|
Thơ Mỗi Ngày
Đặt
tay vô chỗ không thể đặt. MT
Bạn click vô chỗ không thể click, thì ra.... bài điểm sách:
Vagina: Một tiểu sử mới
TO THE
HYPHENATED POETS
Richer than
mother's milk
is
half-and-half.
Friends of
two minds,
redouble
your craft.
Our shelves
our hives, our selves
a royal
jelly,
may we at
Benares and Boston,
Phillyand
Delhi
collect our
birthright nectar.
No swarm our
own,
we must be
industrious, both
queen and
drone.
Being two
beings requires
a rage for
rigor,
rewritable
memory,
hybrid
vigor.
English
herself is a crossbred
- mother
mutt,
primly
promiscuous
and hot to
rut.
Oneness?
Pure chimera.
Splendor is
spliced.
Make your
halves into something
twice your size,
your tongue
a hyphen joining
nation to
nation.
Recombine,
become a thing
of your own
creation,
a
many-minded mongel,
the line's
renewal,
self-made
and twofold,
soul and
dual.
-Amit
Majmudar
The New
Yorker Sept 17, 2012
Charles Simic
Against Winter
The truth is dark under
your eyelids.
What are you going to do about it?
The birds are silent; there's no one to ask.
All day long you'll squint at the gray sky.
When the wind blows you'll shiver like straw.
A meek little lamb you
grew your wool
Till they came after you with huge shears
Flies hovered over your open mouth,
Then they, too, flew off like the leaves,
The bare branches reached after them in vain.
Winter coming. Like the
last heroic soldier
Of a defeated army, you'll stay at your post,
Head bared to the first snowflake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You're crazier than the weather, Charlie.
The Paris Review, Issue 137,1995
Chống Đông
Sự thực thì mầu xám dưới
mi mắt anh
Anh sẽ làm gì với nó?
Chim chóc nín thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày dài anh lé xệch ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió thổi, anh run như cọng rơm.
Con cừu nhỏ, anh vỗ béo bộ
lông của anh
Cho tới bữa họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ trên cái miệng há hốc của anh
Rồi chúng cũng bay đi như những chiếc lá
Cành cây trần trụi với theo nhưng vô ích.
Mùa Đông tới. Như tên lính
anh dũng cuối cùng
Của một đạo quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng hơn cả thời tiết, Charlie. (1)
Liu Xiaobo: That Day
Interview
with Haris Vlavianos
Ông làm thơ
hay thơ làm ông?
Do you write
the poem or does the poem write you?
Thoạt đầu bạn
làm thơ, sau tới những bài thơ làm thơ, và sau cùng, những bài thơ làm
thi sĩ.
"Even
God Needs an Eye-Witness"
So that man
no longer
exists.
He spoke for
a while
then fell silent.
A mourning
veil
- virtually
transparent -
now covers
his
favourite words,
those that
once
had given
him
(with no
little generosity)
his share of
silence:
of the
night's whiteness
(flakes of
clear conscience
in the
page's margin)
and death.
Perhaps, one
day;
when turning
to look back
we'll feel
his absence
weighing
upon us
like his
voice,
when our
thoughts
on his
irrevocable end
light the
path
of our own
exile.
HARIS
VLAVIANOS (1)
Translated
by David Connolly
TLS 10 September,
2010
“Ngay Ông Giời Cũng Cần Chứng Nhân
Nhìn Tận Mắt”
Như vậy là
người đàn ông đó
Không còn nữa
Ông ta lèm bèm
một lúc
Rồi lặng
thinh
Một tấm khăn
tang
-Gần như
trong suốt-
Vào lúc này
phủ lên những từ bảnh tỏng của ông ta
Những từ đã
có lần
Đem đến
(không phải
không có tí ti rộng lượng)
Phần chia nín
khe của ông:
Của sắc trắng
của đêm
(những bông
lương tâm trong trắng
ở lề trang sách)
và cái chết.
Có lẽ một ngày
nào đó
Khi ngoái nhìn
lại
Chúng ta cảm
nhận sự vắng mặt của ông ta
Đè lên chúng
ta
Như tiếng nói
của ông,
Khi những ý
nghĩ của chúng ta về sự tận cùng không thể thay đổi của ông
Soi sáng con
đường lưu vong của riêng chúng ta
Live at Club
Revolution
Our nation's
future's coming into view
With a
muffled drumroll
In a slow,
absentminded striptease.
Her
shoulders are already undraped,
And so is
one of her sagging breasts.
The kisses
she blows to us
Are as cold
as prison walls.
Once we were
a large wedding party.
It was a
sunny weekend in June.
Women wore
flowers on their straw hats
And white
gloves over their hands.
Now we run
dodging cars on the highway.
The groom,
someone points out, looks like
President
Lincoln on a death notice.
It's time to
burn witches again,
The minister
shouts to the congregation
Tossing the
Bible to the ceiling.
Are those
Corinna Brown's red panties
We see
flying through the dark winter trees,
Or merely a
lone crow taking home
His portion
of the day's roadkill?
Charles
Simic
Nhạc sống tại
Câu Lạc Bộ Cách Mạng Thành Hồ
Tương lai xứ
Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống
tắc nghẹn
Trong một
xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ
để trần
Cũng thế, là
một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em
ban cho chúng ta
Lạnh như tường
nhà tù Phan Đăng Lưu
Một lần tụi
này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend
có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang
trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi
này đang chạy xe lắt léo trên
xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một
tay nào chỉ ra,
Sao giống y
chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.
Đã đến giờ lại
thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la
lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn
Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy
cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn
thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1
chú quạ
đem về nhà
phần chia những
xác chết vì xe cán trong ngày?
Mother
Tongue
That's the
one the butcher
Wraps in a
newspaper
And throws
on the rusty scale
Before you
take it home
Where a
black cat will leap
Off the cold
stove
Licking its
whiskers
At the sound
of her name
Charles
Simic
Tôi êu tiếng
nước tôi
Đó là thứ tiếng
mà tay đồ tể
Gói trong tờ
báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ
Lăng,
Rồi thẩy lên
cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả
tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen
nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy
sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu
Miu”
Bữa rượu nhỏ
Nàng không
tin nàng còn xinh
Cười đưa hoa
ấu chồng mình ngắm chơi
Rót ly rượu
nhỏ cùng soi
Chân mày môi
má hồng thôi là hồng (1)
Đặng Lệ
Khánh
Note: Bắc
Kít nói, Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!
Tks
NQT
Người Huế
cũng nói "hồng ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì hơi "liếng"
.
Để nghiêm chỉnh hơn một tí thì dùng chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch
và viết nhiều quá, K đọc không kịp !!!
Tôi tính chỉ
dịch thơ, và dịch 1 số truyện ngắn, và bỏ hết những mục khác, nhưng
chưa được.
Tôi cũng định
chuyển 1 số bài viết cho a2a, nhưng phải là những bài nhẹ nhàng, và
“hoàn tất”!
Tks agian
NQT
Giáng Sinh
Giáng Sinh
chưa nhấp môi đã thấy nhớ nhà
Dường như có
một người bạn thân ở trong ta
Đi rất xa
Rất lâu
Chợt về đêm
nay
Người bạn
thân hay là quê hương cũ
Tiếng cười
xưa rộn rã với đêm này
Nến rực rỡ
soi hồn ta rất rõ
Chút ngậm
ngùi bay theo hơi rượu cay.
Rượu rất cay
mà lòng rất vui
Chúc tụng
nhau bằng bài thơ mới
Ba mươi năm
thơ vẫn đẹp như người.
Bữa rượu nhỏ
làm Gấu nhớ đến bài trên làm bữa Noel đầu
tiên, 1994, gặp lại cô bạn ở Xứ Lạnh.
Gấu Cái giận
ơi là giận vì dòng thơ chót.
Thiếu
Khanh
Giới thiệu
bài thơ Tiểu Chước của Cao Bá Quát
Nàng nghĩ
mình lúc này già xấu
Đưa chồng
xem bông ấu trên tay
Mời ta chung
rượu rót đầy
Lung linh phản
chiếu nét mày thắm tươi
Note:
Có câu ca
dao liên quan tới trái ấu, cũng hợp với bài thơ này lắm.
Nhân SN, mượn
đỡ, tặng Gấu Cái!
NQT
blue. tháng
8
tháng 8.
ngày còn lại. dấu chấm
31. buồn.
vòng xoay
một điểm cuối.
tháng 8
trời ui mây.
trĩu
black. dừng
lại. tháng 8
xác ve. vào
buổi sớm
74 độ f. lúc
6 giờ. sáng
lần cuối.
tháng 8. buồn
hơi thở.
sương mù
blue. quạnh.
quẽ
mùa bão. biển.
ngày
31 cuối. đừng
buồn
không blue.
mùa hè đi. qua
tháng 8. em.
đừng nói
câu. trĩu
đen trời. thấp
qua mau. qua
mau. ngày
31. tháng 8.
những giọt nước
sũng lời
nói. chia xa
vẳng. theo
tiếng chuông. sớm
những chiếc
lá. chưa muốn. lìa
cành. café đắng
hơn. ngày cuối
con đường nhỏ.
trước nhà. rưng rức
nước. tị
tách xoay. quanh
bóng nước.
dáng em ngồi. hiên nhà
tóc xỏa. chiếc
ghế đu đưa
theo điệu
gió. tháng 8
không nắng.
buồn. vỡ. theo
những giọt
nước. em
hôn nhau.
trên những cánh hoa
tàn tạ. rũ
rơi. ngày cuối. 31
giờ cuối.
tháng 8
black. blue
tháng 8 chấm
buồn
Đài Sử
Limits
Of all the
streets that blur into the sunset,
there must
be one (which, I am not sure)
that I by
now have walked for the last time
without
guessing it, the pawn of that Someone
who fixes in
advance omnipotent laws,
sets up a
secret and unwavering scale
for all the
shadows, dreams, and forms
woven into
the texture of this life.
If there is
a limit to all things and a measure
and a last
time and nothing more and forgetfulness,
who will
tell us to whom-in this house
we without
knowing it have said farewell?
Through the
dawning window night withdraws
and among
the stacked books that throw
irregular
shadows on the dim table,
there must
be one which I will never read.
There is in
the South more than one worn gate,
with its
cement urns and planted cactus,
which is
already forbidden to my entry,
inaccessible,
as in a lithograph.
There is a
door you have closed forever
and some
mirror is expecting you in vain;
to you the
crossroads seem wide open,
yet watching
you, four-faced, is a Janus.
There is
among all your memories one
which has
now been lost beyond recall.
You will not
be seen going down to that fountain,
neither by
white sun nor by yellow moon.
You will
never recapture what the Persian
said in his
language woven with birds and roses,
when, in the
sunset, before the light disperses,
you wish to
give words to unforgettable things.
And the
steadily-flowing Rhone and the lake,
all that
vast yesterday over which today I bend?
They will be
as lost as Carthage,
scourged by
the Romans with fire and salt.
At dawn I
seem to hear the turbulent
murmur of
crowds milling and fading away;
they are all
I have been loved by, forgotten by;
space, time,
and Borges now are leaving me.
-A.R.
LIMITES
Creusé par le
long cours des trottoirs et des toits
Le soir décline.
Quelques-unes de ces rues
- Mais
lesquelles ? - je dois les avoir parcourues,
Sans le
savoir, déjà pour la dernière fois.
Je suis
promis à vous, toutes-puissantes normes ;
Je subis
l'ordre étroit secrètement fixé
A ces
tenebres, à ces rêves, à ces formes
Par quoi
l'homme est tissé, détissé, retissé.
La mesure et
la fin, ce qui va disparaitre,
Le
«désormais », le «jamais plus » plaisent à Dieu :
II est dans
nos maisons quelqu'un, tout près peut-être,
A qui sans le
savoir nous avons dit adieu.
La veille se
prolonge ; à la fenêtre grise
Va s'achever
la nuit. De ces livres en tas
Dont l'ombre
se répand sur la table indécise
II en est
quelques-uns que nous ne lirons pas.
Je connais
vers le Sud, sous l'agave et la mure
Et la jarre
en ciment, un vieux portail perdu.
Je l'aimais
bien; il m'est désormais défendu
Comme s'il
n'existait que sur une gravure.
Quelques
miroirs jamais ne te regarderont ;
Ces portes,
tu les as pour toujours condamnées ;
Le carrefour
semble s'ouvrir à tes journées,
Mais il est
surveillé par Janus Quadrifront.
Ta mémoire
te reste ; et pourtant il est une
Image que tu
vois pour la dernière fois.
Jamais le
blanc soleil, jamais la jaune lune
Ne te
verront descendre à la source des bois.
Cette langue
d'oiseaux, de coupes et de roses
Que
t'offrait le Persan, tu ne l'entendras plus;
Elle t'échappera
quand dans les soirs diffus
Tu voudras
murmurer d'inoubliables choses.
Et mon passé
d'Europe, aujourd'hui si réel,
Et ce Rhone
incessant, et son lac, et le Tage?
lis
connaitront bien tot le néant de Carthage
Qu'effaca le
Latin par la flamme et le sel.
Je crois
entendre au loin des rumeurs qui s'agitent,
Désordre de
départs au levant embrume ;
Une foule
m'oublie après m'avoir aimé ;
Voila le
temps, l'espace et Borges qui me quittent.
Note: GCC
mới
kiếm thấy bản tiếng Tây.
Sẽ sửa lại bản tiếng Việt
RAYMOND
CARVER
THE BLUE
STONES
If I call
stones blue it is because
blue is the
precise word, believe me.
-FLAUBERT
You are
writing a love scene
between Emma
Bovary and Rodolphe Boulanger,
but love has
nothing to do with it.
You are
writing about sexual desire,
that longing
of one person to possess another
whose
ultimate aim is penetration.
Love has
nothing to do with it.
You write
and write that scene
until you
arouse yourself,
masturbate
into a handkerchief.
Still, you
don't get up from the desk
for hours.
You go on writing that scene,
writing
about hunger, blind energy-
the very
nature of sex-
a fiery
leaning into consequence
and
eventually, utter ruin
if
unbridled. And sex,
what is sex
if it is not unbridled?
You walk on
the strand that night
with your
magpie friend, Ed Concourt,
You tell him
when you write
love scenes
these days you can jackoff
without
leaving your desk.
"Love
has nothing to do with it," you say.
You enjoy a
cigar and a clear view of Jersey.
The tide is
going out across the shingle,
and nothing
on earth can stop it.
The smooth
stones you pick up and examine
under the moon's light have been made blue
from the sea. Next morning when you pull them
from your trouser pocket, they are still blue.
-for my wife
THE CURRENT
These fish
have no eyes
these silver
fish that come to me in dreams,
scattering
their roe and milt
in the
pockets of my brain.
But there's
one that comes-
heavy,
scarred, silent like the rest,
that simply
holds against the current,
closing its
dark mouth against
the current,
closing and opening
as it holds
to the current.
LE COURANT
Ils n'ont
pas d'yeux, ces poissons
ces poissons
d'argent qui me visitent en rêve,
semant leurs
oeufs et leur laitance
dans les
poches de mon cerveau.
Mais il en
est un qui vient -
énorme,
balafré, muet comme les autres,
qui se
maintient simplement contre le courant,
fermant sa
bouche sombre contre
le courant,
la fermant et l'ouvrant
tout en résistant
au courant.
Dòng nước
Những con cá
này không có mắt
Những con cá
bạc đến thăm tôi trong giấc mơ
Rải trứng và
tinh dịch
Trong những
cái túi ở trong não của tôi
Nhưng có 1
con – to bự, có sẹo, câm nín như mọi con khác
Chú cá bự này
giản dị chống lại dòng nước
Khép cái miệng
tối thui chống lại
Dòng nước,
khép lại, mở ra
Luôn chống lại
dòng nước.
THE OTHER
LIFE
Now for the
other life. The one
without
mistakes.
-LOU LIPSITZ
My wife is
in the other half of this mobile home
making a
case against me.
I can hear
her pen scratch scratch.
Now and then
she stops to weep,
then-scratch scratch.
The frost is
going out of the ground.
The man who
owns this unit tells me,
Don't leave
your car here.
My wife goes
on writing and weeping,
weeping and
writing in our new kitchen.
L'AUTRE VIE
Et maintenant
l'autre vie.
Celle où on
ne fera pas d'erreurs.
Lou LIPSITZ.
Ma femme est
dans l'autre moitié de ce mobile home
dressant un
acte d'accusation contre moi.
J'entends
son stylo crisser.
De temps à
autre elle s'arrête pour pleurer,
ensuite le
crissement reprend.
Le sol est
en train de dégeler.
Le
proprietaire du camping me dit :
Ne laissez
pas votre voiture ici.
Ma femme
continue d'écrire en pleurant,
de pleurer
en écrivant dans notre nouvelle cuisine.
Cõi Khác
Nào, bây giờ
là cõi khác
Cõi đếch có
lầm lẫn
Vợ tớ ở một
nửa căn mobile home
Đang gây gổ với
tớ
Tớ nghe ngòi
viết cào cào, cào cào
Thỉnh thoảng
nàng ngưng, để khóc
Rồi lại, cào
cào, cào cào
Mặt đất đang
tan băng
Người chủ
khu nhà biểu tớ:
Đừng để xe ở
đây.
Vợ tớ tiếp
tục viết và khóc
Khóc và viết
trong căn bếp mới của chúng tớ
*
INTERVIEWER [The
Paris Review]
Is it true-a
friend of yours told me this-that you celebrated your first publication
by
taking the magazine to bed with you?
CARVER
That's
partly true. Actually, it was a book, The
Best American Short Stories annual. My story "Will You Please Be
Quiet, Please?" had just appeared in the collection. That was back in
the
late sixties when it was edited every year by Martha Foley and people
used to
call it that - "The Foley Collection." The story had been published
in an obscure little magazine out of Chicago called December. The day
the
anthology came in the mail I took it to bed to read and just to look
at, you
know, and hold it, but I did more looking and holding than actual
reading. I
fell asleep and woke up the next morning with the book there in bed
beside me,
along with my wife.
Đọc 1
phát
là nhớ ngay ra cái cảnh GCC đọc Những Ngày Ở Sài Gòn, khi nó được đăng
trên tờ Nghệ Thuật.
GCC, do làm part time cho
UPI, nên phải dưỡng thương, sau cú ăn hai
trái mìn VC, ở ngay tại Đài Liên Lạc.VTD thoại số 5 Phan Đình Phùng.
Bữa đó đó, đọc
bài thơ của CTC trên tờ NT, thế là bèn nổi hứng lên, bèn lôi mớ bản
thảo truyện Những Ngày Ở Sài Gòn,
thai nghén từ những ngày nằm Grall [tôi đứng ở cổng nhà
thương Grall nhìn ra ngoài đời, và chiến tranh bèn bỏ đi từ hồi nào hồi
nào, là có
thiệt, và đúng là giấc mơ của Gấu những ngày nằm Grall], đánh bóng nó,
nhờ Trần
Công Quốc, một trong Thất Hiền, khi đưa vợ đi làm [bà vợ là nữ điện
thoại viên, nhân
viên Đài], đưa cho ông anh nhà thơ TTT.
Khi báo ra, Gấu, đúng như Carver, ôm tờ báo ngủ, cùng với, không phải
vợ, mà là
cái áo giáp, tức lớp platre bao quanh người, và cái tay ăn mìn VC,
khi ngủ phải
nằm sát bên tường, dựa cánh tay lên đó!
LOST
Lost, lost
in gray hallways.
At night the
lightbulbs hiss like signals of sinking ships.
We read
books forgotten by their authors.
There is no
truth, wise men repeat.
Summer
evenings: festivals of swifts,
peonies
erupting in the suburbs.
Streets seem
abbreviated
by the heat,
the ease of seeing.
Autumn
creeps up surreptitiously.
Still
sometimes we surface for a moment,
and the
setting sun sometimes gleams
and a
short-lived certainty appears,
nearly
faith.
Adam
Zagajewski
Thất lạc
Thất lạc, thất
lạc trong những hành lang xám
Ban đêm, những
cái bóng đèn huýt gió, như tín hiệu của những chiếc tầu đang chìm
Chúng ta đọc những
cuốn sách bị bỏ quên bởi những tác giả của chúng.
Đếch có sự
thực, mấy bậc hiền giả lập đi lập lại
Những buổi
chiều hè: hội hè của chim én,
Mẫu đơn nở rộ
nơi ngoại ô
Phố xá như
thu vén lại bởi cái nóng, tầm nhìn như thoáng ra
Mùa thu lồ lộ,
chẳng thèm giấu diếm
Tuy nhiên,
thỉnh thoảng, chúng ta cũng chường mặt ra, trong thoáng chốc
Và mặt trời
lặn đôi lúc loé sáng
Và cái thực,
cái chắc, đoản mệnh - chết non thì cũng thế - xuất hiện
Xém 1 tí thì
trở thành niềm tin
Borges Page
The Streets
My soul is
in the streets
of Buenos
Aires.
Not the
greedy streets
jostling
with crowds and traffic,
but the
neighborhood streets where nothing is happening,
almost
invisible by force of habit,
rendered
eternal in the dim light of sunset,
and the ones
even farther out,
empty of
comforting trees,
where
austere little houses scarcely venture,
overwhelmed
by deathless distances,
losing
themselves in the deep expanse
of sky and
plains.
For the
solitary one they are a promise
because
thousands of singular souls inhabit them,
unique
before God and in time
and no doubt
precious.
To the West,
the North, and the South
unfold the
streets-and they too are my country:
within these
lines I trace
may their
flags fly.
-S.K.
Những con phố
Hồn Gấu ở
trong những con phố Sài Gòn
Không phải những
con phố tham lam,
với những
đám đông xô đẩy, xe cộ chèn ép
Nhưng những con phố với những ngõ hẻm, khu xóm, nơi chẳng có gì đang
xẩy ra
hầu như là
vô hình do sức mạnh của thói quen,
được cái thứ
ánh sáng nhàn nhạt, yếu ớt của buổi hoàng hôn
làm thành bất
tử.
Và những khu
xóm xa hơn tí nữa, những Ngã Ba Chú Ía, Ngã Năm Chuồng Chó, Cây Da Xà,
thí
dụ;
trống rỗng,
không hàng me Nguyễn Du với ly cà phê ấm lòng buổi sáng
Nơi những
căn nhà nhỏ khắc nghiệt chẳng hề mơ tưởng chuyện phiêu lưu
Bao phủ bởi
những khoảng cách vời vợi
Tự xoá nhòa
vào khoảng không sâu thẳm
Của bầu trời
và đồng bằng
Với 1 kẻ cô
đơn như Gấu, thì chúng là một hứa hẹn,
Bởi vì hàng
ngàn linh hồn bướm lẻ loi, mình ên ngụ ở đó
Độc nhất trước
Thượng Đế và đúng lúc
Và chẳng hồ
nghi
Cực quí giá.
Về hướng
Tây, hướng Bắc, hướng Nam
những con phố
trải dài mãi ra – và chúng là xứ sở của Gấu
Trong những
dòng thơ này, Gấu vẽ ra, và cầu chúc
Cờ Ba Que phất phới!
Limits
Of all the
streets that blur into the sunset,
there must
be one (which, I am not sure)
that I by
now have walked for the last time
without
guessing it, the pawn of that Someone
who fixes in
advance omnipotent laws,
sets up a
secret and unwavering scale
for all the
shadows, dreams, and forms
woven into
the texture of this life.
If there is
a limit to all things and a measure
and a last
time and nothing more and forgetfulness,
who will
tell us to whom-in this house
we without
knowing it have said farewell?
Through the
dawning window night withdraws
and among
the stacked books that throw
irregular
shadows on the dim table,
there must
be one which I will never read.
There is in
the South more than one worn gate,
with its
cement urns and planted cactus,
which is
already forbidden to my entry,
inaccessible,
as in a lithograph.
There is a
door you have closed forever
and some
mirror is expecting you in vain;
to you the
crossroads seem wide open,
yet watching
you, four-faced, is a Janus.
There is
among all your memories one
which has
now been lost beyond recall.
You will not
be seen going down to that fountain,
neither by
white sun nor by yellow moon.
You will
never recapture what the Persian
said in his
language woven with birds and roses,
when, in the
sunset, before the light disperses,
you wish to
give words to unforgettable things.
And the
steadily-flowing Rhone and the lake,
all that
vast yesterday over which today I bend?
They will be
as lost as Carthage,
scourged by
the Romans with fire and salt.
At dawn I
seem to hear the turbulent
murmur of
crowds milling and fading away;
they are all
I have been loved by, forgotten by;
space, time,
and Borges now are leaving me.
-A.R.
BUENOS AIRES
Te voici
devenue une carte, ma ville -
Où j'épingle
l'échec, la honte, le souci.
Sous ce
portail tombaient mes soirs mornes ; voici
Le parc où
s'épuisait mon attente inutile.
Ici le passé
vague et le présent borné
M'offrent
mon lot banal d'espérance et de crainte ;
Et chaque
heure qui passe ajoute au labyrinthe
Incalculable
que mes pas ont dessiné,
C'est ici
que cendré de lumière automnale
Chaque soir
pense aux fruits que lui doit le matin ;
Ici bientôt
cette ombre vaine, mon destin,
Va se fondre
en la non moins vaine ombre finale.
Ce n'est pas
le bonheur qui nous joint, c'est l'effroi.
Ma ville, si
je t'aime tant - voilà pourquoi ?
Sài
Gòn
Sài Gòn bây
giờ là tấm bản đồ
Gấu găm lên đó
thất bại, xấu hổ, âu lo, và phiền muộn
Dưới cái cổng
này, những buổi chiều rầu rĩ của Gấu theo nhau đổ xuống;
Đây là Ngã Sáu,
nơi Gấu đợi một cách vô ích một cuộc gặp gỡ tưởng tượng
Nơi quá khứ
mơ hồ và hiện tại cụt thun lủn
Chúng thí
cho Gấu cái phần số tầm phào của hy vọng và sợ hãi
Và mỗi giờ
qua đi thì lại thêm vào mê cung không thể tính được, mà những bước chân
của
Gấu vẽ nên
Chính là ở đây,
xám lên màu tro, thứ ánh sáng mùa thu
Mỗi buổi chiều
thì nghĩ tới những trái cây mà buổi sáng thiếu nó.
Ở đây, chẳng
bao lâu nữa, cái bóng vô ích, số phần của Gấu
Sẽ tan vào cái
bóng sau cùng, cũng vô ích chẳng kém
Không phải hạnh
phúc kiếm chúng ta để mà nhập vô, nhưng mà là khiếp sợ
Thành phố của
Gấu, Sài Gòn của Gấu,
Gấu yêu mi mới vô cùng làm sao, và đó là lý do tại sao?
IN 1940
1.
When they
bury an epoch,
No psalms
are read while the coffin settles,
The grave
will be adorned with a rock,
With bristly
thistles and nettles.
Only the
gravediggers dig and fill,
Working with
zest. Business to do!
And it's so
still, my God, so still,
You can hear
time passing by you.
And later,
like a corpse, it will rise
Ride the
river in spring like a leaf,-
But the son
doesn't recognize
His mother,
the grandson turns away in grief,
Bowed heads
do not embarrass,
Like a
pendulum goes the moon.
Well, this
is the sort of silent tune
That plays
in fallen Paris.
Khi họ chôn
một thời kỳ
Không tụng
ca được đọc khi hạ huyệt
Ngôi mộ sẽ
được điểm trang bằng 1 cục đá.
Với cây kế
tua tủa và tầm ma
Chỉ mấy đấng
thợ, đào, và sau đó lấp, mồ.
Họ háo hức, hăm
hở. Công việc mà!
Và thật câm
lặng, Chúa ơi, thật câm lặng!
Bạn có thể
nghe thời gian qua đi.
Và sau đó,
như 1 cái thây ma, nó trỗi dậy
Bay trên mặt
sông vào mùa xuân như 1 chiếc lá –
Nhưng ông
con trai không nhận mẹ
Đứa cháu
trai bỏ đi trong đau khổ
Những cái đầu
cúi xuống đâu làm phiền ai
Như con lắc,
mảnh trăng đong đưa
Đúng rồi, đúng
điệu nhạc âm thầm đó
Dân Sài Gòn
chơi, ngày mất Sài Gòn.
IN MEMORY OF
MIKHAIL BULGAKOV
This poem
comes to you instead of flowers,
Graveyard
roses, or incense smoke;
You who even
in the final hours
Showed
marvelous disdain. You drank wine. You joked
Like no one
else. As for the rest-
You
suffocated in a walled-off square;
You yourself
admitted the terrible guest,
And remained
alone with her there.
Now you
don't exist: no one says a thing
About your
bitter and beautiful life;
Only my
flutelike voice will sing
At this,
your silent funeral feast.
It's
unbelievable, to say the least,
That I,
half-mad, mourning the past,
Smouldering
on top of the slowest coal,
Having lost
everything and forgotten them all,
Am fated to
commemorate someone so strong,
Bright and
steady to the final breath-
Was it
yesterday we spoke? Has it been so long?-
Who hid the
shuddering throes of death.
1940
Tưởng nhớ MIKHAIL
BULGAKOV
Bài thơ này
cho bạn, thay vì hoa
Hồng nghĩa
trang, hay khói trước mồ
Bạn, những
giờ cuối
Vẫn khinh
khi lũ VC Nga thật là tuyệt cú mèo
Bạn uống hồng
đào
Bạn chọc quê,
kể chuyện hài, như chưa từng có ai làm được như thế
Về những gì
còn lại –
Bạn nghẹt thở
giữa bốn bức tường
Bạn, chính bạn
đã chấp nhận vị khách khủng khiếp
Và một mình
với nàng ở đó
Bây giờ bạn
: Chẳng ai nói một điều gì
Về cuộc đời
cay đắng và đẹp đẽ của bạn
Chỉ có giọng
sáo diều của ta
Sẽ hát, ở đó,
Ở tang lễ im
lìm của bạn
Thật là không
thể tin nổi, chỉ nói thế thôi,
Rằng, ta, nửa khùng, nửa điên,
Tưởng niệm
quá khứ
Âm ỉ trên đỉnh
mớ than thấp, ở dưới đáy
Mất mọi thứ,
và quên tất cả mọi thứ
Là người được
số phận trao
Tưởng nhớ một
người nào đó thật mãnh liệt,
Sáng ngời, và
kiên định cho đến hơi thở chót –
Mà có phải là
ngày hôm qua chúng ta nói tới? Sao lâu thế? –
Kẻ giấu những
cơn giãy dụa của cái chết?
1940
Akhmatova
Xuống phố
đổi
phim, vớ được cuốn mới ra lò của Todorov, “Hồi nhớ như là thuốc khử Cái
Ác”. Mỏng,
nhưng thần sầu, và như đẩy câu của Borges lên 1 mức cao hơn nữa,
đúng
hơn, qua hẳn 1 phạm trù khác:
Liệu chỉ bằng hồi nhớ, chúng ta khử được....Cái
Ác Bắc Kít & VC?
[Dịch nhảm: Can we escape evil by the sheer power of
memory?]
To a Minor Poet of 1899
To leave a verse concerning the
sad hour
That awaits us at the limit of the day,
To bind your name to its sorrowful date
Of gold and of vague shade. That's what you wanted.
With what passion as the day drew to its close
You labored on and on at the strange verse
That, until the universe disperses,
Would confirm the hour of the strange blue!
I do not know if ever you succeeded
Nor, vague elder brother, if you existed,
But I am alone and want oblivion
To restore your fleeting shade to the days
In the supreme already worn-out effort
Of words wherein the evening may yet be.
-C.T.
A
UN POETE MINEUR DE 1899
La tristesse qui guette à
l'heure où le jour fuit
Te demandait un verse. Tu voulus d'une lente
Ligne lier ton nom à la date dolente
Où l'or va se mêlant à l'imprécise nuit.
Dans la lueur qui se soumet et qui s'echange
De quel amour tu dus polir l' étrange
vers
Qui, jusqu'à la dispersion de l'univers,
Saurait seul confirmer I'heure d'azur étrange !
Y parvins-tu jamais ? De toi, mon vague ainé,
Que savoir et que dire? Es-tu mort? Es-tu né ?
Mais je veux que l'oubli rende à ma solitude
L'ombre légère de ta vie, et ton espoir,
Embué par le mien d'un peu de lassitude,
Qu'en quelques mots humains puisse tenir le soir
Gửi nhà thơ làng nhàng
trước 1975
Đã để lại 1 dòng thơ về cái giờ
buồn thảm
Đợi chúng ta ở mút chót của ngày
[30 Tháng Tư, 1975?]
Để cái tên của anh, Joseph Huỳnh Văn vô cái ngày rầu rĩ
Bằng vàng [30 năm mới có ngày hôm nay]
Hay bằng một cái bóng mơ hồ
[Vui sao nuớc mắt lại trào?]
Đó là điều bạn ta muốn?
Bằng đam mê nào, khi cái ngày 30 Tháng Tư đó tiến dần tới đêm đen,
Bạn hì hục loay hoay mần câu thơ lạ thường đó?
Cho đến khi vũ trụ [thiên đường Miền Nam, Ấp Tara..] tiêu tùng,
Và đó là cái giờ của màu xanh lạ thường được xác nhận?
Gấu thật tình chẳng làm sao biết được, liệu bạn thành công chăng?
Và cũng chẳng biết, bạn, nhà thơ làng nhàng của Miền Nam trước 1975, đã
từng
hiện hữu?
Nhưng Gấu thì trơ cu lơ một mình, hết còn bạn quí
Và chỉ muốn đi vào quên lãng
Bởi vì chỉ có sự quên lãng thì mới cứu lại được cái bóng của bạn lừng
lững
khuất nẻo dòng đời
Trong 1 sự cố gắng phi thường đã rách nát của những từ ngữ,
mà ở trong chúng,
buổi chiều của hai đứa chúng ta cứ vưỡn còn hoài.
Note: Bài
thơ này GCC mới kiếm ra bản tiếng Tây của nó. Post, như 1 tưởng niệm
bạn thơ của
GCC.
Khi anh còn sống, GCC chẳng biết làm thơ. Ông anh nhà thơ thì có đọc
mấy bài
thơ của Gấu rồi, khi Gấu gửi ông cuốn Lần Cuối Sài Gòn, 1998, lần
qua
Cali đầu tiên, nhân cuốn sách ra lò, qua 1 nhà thơ Kế Iêm, Trùm &
Giáo Chủ
trường phái Tân Hình Thức
Trong bài viết
về “Bếp Lửa”, 1972, trên TSVC, Gấu viết, học trò khám phá ra Thầy,
không phải
Thầy khám phá ra trò.
Gấu thuổng ý này từ1 bản tiếng Tẩy, của 1 tay nào đó, chẳng hề nhớ,
và mê quá, bèn chôm luôn.
Ui chao, chỉ
đến khi ra được hải ngoại, đọc Borges, thì mới biết câu trên là từ
Borges, và, câu
văn này biến đổi toàn bộ lịch sử văn học thế giới:
“Mọi nhà văn sáng tạo ra
những
người đi trước mình”.
Alberto Manguel, trong With Borges, viết
In spite
of
himself, Borges changed forever the notion of literature and
consequently that
of the history of literature. In a famous text (1) whose first version was published
in 1952, he wrote: "Every writer creates his own precursors." With
this statement, Borges adopted a long lineage of writers who now appear
Borgesian avant la lettre: Plato, Novalis, Kafka, Schopenhauer, Remy de
Gourmont, Chesterton ... Even writers who seem beyond all individual
claim,
classics among classics, now belong to Borges's reading, like Cervantes
after Pierre
Menard.
With Borges kể thời gian Manguel được
Borges mướn
làm người đọc sách cho ông, khi ông bị mù. Có những chi tiết thật thú
về
Borges. Những câu phán thật lạ.
Thí dụ,
Borges phán, về thần học, tôi ngược hẳn với đám Ky Tô Á Căn Đình, họ
tin, nhưng
đếch quan tâm. Còn tôi quan tâm, đếch tin. Ông cũng cho biết, rất mê
cách sử dụng
ẩn dụ Ky Tô của Saint Augustine, thí dụ, ông này nói, "Cây thập tự cứu
chúng ta khỏi mê cung vòng tròn của đám stoics", và, Borges nói thêm,
tôi
vẫn mê "mê cung vòng tròn", circular labyrinth.
Câu này cũng
thú: Tôi cảm động về những túi khôn nhỏ nhỏ, của 1 con người nhỏ nhỏ,
chết đi cùng
với người đó. [“I am moved by small wisdoms that are lost at every
death: Tôi xúc
động vì những khôn ngoan nhỏ, mất đi với mọi cái chết”]
Cái khôn
ngoan nhỏ mất đi với mọi cái chết, theo GCC - với riêng GCC, đúng hơn -
là những
kỷ niệm thật thân thương về 1 người thân đã đi xa.
Thí dụ như
kỷ niệm của GCC với BHD khi em chê Gấu không bằng “boyfriend” của em:
Gấu không
làm nổi việc đó đâu!
Em nói về những lần, nghe Sài Gòn rục rịch
xuống đường,
biểu tình, biến động… là anh bạn cùng học khệ nệ vác vài bao gạo đến
nhà
ông bố vợ
chưa cưới!
Khi ra hải
ngoại, chuyện hai người ly dị, Gấu nghe qua 1 người bạn, là cũng có
liên quan đến
chuyện, ông chồng làm một số việc Gấu không làm được!
But why?
Em có thể lấy
1 người không giống… Gấu, nhưng cũng không
giống... ông chồng chứ, nhỉ?
Khó hiểu quá!
Xuống phố đổi
phim, vớ được cuốn mới ra lò của Todorov, “Hồi nhớ như là thuốc khử Cái
Ác”. Mỏng,
nhưng thần sầu, và như đẩy câu của Borges lên 1 mức cao hơn nữa,
đúng
hơn, qua hẳn 1 phạm trù khác:
Liệu chỉ bằng hồi nhớ, chúng ta khử được....Cái
Ác Bắc Kít & VC?
[Dịch nhảm: Can we escape evil by the sheer power of
memory?]
THE GENEROUS
FRIEND
In the year
1102, Magnus Barfod attempted to conquer all the kingdoms of Ireland.
It is
said that he received the following greeting from Muirchertach, the
king of
Dublin, the night before he died:
May gold and
storms serve your army well, Magnus Barfod.
May your
battle tomorrow be successful, in the fields of my kingdom.
May your
regal hands weave the sword's cloth, sowing terror.
May those
who oppose your sword be food for the red swan.
May your
many gods grant you your fill of glory-may they sate you with
blood.
May you be
victorious at dawn, o king who trods Ireland underfoot.
May none of
your numerous days shine more brightly than the day of
tomorrow.
Because this
will be your last day, King Magnus, I swear it.
Because
before its light is snuffed out, I will defeat you and snuff you out,
Magnus
Barfood.
-from Anhang
zur Heimskringla (1893) by H.
Gering
L'ENNEMI GÉNÉREUX
Magnus
Barfod entreprit en 1102 la conquête générale des royaumes d'Irlande;
on
raconte qu'il recut, la veille de sa mort, cette salutation de
Muirchertach,
roi de Dublin:
Que dans tes
armées combattent l'or et la tempête, Magnus Barfod.
Que demain,
sur les campagnes de mon royaume, ta
bataille
soit heureuse.
Que tes
mains de roi tissent terribles la toile de l'épée.
Que soient
pature aux cygnes rouges ceux qui s'opposent à ton épée.
Que tes
nombreux dieux te rassasient de gloire, qu'ils te rassasient de sang.
Que tu sois
victorieux à l'aurore, roi qui mets le pied sur
l'Irlande.
Que de tes
nombreux jours aucun ne resplendisse comme
le jour de
demain.
Parce que ce
jour sera le demier. Je te le jure, roi
Magnus.
Parce
qu'avant que sa lumière ne soit effacée, je te vaincrai et je
t'effacerai,
Magnus Barfod.
H. GERING, Anhang
zur Heimskringla (1893).
Note: Bài
thơ của Borges, có hai cái tít khác nhau, nói ra cái nghĩa, bạn quí
chính là kẻ
thù quí, rộng lượng!
Pussy Riot's
Punk Prayer is pure protest poetry
Đọc bài viết
thì GCC nghĩ tới nhóm Ngựa Trời của Sài Gòn
Những chiếc lá
ở Cypress
Tớ chỉ có 1
kẻ thù. Tớ không biết bằng cách nào hắn ta vô nhà tớ vào đêm 10 Tháng
Tư, 1977.
Hắn mở không phải một mà hai cửa. Cửa lớn mở ra con phố, và cửa căn
phòng của tớ.
Hắn bật đèn, đánh thức tớ ra khỏi 1 cơn ác mộng, mà tớ không nhớ
chi, ngoài
chuyện, có 1 cái vườn ở trong đó. Không lớn giọng, hắn ra lệnh cho tớ
dậy, mặc
quần áo liền tức khắc. Cái chết của tớ kể như được quyết định và nơi
chốn hành
quyết thì cũng chẳng xa lắm. Ngạc nhiên làm nghẹn lời, tớ thì bèn vâng
lời. Hắn
không cao như tớ, nhưng chắc nịch, và hận thù cho hắn sức mạnh. Thời
gian
trôi không ảnh hưởng gì tới hắn, trừ điều này, tóc của hắn điểm trắng,
trên cái
đầu đen. Hắn như sướng điên lên bởi một niềm vui gớm ghiếc. Hắn đã từ
lâu thù tớ,
và bây giờ hắn sẽ làm thịt tớ. Beppo, con mèo ngắm hai đứa chúng tớ,
làm hắn lệch
pha ra khỏi cõi vĩnh cửu của hắn, nhưng chẳng thể cứu tôi. Cũng vậy, là
con hổ
màu xanh bằng đất nung ở trong phòng ngủ, và luôn cả những nhà ảo thuật
và những vị thần ở trong toàn bộ Ngàn
lẻ
Một Đêm. Tớ cần 1 cái gì đó làm bạn đường, và hỏi hắn cho mang
theo 1 cuốn sách.
Cuốn Thánh Kinh, thì đếch có
thể được rồi! Một cách thật tình cờ, ngẫu nhiên,
tay tớ sờ vô 1, trong 1 bộ 12 cuốn của Emerson. Thế rồi hai đứa rón rén
xuống
cầu thang. Tôi đếm mọi bước chân. Tớ để ý hắn cần thận không để chạm vô
người
tớ, sự sợ lây cái gì đó.
Borges
UNE ROSE ET
MILTON
Sans rien
qui la distingue ou l'étrange des choses
Qui furent,
se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je
veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez
cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi
; le sort me dispense ce soir
Le privilège
de nommer pour la première
Fois cette
fleur silencieuse, la dernière
Que
rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui
que tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche
rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande
qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse éclatante
en mon vers apparaitre
Avec tes
ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta ténèbre
- ô ténèbreuse entre ses mains.
A Rose and
Milton
From all the
generations of past roses,
Disintegrated
in the depths of time,
I want one
to be spared oblivion-
One
unexceptional rose from all the things
that once
existed. Destiny allows me
The
privilege of choosing, this first time,
That silent
flower, the very final rose
That Milton
held before his face, but could
Not see. O
rose, vermilion or yellow
Or white,
from some obliterated garden,
Your past
existence magically lasts
And glows
forever in this poetry,
Gold or
blood-covered, ivory or shadowed,
As once in
Milton's hands, invisible rose.
-A.R.
BHD và Gấu
Từ hàng hàng
thế hệ những bông hồng
Đã “tàn hôn
lên môi”, rồi rã ra, theo chiều sâu thăm thẳm của thời gian
Gấu muốn 1 bông
hồng, chỉ một, được cứu rỗi khỏi lãng quên –
Một bông hồng,
cũng thường thôi, chẳng có gì đặc biệt trong cõi vô thường
Đã từng hiện
hữu [liệu có nên thêm chi tiết, đã từng học Gia Long?]
Số phận cho
phép Gấu
Cái ưu tiên chọn
lựa, lần đầu tiên này
Bông hồng thầm
lặng, hồng rất hồng, bông hồng đen sau cùng.
Gấu đã từng cầm trong tay,
Nhưng không
thể sở hữu.
[Thánh nữ mà]
Ôi bông hồng
đen
Cái quá khứ của em, những ngày ở Sài Gòn, thì cứ còn hoài
Một cách thần
kỳ, huyền diệu
[Trong Tứ Tấu
Khúc]
Và đỏ bừng lên
qua bài thơ này
Vàng, hay phủ
máu, hay ngà, hay phủ bóng tối
Một lần Gấu ôm trong tay,
Trở thành vô
hình.
To a Minor
Poet of 1899
To leave a
verse concerning the sad hour
That awaits
us at the limit of the day,
To bind your
name to its sorrowful date
Of gold and
of vague shade. That's what you wanted.
With what
passion as the day drew to its close
You labored
on and on at the strange verse
That, until
the universe disperses,
Would
confirm the hour of the strange blue!
I do not
know if ever you succeeded
Nor, vague
elder brother, if you existed,
But I am
alone and want oblivion
To restore
your fleeting shade to the days
In the
supreme already worn-out effort
Of words
wherein the evening may yet be.
-C.T.
Gửi nhà thơ
làng nhàng trước 1975
Đã để lại 1
dòng thơ về cái giờ buồn thảm
Đợi chúng ta
ở mút chót của ngày
[30 Tháng Tư,
1975?]
Để cái tên của
anh, Joseph Huỳnh Văn vô cái ngày rầu rĩ
Bằng vàng
[30 năm mới có ngày hôm nay]
Hay bằng một
cái bóng mơ hồ
[Vui sao nuớc
mắt lại trào?]
Đó là điều bạn
ta muốn?
Bằng đam mê
nào, khi cái ngày 30 Tháng Tư đó tiến dần tới đêm đen,
Bạn hì hục
loay hoay mần câu thơ lạ thường đó?
Cho đến khi
vũ trụ [thiên đường Miền Nam, Ấp Tara..] tiêu tùng,
Và đó là cái giờ của màu xanh lạ thường được xác nhận?
Gấu thật tình
chẳng làm sao biết được, liệu bạn thành công chăng?
Và cũng chẳng
biết, bạn, nhà thơ làng nhàng của Miền Nam trước 1975, đã từng hiện hữu?
Nhưng Gấu thì
trơ cu lơ một mình, hết còn bạn quí
Và chỉ muốn đi
vào quên lãng
Bởi vì chỉ có
sự quên lãng thì mới cứu lại được cái bóng của bạn lừng lững khuất nẻo
theo dòng
đời
Trong 1 sự cố
gắng phi thường đã rách nát của những từ ngữ,
mà ở trong chúng,
buổi chiều của hai
đứa chúng ta cứ vưỡn còn hoài.
Bài thơ sau đây,
cũng có thể coi như 1 bi khúc về bạn ta, theo nghĩa, thơ của bạn ta, và
của TTT,
đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên cả 1 thế hệ thơ Miền Nam, và, theo nghĩa,
chẳng ai có thể
vươn tới hai cõi đó nữa!
THOMAS
MERTON
1915-1968
Thomas
Merton, before he became a monk in a Trappist monastery, Gethsemane, in
Kentucky, had already been a writer, and obviously he respected writers
who
shaped the style of his 8eneration. In prose, the strongest influence
was exerted
by Ernest Hemingway. When Hemingway killed himself, at the age of
sixty-three,
a service for his soul was, for the monk Merton, also a farewell to his
own
youth, to his adventurous "I," from which he looked for escape in the
monastery.
Czeslaw Milosz
Thomas
Merton, trước khi trở thành tu sĩ tại tu viện Trappist, Gethsemane,
Kentucky, đã
là 1 nhà văn, và rõ ràng là ông kính trọng những nhà văn đã tạo vóc
dáng cho văn
phong của thế hệ của ông. Về văn xuôi, ảnh hưởng của Ernest Hemingway
cực dũng
mãnh, số dách. Khi ông này tự tử ở tuổi 63, một buổi lễ đã được cử hành
cho
linh hồn của tác giả Chuông Gọi Hồn Ai, cho vì tu sĩ, và cũng là 1 lời
vĩnh biệt
cho tuổi trẻ của riêng ông, cho cái “Tôi” phiêu lưu của ông, mà vì nó
mà ông tìm
kiếm sự giải thoát ở trong tu viện
AN ELEGY FOR
ERNEST HEMINGWAY
Now for the
first time on the night of your death
your name is
mentioned in convents, ne cadas in
obscurum.
Now
with a
true bell your story becomes final. Now
men in monasteries, men of requiems,
familiar with
the dead, include you in their offices.
You stand
anonymous among thousands, waiting in
the dark at great stations on the edge of
countries
known to prayer alone, where fires are not merciless,
we hope, and
not without end.
You pass
briefly through our midst. Your books and
writing have not been consulted. Our
prayers are
pro defuncto N.
Yet some
look up, as though among a crowd of
prisoners or displaced persons, they
recognized a friend
once known in a far country. For these the sun also
rose
after a forgotten war upon an idiom you made
great. They have not forgotten
you. In their silence
you are still famous, no ritual shade,
How slowly
this bell tolls in a monastery tower for a
whole age, and for the quick death
of an unready
dynasty, and for that brave illusion: the adventurous
self!
For with one
shot the whole hunt is ended!
Bi Khúc cho
Ernest Hemingway
Và bây giờ,
lần thứ nhất trong đêm của cái chết của bạn
Tên của bạn đã
được nhắc tới trong thiền viện, nhà tu kín
ne cadas in obscurum.
Bây
giờ với hồi
chuông báo tử thực, câu chuyện của bạn trở thành chấm hết.
Bây giờ những vì đàn
ông ở trong tu viện, những người của kinh cầu,
thân quen với người chết, bao gồm
cả bạn trong đó, ở trong những phòng ốc của họ.
Bạn đứng, vô
danh, giữa hàng ngàn người, đợi trong bóng tối, tại những nhà ga lớn
ở mép bờ của
những xứ sở,
chỉ người cầu nguyện biết
nơi lửa thì không phải là nhẫn tâm,
chúng ta hy vọng, và không phải không tận cùng
Trong 1 thoáng,
bạn đi qua lớp sương mù của chúng ta.
Những cuốn sách và những gì bạn viết thì
không được nhắc tới.
Những người cầu nguyện thì pro defuncto
N.
Tuy nhiên một
số nhìn lên, như thể, mặc dù giữa một đám đông
những tù nhân, những cô hồn vất
vưởng không nơi nương tựa, trú bám,
họ nhận ra một người bạn, đã từng quen biết
tại một xứ sở xa xăm.
Với họ, mặt trời vẫn mọc sau một cuộc chiến bị lãng quên,
theo như 1 câu danh ngôn mà bạn làm cho nó trở thành lớn lao.
Họ đã quên bạn. Và
trong sự im lặng của họ,
bạn vẫn nổi tiếng, không bóng dáng nghi lễ.
Tiếng chuông
chầm chậm từ tháp chuông tu viện gọi hồn trọn một thế hệ,
một cái chết mau lẹ của
một triều đại không sẵn sàng,
và ảo tưởng can đảm này: Cái Ngã phiêu lưu!
Cho 1 cú bắn trọn cuộc săn chấm dứt!
Borges Page
Parable of
Cervantes and Don Quixote
Weary of his
Spanish homeland, an aging soldier of the king's army sought comfort in
Ariosto's vast geographies, in the lunar valley where lies the time
that dreams
squander away, and in the golden idol of Mohammed stolen by Montalban.
Gently
mocking himself, he thought up an impressionable man who, unbalanced
from
reading fantastic tales, went forth to find feats of arms and
enchantments in
ordinary places with names like El Toboso and Montiel.
Defeated by
reality-by Spain-Don Quixote died in his native village around 1614.
Miguel de
Cervantes briefly outlived him.
For both the
dreamer and the man he dreamed, the story was about the clash of
opposing
worlds: the unreal world of chivalric fiction and the average, everyday world of the seventeenth century.
Neither
imagined that with the passage of years the strife would diminish, nor
did they
imagine that La Mancha and Montiel and the knight's scrawny physique
would be
no less poetic in the future than the adventures of Sinbad or Ariosto's
vast
geographies.
Because myth
is at the beginning of literature, and also at its end.
-Devoto
Clinic, January 1955
-K.K.
Ngụ
ngôn về Cervantes và Don Quixote
Mệt mỏi,
chán ngấy quê nhà Tây Bán Nhà, một tên lính già của quân đội hoàng gia
tìm sự
thoải mái ở nơi núi đồi rộng lớn Ariosto, ở thung lũng trăng mờ, nơi
thời gian
trải dài, cùng những giấc mộng tan hoang, cùng bức thánh tượng bằng
vàng của
Mohamed bị Montalban đánh cắp.
Tự diễu
mình, nhè nhẹ, anh già nhớ lại đời mình, 1 tên đàn ông thật ấn tượng,
ngất ngư
con tầu đi, do đọc ba thứ chuyện kỳ quái, bèn lên đường tìm những cuộc
vui
chiến trận
và những trận cười đốt đuốc chơi đêm, nhất dạ đế vương, ở những nơi
chốn bình
thường với những cái tên như là El Toboso và Montiel.
Bị thực tại
– bị xứ Tây Bán Nhà - đánh bại, Don Quixote chết tại làng quê, nơi ông
chào đời
vào khoảng 1614. Miguel de Cervantes sống dai hơn ông 1 tị.
Đối với cả
hai, người nằm mơ, và người đàn ông mà anh ta mơ, câu chuyện là về sự
đụng độ
giữa những thế giới đếch chịu nhau, chống lại nhau: thế giới không thực
của thứ
giả tưởng nghĩa hiệp, hiệp sĩ, giang hồ, chưởng Kim Dung, và thế giới
mọi ngày,
làng nhàng từng ngày của thế kỷ 17.
Chẳng ai
nghĩ đến chuyện, với ngày tháng qua đi, sự xung đột yếu dần, hay
chuyện,
La
Mancha và Montiel và bộ vó khẳng khiu, cà tong cà teo của vị hiệp sĩ,
thì đếch
có tí thơ ca vãi linh hồn nào, so với những cuộc phiêu lưu của chàng
thủy thủ
Sinbad và không gian trời đất, địa lý bao la vô cùng Ariosto.
Bởi vì, huyền
thoại khởi đầu, và… chấm dứt, văn chương!
Elegy
Oh destiny
of Borges-
to have
traversed the various seas of the world
or the same
solitary sea under various names,
to have been
part of Edinburgh, Zurich, the two Cordobas,
Colombia,
and Texas,
to have gone
back across the generations
to the
ancient lands of forebears,
to
Andalucia, to Portugal, to those shires
where Saxon
fought with Dane, mingling bloods,
to have
wandered the red and peaceful maze of London,
to have
grown old in so many mirrors,
to have
tried in vain to catch the marble eyes of statues,
to have
studied lithographs, encyclopedias, atlases,
to have
witnessed the things that all men witness-
death, the
weight of dawn, the endless plain
and the
intricacy of the stars,
and to have
seen nothing, or almost nothing
but the face
of a young girl in Buenos Aires,
a face that
does not want to be remembered.
Oh destiny
of Borges, perhaps no stranger than yours.
-A.R.
Bi Khúc
Ôi số mệnh của GCC -
Đã phiêu du nhiều biển trên thế giới,
Hay, vẫn chỉ một biển mang nhiều nick
Đã có phần ở Edinburgh, Zurich, ở Bắc Kít & Nam Kít, Cordobas, Colombia, và Texas
Đã trở lại, sau nhiều thế hệ,
Những vùng đất xưa của ông cha,
Ở Andalucia, Portugal, những quận huyện,
Nơi đám rợ Saxon choảng nhau với Dane, trộn máu với nhau.
Đã lang thang những mê cung đỏ, hiền hòa ở London
Đã trở nên già trong rất nhiều tấm gương
Đã cực kỳ cố gắng, nhưng vô ích, nắm bắt ánh mắt cẩm thạch của những
pho tượng
Đã nghiên cứu thạch bản, bách khoa toàn thư, bản đồ
Đã chứng kiến những điều mà tất cả những người đàn ông chứng kiến –
Cái chết, sức nặng của buổi bình minh, đồng bằng vô tận, sự phức tạp
của những vì sao,
Đã nhìn chẳng cái gì, hầu như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì nó đâu!
The Moon
for Maria Kodama
There is
such loneliness in that gold.
The moon of
the nights is not the moon
Whom the
first Adam saw. The long centuries
Of human
vigil have filled her
With ancient
lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.
Trăng
Có
cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng
của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những
thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời
than van xưa,
cũ.
Hãy
nhìn nàng kìa.
Nàng
là tấm gương của em đó.
Rain
Quite
suddenly the evening clears at last
as now
outside the soft small rain is falling.
Falling or
fallen. Rain itself is something
undoubtedly
which happens in the past.
Whoever
hears it falling has remembered
a time in
which a curious twist of fate
brought back
to him a flower whose name was "rose"
and the
perplexing redness of its red.
This rain
which spreads its blind across the pane
must also
brighten in forgotten suburbs
the black
grapes on a vine across a shrouded
patio now no
more. The evening's rain
brings me
the voice, the dear voice of my father,
who comes
back now, who never has been dead.
-A.R.
Mưa
Hoàn toàn bất
thình lình, sau cùng, buổi chiều sáng ra
Như là giờ đây,
bên ngoài mưa mềm, nhỏ, đang rơi.
Đang rơi hay
đã rơi?
Mưa, tự nó là
một cái gì chẳng nghi ngờ chi, xẩy ra trong quá khứ
Bất cứ ai
nghe mưa rơi thì đều nhớ tới cái lúc mà số mệnh, xoắn 1 phát,
Mang trả lại cho
anh ta một bông hoa, tên là.... BHD
Cơn
mưa trải dài sự mùa lòa của nó dọc theo ô kính hẳn cũng làm sáng lên,
nơi những
vùng ngoại vi thành phố bị bỏ quên,
những trái nho đen nơi hàng cây dọc
theo sân tẩm
liệm nay không
còn nữa.
Cơn mưa buổi chiều mang cho tôi giọng nói,
giọng nói yêu thương của
BHD,
bây giờ trở lại, chẳng hề đi xa.
To Whoever
Is Reading Me
You are
invulnerable. Have they not granted you,
those powers
that preordain your destiny,
the
certainty of dust? Is not your time
as
irreversible as that same river
where
Heraclitus, mirrored, saw the symbol
of fleeting
life? A marble slab awaits you
which you
will not read-on it, already written,
the date,
the city, and the epitaph.
Other men
too are only dreams of time,
not
indestructible bronze or burnished gold;
the universe
is, like you, a Proteus.
Dark, you
will enter the darkness that awaits you,
doomed to
the limits of your traveled time.
Know that in
some sense you are already dead.
-A.R.
Gửi bất cứ ai đang đọc GCC
Bạn thì “đả biến thiên hạ
vô địch thủ, kim cương bất hoại..”
Hẳn là những vị thần đã ban cho bạn quyền lực vô biên: Hạt bụi nào hóa
kiếp thân tôi?
Hay là thời gian của bạn,
Không phải thứ "bất phản hồi", mà thằng cha Gấu ngồi ở bờ sông Mekong
thấy xác của nó trôi qua?
Hay Heraclitus, nhìn qua gương, thấy hình ảnh cuộc đời bóng câu qua cửa
sổ?
Một miếng đá cẩm thạch đang đợi bạn.
Bạn sẽ không đọc – trên miếng đá đã được viết ra, ngày tháng, thành
phố, và mộ chí, tức câu văn ngắn nhất, gói trọn đời bạn.
Những con người khác, cũng thế, chỉ là những giấc mơ của thời gian
Không phải đồng không bị huỷ diệt, hay vàng bị đốt cháy
Vũ trụ thì cũng như bạn, một Proteus.
Tối thui, bạn sẽ đi vào bóng đen đang đợi bạn,
Thứ bóng đen bị trầm luân bởi những giới hạn của thời gian viễn du của
bạn
Biết, theo 1 nghĩa nào đó, bạn đã chết từ đời nào rồi.
Note: Mấy
bài thơ của Borges, GCC tính dịch, mừng sinh nhật Gấu!
À UN POÈTE
MINEUR
DE
L'ANTHOLOGIE
Gửi nhà thơ
làng nhàng trong cõi thơ Mít, bạn của Gấu.
Ở bên đó, bạn mình bây giờ
ra
sao rồi, có còn giữ được,
Hồi ức những ngày trên cõi Miền Nam, mảnh đời hạnh phúc và đau khổ,
Cái
vũ trụ của riêng bạn?
Hay là đã chơi chén cháo lú, và đi đầu thai kiếp khác?
Dòng sông của
những năm tháng đếm được, vì tận cùng bằng 30 Tháng Tư 1975,
Thì cũng đã thất lạc
rồi, bạn giờ này chỉ là 1 cái tên trong… VHTQ
của VP,
[Mà này, có không nhỉ, hay ông tiên
chỉ cũng đếch biết bạn là thằng chó nào?]
Những tên khác
- toàn đám Trung Kít - vậy mà không có bạn -
Thì được những vị thần ban cho, nào
nhà văn của thế kỷ,
Nhà phê bình xuất sắc nhất, nhà thơ số 1 xứ Thần Kinh,
Phượng
trong Thành Nội, Con phố Trịnh… hà, hà, hà, hà!
Nhưng bạn mình
đếch cần, và chúng ta chỉ biết về bạn mình,
Một người bạn u tối, nghe chim hót vào
buổi chiều.
Trong những
cây hoa lan của bóng tối,
Cái bóng vô ích, thừa thãi của bạn mình hẳn nghĩ
Những
vị thần hơi bị hà tiện.
Nhưng những
ngày tháng, nói cho cùng, là một sợi của những khốn cùng tầm phào,
chẳng bõ
kể ra.
Kẻ nào, ngoài nhà thơ làng nhàng, bạn của Gấu
Ngộ
ra rằng, số phận, dù bảnh nhất, thì cũng cẩm như tro than của quên lãng
Về những kẻ
khác, những vị thần ném xuống thứ ánh sáng
vinh quang khắc nghiệt,
Ánh sáng này quan sát những tình cảm, đếm những vết nứt
của vinh quang,
Và sau cùng, chấm dứt bằng cách vò nát bông hồng mà nó sùng bái
Với anh bạn nhà
thơ của Gấu, sự thương hại của họ, những vị thần, lớn lao vô cùng
Trong mê ly,
cực khoái của buổi chiều, một buổi chiều không phải một đêm
Anh bạn nhà
thơ nghe tiếng sơn ca của Théocrite
Sau khi dịch
bài thơ gửi cho Joseph HV ở bên đó, lạ lùng làm sao, Gấu kiếm ra bài
thơ Hạnh
Phúc, ngày nào, bản tiếng Anh.
Đọc 1 phát, là sống lại những ngày “đếm được” đó.
Và thú vị hơn nữa, Gấu kiếm ra bản tiếng Anh của bài thơ "gửi bạn thơ
làng nhàng", và sẽ sửa lại bản dịch tiếng Mít, sau khi đối chiếu bản
tiếng Anh.
Sau đây là bản dịch đúng
đắn, theo bản tiếng Anh.
Bản dịch loạn trên, bỏ đi thì tiếc!
Hà, hà!
Gửi nhà thơ
làng nhàng trong tuyển tập thơ Hy Lạp
Nó đâu rồi,
bây giờ, cái hồi ức những ngày của bạn trên trái đất, những ngày mang
nợ – hay
hàm ân thì cũng rứa -
niềm vui lẫn nỗi buồn, chúng làm nên thế giới của riêng bạn?
Con sông của
những năm tháng đã mất chúng
Từ con nước
đếm được của nó; bạn là 1 từ trong một index.
Với những kẻ
khác những vị thần ban cho họ vinh quang chẳng tận cùng:
Những biển đề,
những cái tên trên những đồng tiền, những đài tưởng niệm, những sử gia
tận tâm;
tất cả những gì mà chúng ta biết, về bạn, một người bạn ở ẩn, lánh đời,
là, bạn
nghe chim sơn ca hót một buổi chiều.
Giữa những
hoa nhật quang của Bóng Tối, bóng của bạn, trong cái hư ảo, phù hoa của
nó, phải
coi những vị thần là biển lận
Nhưng những
ngày là 1 cái mạng của những phiền nhiễu nhỏ nhỏ
Và liệu có 1
sự chúc phúc lớn hơn, thay vì, dúm tro than từ đó lãng quên được làm ra?
[Cát bụi trở
về cát bụi, bạn ta - dân Ky Tô - rành quá mà]
Trên những cái
đầu khác, những vị thần kích động thứ ánh sáng khắc nghiệt của vinh
quang, nó
xoáy tới những phần bí ẩn và khám phá ra từng lỗi lầm tách biệt;
Vinh quang,
sau cùng, nó vò nát bông hồng mà nó thờ phượng;
Những vị thần
này, như thế, lại tỏ ra hơi bị được, đối với bạn.
Trong buổi
chiều mê ly sẽ chẳng bao giờ là đêm
Bạn lắng
nghe chẳng hề chán nản, chẳng hề chấm dứt
Tiếng chim sơn ca của [nhà thơ]
Theocritus
Happiness
Whoever
embraces a woman is Adam. The woman is Eve.
Everything
happens for the first time.
I saw
something white in the sky. They tell me it is the moon, but
what can
I
do with a word and a mythology.
Trees
frighten me a little. They are so beautiful.
The calm
animals come closer so that I may tell them their names.
The books
in
the library have no letters. They spring forth when I open
them.
Leafing
through the atlas I project the shape of Sumatra.
Whoever
lights a match in the dark is inventing fire.
Inside
the
mirror an Other waits in ambush.
Whoever
looks at the ocean sees England.
Whoever
utters a line of Liliencron has entered into battle.
I have
dreamed Carthage and the legions that destroyed Carthage.
I have
dreamed the sword and the scale.
Praised
be
the love wherein there is no possessor and no possessed, but
both
surrender.
Praised
be
the nightmare, which reveals to us that we have the power to
create
hell.
Whoever
goes
down to a river goes down to the Ganges.
Whoever
looks at an hourglass sees the dissolution of an empire.
Whoever
plays with a dagger foretells the death of Caesar.
Whoever
dreams is every human being.
In the
desert I saw the young Sphinx, which has just been sculpted.
There is
nothing else so ancient under the sun.
Everything
happens for the first time, but in a way that is eternal.
Whoever
reads my words is inventing them.
Hạnh Phúc
Bất cứ 1
tên
đực rựa nào ôm một em, thì hắn ta là Adam.
Em là Eve.
Mọi chuyện xẩy
ra lần đầu tiên, thoạt kỳ thuỷ.
Tớ nhìn một
cái gì trắng trên bầu trời.
Họ biểu tớ đó là mặt trăng, nhưng tớ làm gì với một
từ và môn thần thoại học
Những cái cây
làm tớ sợ tí tí. Chúng mới đẹp làm
sao.
Những con thú
tới gần hơn, và tớ có thể nói cho chúng biết, tên của chúng
Những cuốn sách
ở trong thư viện không có chữ.
Khi tớ mở, thì chúng mới nhẩy bổ ra.
Đảo qua bàn
thờ, tớ phóng chiếu hình dáng của Sumatra.
Bất cứ kẻ nào
bật que diêm trong đêm, kẻ đó phát minh ra lửa.
Bên trong tấm
gương, một tên Gấu Khác rình rập.
Bất cứ kẻ nào
nhìn biển, kẻ đó thấy Ăng Lê.
Bất cứ kẻ nào
bật lên một tiếng, Ngụy, kẻ đó gây ra cuộc chiến Mít!
[Hà, hà, dịch
loạn quá, trúng tùm lum tà la!]
Tớ mơ thấy Sài
Gòn, và những binh đoàn VC Bắc Kít tàn phá Sài Gòn
Hãy tấn
phong Tình Yêu, một khi mà chẳng có kẻ thắng cũng như người bại, nhưng
cả hai đều
đầu hàng.
Hãy tấn
phong ác mộng, nó bật mí cho chúng ta, rằng chúng ta làm đếch gì có
quyền năng
để xây lên Hỏa Ngục Đỏ.
Bất cứ kẻ nào
xuống 1 con sông, là sông đó, Mekong, và
tên đó, Gấu!
Bất cứ kẻ nào
nhìn cái đồng hồ cát, là kẻ đó nhìn thấy đế quốc VC đang trên đà hủy
diệt.
Bất cứ kẻ nào
chơi với dao, là kẻ đó tiên tri cái chết của Xê Da.
Bất cứ kẻ nào
mơ, thì kẻ đó là mọi con người
Ở sa mạc, tớ
nhìn thấy con Nhân Sư: Vừa mới được khắc, tạc!
Chẳng có cái
chó gì là “xưa rồi Diễm ơi” ở dưới ánh mặt trời!
Mọi chuyện xẩy
ra lần đầu, nhưng, theo đường hướng được gọi là thiên thu, vĩnh viễn
Bất cứ vị độc
giả nào đang đọc TV, là đang viết những dòng này.
|
|