một chuyên viên kỹ thuật của Bưu Điện, Gấu coi chuyện viết văn là
chuyện ở
ngoài cõi đời thường, ngày hai bữa đi làm kiếm tiền nuôi thân, nuôi gia
đình.
Trong sở, trừ một số thật thân, ít người biết Gấu làm nghề vụng trộm đó.
Nói vụng trộm, là cả với gia đình, người thân. Mỗi lần viết, là phải
đợi cho vợ
con đi ngủ hết, mình cũng giả đò đi ngủ, và sau đó, len lén dậy, len
lén ra
bàn, bật cái đèn nho nhỏ, ánh sáng vừa đủ chiếu trang giấy, và sau đó,
rị mọ
viết. Khi đã nhập, chẳng còn biết mọi chuyện xung quanh, có khi Gấu Cái
đứng
ngay trước mặt, Gấu Đực tui cũng chỉ nhìn trân trân, không ý thức,
không cảm
giác, không nhận ra là ai. Đó là những lúc đang lên đồng, đang nhập
đồng.
Còn khi chưa nhập, bị bắt gặp tại trận đang làm cái việc vụng trộm
đó, Gấu bực lắm. Cáu lắm. Gắt nhặng lên.
Ui chao, đọc lại mới thấy đau lòng. Có những lần Gấu Cái cần chồng quá,
thức dậy,
ghé vô tai, thôi đi ngủ, khuya rồi, vậy mà cũng gắt nhặng lên!
Nhớ
gì khi không nhớ gì?
L'écrivain
est posthume à lui-même. Beckett
Khi
Gấu ra ngoài này, là hết
mùa biển động. Một "bà bạn văn" ngày nào ra ý ngạc nhiên, đi làm khỉ
gì nữa?
Đi
đã khó, về lại càng khó.
Jean
Roudaut, viết về Beckett, [bài trên, trong số Văn Học, Le Magazine
Littéraire, hors-série, đặc biệt dành cho Đam Mê, La Passion, Théâtre
de l'existence, Tháng Tám & Chín,
2008],
những nhân vật của ông lúc nào cũng mầy mò, cựa quậy, và khi bị kết án
phải bất
động, ở lỳ một chỗ, họ đào huyệt của họ.
Ui chao, chẳng lẽ
Tin Văn
thành cái huyệt của Gấu này ư?
"THE USES OF POETRY"
byAnneAtik
FOR S.B. (13 APRIL
1906-22 DECEMBER 1989)
I
A Bible-reading man,
he came and left between two holy days he didn't much observe:
the Good Friday of
his birth, near the Christmas of his death.
His life between, a
pilgrim's progress with a smile for what he saw along the way and wrote
of, oversleeping, age and hope and sloth.
Then saw, and wrote
of, wrenched along the way, age and hope and helpless weeping. But
he would have,
reading those two states, rejected both as most remotely holding but
one part
or more than minute
dose
of the
inexpressible, whole truth of how it is, it was.
II
He showed the
shortest way to get across a line like this:
crossed out such
words as these to get to speechlessness.
He crossed out
rivers to get to their stones.
To get to the
bottom, when the crisis is reached and truth-telling begins.
Whatever he knew he
knew to music.
He found the pace
for misery, matched distress to syncope, and joke to a Beethoven stop
at the punch line.
But thought that
he'd failed to find failure's pulse.
What that says about
failure, music and us.
*
Beckett chẳng hề muốn được đối xử như một vì thánh.
Tôi thì cũng không tính làm như thế.
James Knowlson: Damned to Fame: The
Life of Samuel Beckett
|
|