Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy
trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu
trang Tin Văn.
Email
Nhìn
lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
Chân Dung Nga
Enrique
Vila-Matas
Luận
về tiểu thuyết
|
Thơ Mỗi Ngày
Whatever
Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of
death lie on the grass
and dry
tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever
happened will stay with us
and with us
will grow and diminish.
But we must
live,
the rusting
chestnut tells us.
We must
live,
the locust
sings.
We must
live,
the hangman
whispers.
Adam
Zagajewski
Bất Cứ Cái
Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái
chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người
chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người
chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt
nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của
Nhất
Linh
[những chiếc
lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy
ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với
chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng chúng
ta phải sống,
[Thằng Còi,
Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ
sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải
sống,
con châu chấu
hát.
Chúng ta phải
sống,
HPNT thì thầm
bên tai Gấu.
Search
I returned
to the town
where I was
a child
and a
teenager and an old man of thirty.
The town
greeted me indifferently
but the
streets' loudspeakers whispered:
don't you
see the fire is still burning,
don't you
hear the flame's roar?
Get out.
Find another
place.
Search for
it
Search for
your true homeland.
Adam
Zagajewski
Tìm
Tôi trở về
thành phố
Nơi tôi đã sống
như một đứa bé
Và một thằng
bé
Và một ông
già 30 tuổi
Thành phố dửng
dưng đón tôi
Nhưng cái
loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy
lửa vẫn cháy,
Mi không
nghe ngọn lửa gào?
Cút cha mày
đi!
Tìm một nơi
chốn khác
Tìm nó.
Tìm quê
hương thực sự của mi. (1)
Tôi nhìn bức
hình
Tôi nhìn bức
hình thành phố tôi ra đời
nhìn những
khu vuờn xum xuê, những con phố soắn vòng, những ngọn đồi,
những mái
nhà thờ Thiên Chúa, những vòm nhà thờ Chính Thống,
nơi Chúa Nhật,
những giọng nam trầm cất lên mạnh mẽ
khiến hàng
cây lối xóm run lên bần bật như trong cơn bão;
Tôi liếc
nhìn và tôi không làm sao quay đi, nước mắt ràn rụa,
và bất thình
lình, tôi ngộ ra rằng thì là họ vẫn còn sống.
như thế chẳng
có gì xẩy ra, họ vội vã chạy tới những buổi diễn thuyết,
đợi xe lửa,
lấy xe điện màu xanh da trời, kiểm tra lịch trình, nghe nhạc,
đọc báo hàng
ngày, sống trong hối hả, trong sợ hãi, luôn luôn trễ,
có tí bất tử
ở trong rất cả, nhưng họ đâu biết,
một tên trễ
trả tiền mướn phòng, một tên khác sợ bị phổi,
tên thứ ba
không thể hoàn tất luận án về Kant,
không hiểu sự
vật là gì trong chính chúng
bà tôi vẫn tới
Brzuchowice, mang một cái bánh
trên hai
cánh tay duỗi dài, và chúng không rủ xuống,
trong một tiệm
thuốc Tây, một đứa bé trai nhút nhát đòi thuốc chữa nhút nhát,
một cô gái
ngắm nghía hai cái vú còn nhỏ của mình trong một tấm gương,
ông anh em
bà con của tôi đi ra công viên liền tù tì sau khi ra khỏi bồn tắm,
và không hề
biết rằng, liền tù tì sau đó anh ta bị cảm lạnh, sưng phổi,
nhiệt tình
đôi khi bật ra vào mùa đông, những ngọn đèn vàng tạo những vùng sáng
tròn ấm
cúng;
vào Tháng Bẩy,
lũ ruồi huyên náo ăn mừng ánh sáng lớn mùa hè,
và vo ve những
điệu nhạc ca tụng hoàng hôn,
những cuộc
tàn sát xẩy ra, những cuộc nổi dậy,
những cuộc tống
xuất, lưu đầy,
chế độ Đệ
Tam Reich độc ác nhập vào những bộ quân phục
mật vụ NKVD
khùng xâm lăng, những ngôi sao đỏ hứa hẹn
tình bạn
nhưng có nghĩa là bội phản,
nhưng họ
không nhìn thấy điều này, họ hầu như không nhìn thấy
họ có quá
nhiều điều để làm,
họ cần phơi
khô than cho mùa đông, tìm một vị bác sĩ tốt,
đống thư không trả lời cao dần, màu
mực vàng
phai dần
cái đài chơi
trong phòng, món đồ mua sau cùng của họ,
nhưng họ vẫn ưu tư về đời thường và cái
chết
họ không có
thì giờ,
họ xin lỗi,
họ viết những
lá thư dài và những tấm bưu thiếp ngắn ngủn.
họ luôn luôn
trễ, trễ đến tuyệt vọng,
như chúng ta,
y chang chúng ta, y chang tớ.
Adam
Zagajewski
THE LAST
TOAST
I drink to
the house, already destroyed,
And my whole
life, too awful to tell,
To the
loneliness we together enjoyed,
I drink to
you as well,
To the eyes
with deadly cold imbued,
To the lips
that betrayed me with a lie,
To the world
for being cruel and rude,
To God who
didn't save us, or try.
1934
Anna
Akhmatova
Bữa nhậu
chót
Ta uống mừng
căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời
ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô
đơn ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa
chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt
lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi
thốt lời dối trá
Mừng thế giới
quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời
đếch thèm cứu vớt chúng ta
và cũng chẳng
thèm thử .
30.4.2012
Warning: e-mail
TV [yahoo.com] bị virus, [nhiều người bị], tự động gửi/nhận e-mail loạn
cào cào. Bạn đọc/bạn bè xin
lưu ý.
Thống Kê
25 Apr 2012
424
26 Apr 2012
540
Không biết có
phải vì ngày 30 Tháng Tư sắp tới, số khách viếng TV, bữa nay, giờ này,
6:18 PM,
local time, là 540 visitors.
Như thế, tới
nửa đêm về sáng, hẳn là còn bảnh hơn nữa.
Một con số kỷ lục!
Tks. TV/NQT
Tổng cộng: 627
visitors/26.4.2012.
Tks again. NQT
Đỉnh cao chói lọi
Sinh nhạt Bác
Viên gạch Bác
Một số tiết lộ về cuộc chiến
từ tài liệu CIA
Greene
viết Người Mỹ Trầm Lặng, là
cũng từ nguồn
này, qua lần gặp gỡ
một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)
(1)
Giấc mơ lớn của Mẽo,
từ đó,
cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng bật ra, khi Greene,
trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám
Bến
Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways
of Escape.
"Cách đây chưa đầy một
năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp
tùng Le Roy,
tham
quan vương quốc sông rạch,
trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du
thuyền,
thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa
nhạc, và
những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ
phim Người Thứ Ba, như để vinh danh
tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ
với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là
CIA, [an
American attached to an economic aid mission - the members were assumed
by the
French, probably correctly, to belong to the CIA]. Không giống
Pyle,
thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét,
suốt trên
đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực
lượng thứ
ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa
bao giờ cận kề với
giấc mộng
lớn của Mẽo, về những áp phe ma
quỉ, tại Đông phương, như là nó đã
từng,
tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York
Harding
– cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây
thơ,
nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo.
Người Mẽo tìm kiếm một
nhà lãnh
đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible,
purely
nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân
Việt Nam,
và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của
Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới
với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực
lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những
nhân
vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
30.4.2010
09
05
Loyauté
par DUONG
THU HUONG
Trung
Trung là đức
tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần
tử, phải
trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều
này. [Khi
nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và
thốt
lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ,
với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ
Vua qua Đảng
là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống
Mỹ. Thực
tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi
lại phải
mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như
những xác chết
thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn.
Năm 1991,
tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám
chống Đảng.
"Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ lên một uỷ ban
trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính
trị gồm
13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu
đần, bại
hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu
phải là
ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải
trung với
chúng?". Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt
nó,
là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung
chỉ có
nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn
lựa và đảm
nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một
thánh tượng
tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường
của tôi,
cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi
mới hiểu
và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi
nghĩ, là
nhà văn là kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải
chiến đấu
với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng,
những kẻ
khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng.
"Nous
ne lui demandons pas de devenir un traître. Nous lui proposons une
nouvelle
définition du mot loyauté."
Le Carré: Un homme
très recherché (1)
[Chúng tôi đâu
có đòi bà trở thành một kẻ phản bội. Chúng tôi đề nghị bà một định
nghĩa mới về
lòng trung thành với Đảng VC]
Lần thứ hai
tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam
khác đến
đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được.
Vì khi ở
trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là
một dân
tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong
một phái
đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị
khinh bỉ.
Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà
già Nga bụng
to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán
hàng họ mắng
cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống
nồi,
hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn
Peking
nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ
quần áo
complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn
toàn vỡ mộng
và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi
Nga người
ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại
vớ vẩn
thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của
người Việt
Nam.
DTH
Đây là nỗi
nhục mà dân tộc Mít phải chịu sau 30 Tháng Tư 1975, trên toàn thế giới.
Nỗi nhục
“anus mundi”, [là cái hậu môn của thế giới], như cái tên của nó, nhờ
Milosz, mà
có được.
Ở Canada,
GCC rất nhiều lần vô tiệm của tụi mũi lõ, bị hỏi, và khi trả lời, bị
bồi thêm 1
câu, mày là Mít, OK, nhưng Bắc Kít, hay
Nam Kít. Khi trả lời Nam Kít, thằng chủ quán gật đầu, và Nam Kít
thường
rất tự
hào về điều này. GCC chẳng thấy tự hào tí nào, tất nhiên, vì cũng… Bắc Kít.
Và dù không
phải Bắc Kít, Nam Kít thứ thiệt, thì cũng đếch tự hào nổi.
Sợ còn đau gấp
đôi, gấp ba lũ Bắc Kít.
Chúng đâu thấy
đau?
Moi, je traine le fardeau de la
faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le
crime et le
châtiment.
Gấu cũng có thể nói như
thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Hổ Khủng Khiếp VC
“Chúng tôi
không có được những người lãnh đạo được Nobel Hòa Bình như Đức Phật
Sống, hay
Phu Nhân Aung San Suu Kyi. Đây là những tiếng nói có ảnh hưởng quốc
tế”, Nguyễn
Quân phán. [Giá như ông Nobel Toán của chúng tôi cầm cái bửu bối Nobel
mà dí
vào lăng Bác H, thì có thể…, hà hà!]. Ông là một vị bác sĩ Mẽo gốc Mít.
Ông anh
của ông, Nguyễn Đan Quế, là một nhà hoạt động nổi tiếng đã trải qua hơn
30 năm
trong nhà tù VC, và bây giờ, tù tại gia. Nguyễn Quân đại diện lực lượng
ở hải
ngoại, trong những cuộc gặp gỡ với những nhà nước quốc tế, và đây là 1
mục tiêu
khó bằng trời, chẳng khác gì Sisyphus vác đá. “Chúng tôi làm việc cật
lực để
mong được dân chúng quan tâm. Dân chúng đếch muốn nghe nói tới xứ Mít,
bởi cuộc
chiến trước đây. Và chúng tôi càng nói nhiều thì chúng tôi càng trình
ra thêm
nhiều vi phạm nhân quyền của VC”. Ông nói. Có hai Thượng Nghị
Sĩ Mẽo,
trong năm nay, đề cử Nguyễn Đan Quế vào giải Nobel Hòa Bình.
Miến cũng
cho thấy, tiên đoán khi nào những chế độ như Mít VC, như quân phiệt
Miến… sụp đổ,
là trò chơi của những tên khùng. Nhưng nếu lịch sử hiện đại có 1 tên… “giao liên” [guide; người dẫn đường, đưa
đường],
thì dân Mít quả đã từng chứng tỏ họ đủ sức đứng lên chống lại đàn áp,
thống trị.
Cái nhà nước VC vừa mới được nhắc nhở điều này, và vừa nếm mùi đứng dậy
của một
người dân Mít, tromg 1 biến cố chưa từng có vào Tháng Giêng.
Ở bên
ngoài thành phố Cảng Hải Phòng, một tay chủ trại chuyên nghề đánh cá đã
mở ra 1
cuộc nổi dậy có võ khí chống lại nhà cầm quyền VC địa phương, khi tụi
khốn kiếp
toan tính tịch thu đất của ông, sau khi hợp đồng thuê của ông hết hạn
(quyền tư
hữu tài sản chưa được phép tại Việt Nam). Anh trở thành anh hùng quốc
gia, và
trong một bước ngoặt quái đản của sự kiện, chính quyền trung ương, và
báo chí
do nhà nước kiểm soát, lúc đầu chỉ trích anh chủ trại đánh cá, sau quay
180 độ,
phò anh ta, hà hà!
Trong năm tới,
những hợp đồng thuê như thế sẽ hết hạn trên toàn quốc, và sẽ ảnh hưởng
khốc liệt
đến số phận hàng ngàn người dân làng nghèo khổ. “Đó là những bom hẹn
giờ, kêu
tích tích suốt xứ Mít”, Thayer phán.
Cho tới nay,
Đảng VC vẫn lèo lái, tránh né bãi bom hẹn giờ, và vẽ ra [cái mà Thầy
Cuốc gọi
là] “tự sự chính trị”, của xứ Mít VC hiện thời, như là một trong những
thành
công về kinh tế, và ổn định về chính trị. Nhưng với những đổi thay, như
là một
phép lạ, xẩy ra ở Miến, song song với nó, là đàn
áp người
dân phê bình nhà nước, đòi hỏi dân chủ của Đảng VC, đã đến
lúc vấn
đề nhân
quyền phải được coi là trọng tâm trên sàn diễn chính trị trong những
cuộc
bàn bạc,
thảo luận, làm ăn… giữa Tây Phương với xứ
Mít VC. Lực lượng đòi hỏi dân chủ cho xứ sở - bị đánh phá tơi bời, bị
bách hại
dòng dã bao năm trời, nhưng chẳng hề bao giờ bị dập tắt, dẹp tan, làm
câm tiếng
– phán, họ đã sẵn sàng nói với thế giới câu chuyện của họ. Nguyễn Quân,
thường
xuyên liên lạc với ông anh ly khai Nguyễn Đan Quế, nhớ lại cuộc nói
chuyện giữa
hai anh em mới đây: “Ông nói với tôi, bây giờ khác rồi. Dân chúng không
còn sợ
như 10 năm trước. Nhiều, rất nhiều người trẻ nhập cuộc, chúng càng bắt
thì lực
lượng càng mạnh thêm, lớn thêm”. +
Đoạn
trên Bi Bì Xèo vờ, đếch dám dịch, hà, hà!
Chúng làm
như đếch có ai dịch nổi, hoặc đếch có ai dám mó dế VC, chắc thế!
Một bài viết
trên báo Mẽo, dịch, mà còn tự ý kiểm duyệt, sợ VC đến như thế, thì còn
mong gì ở
đám này.
Có khi cũng 1 thứ Cớm Văn Hóa của Đảng Ta!
Đâu phải 1,
mà rất nhiều lần.
Một trong những
mặc cảm tội lỗi của lũ mũi lõ Tây Phương, mà tác giả bài báo trên FP
nhắc tới
trong bài viết nêu trên, chính là cái sự kiện, thí dụ, Bi Bì Xèo
thay thế
toàn bộ đám bồi xưa cũ của VNCH, bằng đám bồi viết mới, ra đi
[qua Tây Phương]
từ Miền Bắc. Và, tạo cú “đứt đoạn tri thức luận”, về đủ thứ hiểu biết,
tri thức,
giữa cũ và mới.
Hiển nhiên nhất là cái cú, đám bồi mới dịch Quần Đảo Ngục Tù là
Bán Đảo Ngục Tù.
Đây không phải
là chuyện “dịch loạn”, mà là mù tịt về văn hóa, về kinh nghiệm sống, về
đọc, về
viết, về đủ thứ hầm bà làng: Chúng không hề biết 1 tí gì về tù đầy Cộng
Sản, về
Toàn Trị, về Lò Thiêu, về con số người chết trong Lò Thiêu, và Lò Cải
tạo, về sự
khác biệt giữa hai chế độ, giữa Hitler và Stalin. Ông Nobel Toán, cũng
1 thí dụ
khác nữa, về “vô tri”: Người “khăng khăng” tin rằng, cuộc chiến Mít là
giữa dân
Mít và thằng Mẽo xâm lược, “Người” không hề biết đến lũ Ngụy, trong khi
bà DTH,
thì phải đợi đến năm “1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh
người miền
Nam ở Quảng Bình”…
Đây là cái điều
mà bà DHT gọi là man rợ thắng văn minh, trong cuộc chiến Mít
Ngoài cái cú
“đứt đoạn tri thức luận”, chúng còn mang theo cái đuôi, suốt đời, “tự
động kiểm
duyệt”.
Tribute to Khoa Hữu
My hero:
Walter Benjamin
by Elif Shafak
'One doesn't
read him to feel better – one reads him to feel'
Tuyệt!
The life
of
Lillian Hellman
Profile in
courage
Lillian
Hellman, a popular playwright and bestselling author, was a minor
player in
American intellectual circles. So why is she still such a divisive
figure?
Tribute to Fang Lizhi
Facing
History
Thời
Không Mặt
The human face disappeared
and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos,
'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks
gloried in
facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ
xưa, kẻ nô
lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy.
Người CS
hãnh diện trong "không mặt".]
Chí
Phèo vs Julien Sorel
[Đỏ
và Đen] vs Tâm [Bếp Lửa]
Trong số báo văn học Pháp,
Le Magazine Littéraire, Avril 2005, dành cho Stendhal, Yves Ansel,
trong bài
Người ‘đẻ ra’ tiểu thuyết hiện thực [Le fondateur du roman réaliste]
viết: Với Đỏ và Đen, Stendhal thực sự phát minh ra tiểu thuyết
hiện
thực: một câu chuyện mà không một hành động, không một tư tưởng
nào mà
không bị quyết định bởi trò chơi xã hội: Julien Sorel phải, bằng mọi
cách, kiếm
được miếng ăn, ‘gagner son pain’.
Nhìn như thế, thì Nam Cao, với Chí Phèo quả là người thực sự
phát minh
ra tiểu thuyết hiện thực của Mít chúng ta.
Đọc Đỏ và Đen, đọc song song với nghiên cứu Mác xít về
‘fétichisme de la
marchandise’, về "vật hóa", la réification, rồi đọc Lukacs, Lý
thuyết tiểu thuyết, thì chúng ta mới nhận ra vị trí của Chí
Phèo của
Nam Cao.
Những dòng sau đây, về Sorel, mà chẳng đúng với Chí Phèo sao:
... nhân vật đầu tiên ' nghiêm túc', được trả luơng, nhân vật thứ nhất
nhìn ra,
giá trị của mình tùy thuộc 'rất căng', vào giá cả trên thị trường;
không một tư
tưởng, không một chiến thuật, không một hành động nào mà thoát ra khỏi
nhu cần
tối cần thiết, là kiếm được miếng ăn [với Chí Phèo, bắt buộc phải có
cút rượu
kèm theo!]
… le premier héros « sérieux» salarié, le premier héros qui voit sa
valeur
dépendre étroitement de son prix sur le marché du travail est Julien
Sorel,
dont pas une des pensées, pas une des stratégies, pas une des actions
n'est
totalement étrangère à la nécessité de « gagner son pain ». Tels sont
quelques-uns des « petits faits vrais» qui ont fait du Rouge une «
chronique»
qui a sa place dans l'histoire du roman réaliste européen.
Cái từ ‘chronique’, trên, làm nhớ tới định nghĩa của Lukacs, về tiểu
thuyết, áp
dụng thật đúng y chang vào Chí Phèo, và sau này, vào nhân vật
chính
trong Bếp Lửa:
Để có tiểu thuyết, là phải có sự đối nghịch căn bản giữa con người và
thế giới,
giữa cá nhân và xã hội.
Il faut, pour qu’il y ait roman, une opposition radicale entre l’homme
et le
monde, entre l’individu et la société.
Tiểu thuyết là một hình thức tiểu sử tối hảo, une forme biographique
par
excellence, và cùng lúc, một ký sự xã hội, trong chiều hướng mà
cuộc tìm
kiếm xẩy ra ở trong lòng xã hội đó [une chronique sociale dans la
mesure où
cette recherche se déroule à l’intérieur d’une société donnée]
Cái xã hội Miền Bắc của Chí Phèo, mà anh ta, khi muốn tìm lại mình, thì
đành
chết, và của nhân vật, Tâm, trong Bếp Lửa, đành bỏ đi, là
y chang!
Ngoài thơ ra, tôi trải qua
hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp
Lửa,
1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn
lựa miễn
cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn
cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong
khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân
vật
trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ
diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối
Bếp
Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa vô thường và chút hơi ấm của nỗi
chết
Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra.
TTT
Tiểu thuyết, một thế giới
về chiều [le monde dégradé], nhân vật chính mang trong người căn bệnh
siêu hình
[ le mal ontologique] - nhân vật chính trong Bếp Lửa cũng mang
một con
sâu ở giữa tim, giữa hồn, giữa não - một căn bệnh vô phương cứu chữa:
và chỉ
thoát ra bằng sự thất bại. Thất bại ở đây có nghĩa, như là sự chia lìa
không
sao hàn gắn, giữa nhân vật chính và thế giới bên ngoài, sự thụ động ù
lì của
gã, chỉ vì ý thức của gã quá rộng, trong khi thế giới quá bảo thủ, uớc
lệ,
không sao thỏa mãn nổi. Đấy là nội dung của tiểu thuyết. Về hình thức:
Tiểu
thuyết bắt buộc vừa là một truyện ký [biographie] - tiểu sử, cuộc sống
của anh
chàng tên là Tâm ở trong Bếp Lửa, vừa là một ký sự xã hội
[chronique
sociale] - xã hội Miền Bắc, thành phố Hà Nội đúng hơn, trong cơn xao
động của
lịch sử.
Và sau cùng, biểu lộ tình
cảm, "Anh yêu quê hương vô cùng, yêu em vô cùng", kết thúc
Bếp Lửa, là một điểm vượt [le dépassement], khi đó, tác giả -
tiểu
thuyết gia - rời khỏi thế giới về chiều, thế giới mộng ảo của tiểu
thuyết, và
trở lại đời sống thực [Lưu Nguyễn về trần]. Đó là lúc ý thức tiểu
thuyết gia,
vượt ý thức nhân vật, để tìm lại cái chính, cái thực [l'authenticité],
Lucien
Goldmann, diễn ý Lukacs, gọi đó là sự chuyển hoá [la conversion], từ
thế giới
tiểu thuyết qua thế giới thực, là đời sống mất đi tìm thấy lại.
Bếp Lửa trong văn
chương
Bếp Lửa trong văn chương
[Bản scan bài viết 1973]
Bếp lửa trong VC
[Ui choa, khi viết bài này, mới
huyễn hoặc làm sao!
Y chang cả Miền Nam, những ngày 30 Tháng Tư 1975: Vui sao nước mắt lại
trào!]
Sự thực của nhà văn không
phải sự thực của nhà phê bình. Sự thực đời sống [sự thực của những
người đã
chết truyền lưu cho kẻ sống sót. Bếp Lửa, Tựa, lần xuất bản
thứ hai,
1965] lại càng không phải sự thực văn chương. Valéry gọi, đây là ảo
tưởng
hiện thực, lòng tin ngây thơ, văn chương có thể ghi lại thực tại.
Nhà văn
là một kẻ "sống sót", thời gian dùng vào việc viết là một thời gian
xác định, nhưng tác phẩm chỉ sống sót khi vẫn còn là một tác phẩm văn
chương -
vẫn còn tham dự vào dòng thời gian vô định của trí nhớ, của hồi tưởng
và của sự
đọc.
Bếp Lửa trong văn chương. Văn, số đặc biệt về TTT
[1973].
Những dòng trên, bây giờ
nhìn lại, nhận ra, chúng được viết dưới ánh sáng của tiểu thuyết mới,
của
Barthes, chứng tỏ Gấu hoàn toàn hồi phục, sau cú đánh của Lukacs, của
dòng văn
chương dấn thân, của dòng văn chương ý thức hệ.
Bây giờ thì tha hồ mà viết, chẳng cần tại sao viết, viết cho ai, viết
để làm
gì.
Chỉ là, viết thế nào?
Cái
sự gen đột biến, biến
thành ruồi, tay tổ sư Mác Xít Lukasc đã tiên đoán ra được, và gọi là
"vật
hóa", la réification, nhưng ông đổ tội cho tư bản chủ nghĩa, có khuynh
hướng biến con người thành đồ vật, và chỉ có ý thức giai cấp vô sản mới
đảm bảo
cho con người thoát khỏi sự trù ẻo này.
Bài giới thiệu Lukacs, cũng thường thôi, phần lớn đều là những chuyện
được
nhiều người biết, tuy nhiên, sự kiện, nhà xã hội học Joseph Gabel,
trong tác
phẩm Ngụy Ý Thức, tìm ra mắc mớ giữa lý thuyết “ruồi hóa” của
Lukacs, và
chứng bịnh thần kinh phân liệt, thì quả là quá thú vị!
TTT 2012
21. Sinh nhật
húy nhật
Les morts de
Lofoten sont moins morts que moi (a)
Oswald L. de
Milosz
Giữa trưa mệt
té xỉu trên đồi
Quanh mình vẳng
tiếng cuốc liên hồi
Đào huyệt
chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên
xác tù nằm phơi
Nhìn
xem
gương mặt hắn thanh thản
Lộng nắng bừng
say chợp ngủ vùi
Người mang cầm
hãm đặng bêu riếu
Hắn “cũng
đành xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc
ham mê rồ dại” [1]
Hắn tự chôn
huyệt gió đáy trời.
(a)
Tous les morts sont ivres
de pluie vieille et froide
Au cimetière étrange de Lofoten
L'horloge du dégel tictaque lointaine
Au coeur des cercueils pauvres de Lofoten
Et grâce aux trous creusés par le noir printemps
Les corbeaux sont gras de froide chair humaine
Et grâce au maigre vent à la voix d'enfant
Le sommeil est doux au morts de Lofoten
Je ne verrai très
probablement jamais
Ni la mer ni les tombes de Lofoten
Et pourtant c'est en moi comme si j'aimais
Ce lointain coin de terre et toute sa peine
Vous disparus, vous suicidés, vous lointaines
Au cimetière étranger de Lofotene
- Le nom sonne à mon oreille étrange et doux.
Vraiment, dites-moi, dormez vous, dormez-vous ?
- Tu pourrais me conter des choses plus drôles
Beau claret dont ma coupe d'argent est pleine.
Des histoires plus charmantes et moins folles ;
Laisse-moi tranquille avec ton Lofoten.
Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar Vladislas de Lubicz Milosz
Éditions André Silvaire
Có thể, TTT đọc
bài thơ này, cùng lúc với thơ Nguyễn Bắc Sơn, cùng lúc, viết thư cho
đảo xa
& về lại Sài Gòn từ Đà Lạt…. và, nhận ra cái ý tưởng bàng bạc
giữa thơ
của Oscar Milosz, và của NBS:
Tous les morts sont ivres
&
Nếu ta lỡ
chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến
thành mây bay.
Đúng ý
Alain, như
Steiner trích dẫn làm đề tử trong cuốn mới ra lò của ông, Thơ của Tư
tưởng:
Toute pensée
commence par
un poème.
(Every thought begins with a poem.)
Mọi tư tưởng bắt đầu bằng
1 bài thơ
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Tất cả những
người chết thì đều say
Tất cả những
người đã chết thì đều say mưa,
[một thứ mưa]
xưa, và lạnh
Ở nghĩa
trang là lạ là Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn
Đồng hồ băng tan tích tắc ở xa xa
Ở trái tim của
những chiếc hòm nghèo nàn của Sài Gòn
Và nhờ những
lỗ thủng được khoét bởi mùa xuân đen
[VC gọi là Đại
Thắng Mùa Xuân, Đỉnh Cáo -
hay Cao thì cũng được - Chói Lọi]
Những con quạ
mập phì vì thịt người lạnh
Và nhờ ngọn
gió gầy có tiếng nói của con nít
Giấc ngủ mới
mềm dịu biết bao với những người chết ở Sài Gòn
[Cái gì gì
giống như “Ngã ở trên núi khi vác củi”:
Hồn dưng dưng
chẳng chút oán sầu?]
Có lẽ Gấu sẽ chẳng
bao giờ nhìn thấy [lại]
Biển Vũng Tầu,
Không,
Những nấm
mồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng không.
Nhưng, rõ ràng
là, ở trong thằng cu Gấu
[Thằng cu Nghệ, TTT, đúng hơn],
Mới yêu thương làm sao,
Cái nơi chốn
xa xăm và tất cả nỗi khổ đau của nó.
Lũ Chúng Ta
[chữ của VHC]
Mất tích, tự tử, lạc loài
Ở nơi nghĩa địa
là lạ là Mạc Đĩnh Chi
-Ui chao, chỉ
nội cái tên thôi mà đã dội ở nơi tai Gấu
Một cái gì là lạ và dịu dàng.
Thực sao, hãy
nói cho Gấu biết, bạn ngủ ư, bạn ngủ ư?
Toa có thể kể cho moa
nghe những chuyện tức cười hơn
Rượu vang thì
đẹp và cái ly sành của moa
thì đầy
Những chuyện
thú vị, và ít khùng điên ba trợn
Hãy mặc moa với Sài Gòn của toa
[Toa ở đây là ông bạn miệt vườn, bạn
quí
của thằng Bắc Kít di cư là GCC]
Trời thì đẹp.
Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Của những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
13.7.2010
Dear GNV,
Tôi phải đặt
từ "blackguard" vào ngoặc kép, dùng lại, trích dẫn nó. It's not my word.
HÂ.
K. mở ra
‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là
Xịa. ST có
là nhờ nó. ??? (1)
Trong bài phỏng
vấn của Thụy Khuê, Mai Thảo đã cho biết khi báo của ông nổi lên rồi thì
người của
quân đội đến đặt báo một số lượng lớn, đâu có nói họ đưa cho ông một số
tiền để
lập nên tờ báo?
Hay GNV có một
tin bật mí nào khác?
Khi nghe đồn
là Sáng Tạo làm việc cho Xịa ông không viết chống Cộng nữa, thà làm
người hùng
của phòng trà. Và "Thi sĩ của chúng ta" thì không giống K., loay hoay
mãi để làm sao "viết mà như không có gì xảy ra".
Vậy, khi nói
"ST có là nhờ nó" , tức Xịa, trên TV đang được rất nhiều người đọc, Gấu
"giết" hai người ấy thêm một lần nữa rồi.
Xịa cũng đã
không tạo ra cái công thức K [Koestler]
K= 1/3
genius + 1/3 “blackguard” + 1/3 lunatic
Càng chẳng
thể dựng nên được G:
G= 1/3
"confiance” + 1/3 "respect” + 1/3 "je ne sais quoi" (2)
H.A
Phúc đáp:
Như trong bài
phỏng vấn cho biết, thì đúng là MT lấy tiền của Mẽo, dù chỉ là 1 hợp
đồng bán
báo.
Tờ HL lấy tiền
của VC, cũng theo kiểu này, qua 1 danh sách độc giả dài hạn, của đám
Miền Nam bỏ
chạy bợ đít VC.
Lấy tiền cả
của Mẽo nữa. GCC biết qua 1 bạn văn, nhưng mới đây, (8.2011), gặp 1 tay
trong
ban chủ trương HL [LB], cho biết, không có chuyện đó.
TTT đâu có
biết là MT lấy tiền của Mẽo. Khi biết, ông rãn ra, thành thử báo chết
cũng do đó
1 phần.
TTT muốn thật
sạch.
Khác hẳn
Milosz.
Ông Nobel này
chủ trương phải có tí bẩn mới được! (3)
TK:
Sáng Tạo thành lập bằng
tiền của ai?
MT: Bằng cái hợp đồng tôi
ký với một thằng Mỹ ở Virginia, không biết bây giờ sống chết thế nào.
Đó là cái
hợp đồng bán báo, không có điều gì cần giấu diếm hết, đại khái nếu mình
in 5000
tờ, thì nó mua đứt cho mình 2000, vừa đủ tiền in, tiền giấy, không có
cái nghiã
gì khác hết, và cũng không có điều kiện gì khác hết.
Tks & Regards,
NQT
(2)
(Thứ tình
yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm
một phần
ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais
quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy... Không, trăm lần không,
ngàn lần không, đừng bao giờ nói như vậy, đừng bao giờ nói anh không
xứng đáng,
cũng đừng bao giờ nói anh làm cho tuổi thơ của Hương bị xáo trộn, những
ngày đầu
tiên quen anh là những ngày sung sướng đối với Hương, anh là người đầu
tiên đã
trò chuyện với Hương, đã làm cho Hương nghĩ tới một điều gì từa tựa như
là
tương lai, hạnh phúc, một điều gì từa tựa như tình yêu...)
Ui chao, làm
sao mà cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài VTD thoại/Quốc Tế, đọc
đoạn
trên -
trong lá thư, độc nhất, của BHD, đi bộ từ Ngã Sáu Gia Long
& Võ Tánh,
tới Đài VTD, số 11 Phan Đình Phùng, gần Đài Phát Thanh Sài Gòn, tới,
bấm thang,
tính lên lầu, đưa tận tay cho GCC, thì gặp ông cảnh sách về hưu, chìm,
canh gác
cho Đài, và đưa cho ông, và nói, đưa giùm, và trở ra, đi về, hay đi
học… - và có
thể phán, "cái cô gái này không thương cậu đâu"?
The wiles of
art
Mưu ma chước
quỉ của nghệ thuật
Guilt
and greatness in the life of Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
Tôi là kẻ may mắn sống
sót,
nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby,
trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước,
Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra
trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù
VC kể như
không có!
Đâu có phải tự nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả
VC cũng
quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu,
Lò Cải
Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa.
[But the notion that the Holocaust might happen again is exactly what
"Shoah" is not about.]
Hà, hà!
(1)
K.
mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa,
là Xịa.
ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!]
Bộ
sách vĩ đại Văn Học Miền Nam
của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa
khác!
Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third blackguard,
and one
third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3
khủng, mát]
tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù
Pentonville, báo cáo với sếp.
Cái lũ cà chớn
Hậu Vệ và đệ tử của Thầy Cuốc chửi Gấu là mạ lỵ ông tiên chỉ. Làm gì có
chuyện đó:
ông tiên chỉ mạ lỵ ông tiên chỉ là đủ rồi. Thử hỏi, một khi ông VP lấy
tiền của
Mẽo để viết về văn học Miền Nam, liệu ông có dám
chửi thằng chủ chi địa không?
Trong VHTQ có dòng nào nói xấu anh Mẽo, người
bạn quí của dân Mít?
Đồng ý là Mẽo thực sự không hề có ý ăn cướp, dầy xéo nước
Mít, nhưng chúng đến chẳng có ý tốt, mà bỏ chạy lại càng không có ý
tốt!
[Gặp đã
khó, xa lại càng khó, cái này để gửi đảo xa, hà hà].
Nhưng khốn nạn
nhất là những dòng VP viết về đám Sáng Tạo, y chang những dòng MT nhớ
về người
bạn quí, mà ông đã từng lầm với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn dám
ngửa tay
xin ông 1
điếu thuốc lá!
Cũng vẫn chất
Bắc Kít khốn kiếp mà ra!
Đọc những dòng MT viết về Trung Kít, trong phỏng vấn do TK thực hiện,
rồi đọc
TQVH của VP là nhìn ra ngay lòng hận thù giữa Kít với Kít.
Cái khốn nạn của dân
Mít là còn do chữ S mà ra.
Nếu có 1 chữ “K” cảm tính
của Kafka, (1) thì cũng có 1
chữ S hận thù của giống Mít.
Viết kể với em, lúc này
anh nhớ đến một
câu thơ của Milozs : Je suis plus mort que les morts de Lofoten. Nhảm.
Mai Thảo
nó bảo: ca, c'est de la littérature, sống không như vậy. Điều đó chính
anh vẫn
nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt
để nói
hình như anh cũng đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào một kẻ
chết đuối.
Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết cho em - có thể
sau thư
này - anh bất định quá.
Thư gửi Đảo
Xa
Note:
Milosz, không phải Milozs.
Và cũng không phải Czeslaw mà là Oscar Milosz, cũng
họ hàng với nhau. Czeslaw Milosz tin rằng, phải có tí bẩn mới là thi sĩ
của thế kỷ 20
được, nhưng ông lại thèm được như Brodsky, như ông viết trong entry
“hatred”,
trong Milosz’s ABC’s: Đời
tôi thì là một trong trong những cuộc đời kinh ngạc
nhất mà tôi đã trải qua, one of the most astonishing I have ever
across. Đúng là
nó thiếu sự trong sáng của một câu chuyện đạo hạnh như là của Brodsky.
Ông ta đang
đào “kít” [“như toàn thể dân Nga”, chữ của Brodsky] ở một nông trường
cải tạo,
và vài năm sau “đợp” [collect] mọi vinh quang, kể cả Nobel văn
chương.
TTT, một cách
nào đó, thì cũng giống Brodsky, ông bị lịch sử lọc ra, và đành đóng vai
‘kẻ sĩ
Ngụy’, dù chẳng muốn, như trong thư gửi đảo xa cho thấy:
Thường anh
chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì về
mình, bởi mỗi
lần ngó thấy anh đều thấy như mình bị đóng đinh. Anh đã là như thế
nhưng anh
còn có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao
giờ xúc
động lâu về những điều đàm tiếu, thị phi hết.
Nhân nhắc tới
Oscar Milosz, "đi" lại một bài viết về ông, của Kundera, trong Gặp Gỡ
L'INTOUCHABLE
SOLITUDE D'UN ÉTRANGER (Oscar Milosz)
1
La première
fois que j'ai vu le nom d'Oscar Milosz, c'est au-dessus du titre de sa Symphonie de Novembre
traduite en tchèque et publiée quelques mois après la
guerre dans une revue d'avant-garde dont j'ai été, à dix-sept ans, un
lecteur
assidu. À quel point cette poésie m'avait envoûté, je l'ai constaté
quelque
trente ans plus tard, en France, où pour la première fois j'ai pu
ouvrir le
livre de poésie de Milosz dans l'original français. J'ai vite trouvé la
Symphonie de Novembre,
et en la lisant j'ai entendu dans ma mémoire toute la
traduction tchèque (superbe) de ce poème dont je n'ai pas perdu un seul
mot.
Dans cette version tchèque, le poème de Milosz avait laissé en moi une
trace
plus profonde, peut-être, que la poésie que j'avais dévorée à la même
époque,
celle d'Apollinaire ou de Rimbaud ou de Nezval ou de Desnos.
Indubitablement,
ces poètes m'avaient émerveillé non seulement par la beauté de leurs
vers mais
aussi par le mythe entourant leurs noms sacrés, qui me servaient de
mots de
passe pour me faire reconnaître par les miens, les modernes, les
initiés. Mais
il n'y avait aucun mythe autour de Milosz: son nom totalement inconnu
ne me
disait rien et ne disait rien à personne autour de moi. Dans son cas,
j'ai été
envoûté non pas par un mythe, mais par une beauté agissant d'elle-même,
seule,
nue, sans aucun soutien extérieur. Soyons sinncères : cela arrive
rarement.
2
Mais
pourquoi justement ce poème? L'essentiel, je pense, résidait dans la
découverte
de quelque chose que jamais nulle part ailleurs je n'ai rencontré: la
découverte de l'archétype d'une forme de la nostalgie qui s'exprime,
grammaticalement, non pas par le passé mais par le futur. Le futur
grammatical
de la nostalgie. La forme grammaticale qui projette un passé éploré
dans un
loinntain avenir; qui transforme l'évocation mélancolique de ce qui
n'est plus
en la tristesse déchirante d'une promesse irréalisable.
Tu seras
vêtu de violet pâle, beau chagrin!
Et les
fleurs de ton chapeau seront tristes et petites
3
Je me
rappelle une représentation de Racine à la Comédie-Française. Pour
rendre les
répliques naturelles, les acteurs les prononçaient comme si c'était de
la
prose; ils effaçaient systématiquement la pause à la fin des vers;
impossible
de reconnaître le rythme de l'alexandrin ni d'entendre les rimes.
Peut-être
pensaient-ils agir en harmonie avec l'esprit de la poésie moderne qui a
abandonné depuis longtemps et le mètre et la rime. Mais le vers libre,
au moment
de sa naissance, ne voulait pas prosaiser la poésie! Il voulait la
débarrasser
des cuirasses métriques pour découvrir une autre musicalité, plus
naturelle,
plus riche. Je garderai à jamais dans mes oreilles la voix chantante
des grands
poètes surréalistes (tchèques aussi bien que français) récitant leurs
vers! De
même qu'un alexandrin, un vers libre était lui aussi une unité musicale
ininterrompue, terminée par une pause. Cette pause, il faut la faire
entendre,
dans un alexandrin aussi bien que dans un vers libre, même si cela peut
contredire la logique grammaticale de la phrase. C'est précisément dans
cette
pause cassant la syntaxe que consiste le raffinement mélodique (la
provocation
mélodique) de l'enjambement. La douloureuse mélodie des Symphonies de
Milosz
est fondée sur l'enchaînement des enjambements. Un enjambement chez
Milosz,
c'est un bref silence étonné devant le mot qui arrivera au début de la
ligne
suivante:
Et le
sentier obscur sera là, tout humide
D'un écho de
cascades. Et je te parlerai
De la cité
sur l'eau et du Rabbi de Bacharach
Et des Nuits
de Florence. Il y aura aussi
4
En 1949,
André Gide a établi pour les éditions Gallimard une anthologie de la
poésie
française. Il écrit dans la préface: «X. me reproche de n'avoir rien
donné de
Milosz. [ ... ] Est-ce un oubli? Non pas. C'est que je n'ai trouvé rien
qui me
parût particulièrement valoir d'être cité. Je le répète: mon choix n'a
rien
d'historique et seule la qualité me détermine. » Il y avait, dans
l'arrogance
de Gide, une part de bon sens: Oscar Milosz n'avait rien à faire dans
cette
anthologie; sa poésie n'est pas française; gardant toutes ses racines
polono-lituaniennes, il s'était réfugié dans la langue des Français
comme dans
une chartreuse. Considérons donc le refus de Gide comme une noble façon
de
protéger l'intouchable solitude d'un étranger; d'un Étranger.
Không chạm tới được nỗi cô
đơn của người lạ
1
Lần đầu tiên tôi thấy tên Oscar Milosz là
trên cái tựa Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, được dịch ra tiếng Tiệp, được xuất bản vài tháng sau
chiến tranh trong một tạp chí thời thượng mà ở tuổi mười bảy, tôi là
một độc giả chuyên cần. Bài thơ này đưa tôi lên tận mây xanh, ba mươi
năm sau ở Pháp, tôi đã ghi nhận điều này khi lần đầu tiên tôi mở quyển
thơ của Milosz trong ấn bản nguyên thủy tiếng pháp. Tôi nhanh chóng tìm
thấy bài thờ Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, khi đọc lại tôi còn nhớ như in không sót một chữ bài
dịch tiếng Tiệp tuyệt vời ngày xưa. Trong bản tiếng Tiệp, bài thơ này
đã để dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi, có thể, còn hơn cả các bài thơ tôi
đọc hồi đó của Apollinaire, Rimbaud, Nezval hay Desnos. Rõ ràng không
chối cãi, các bài thơ này huyễn hoặc tôi không những vì nó hay mà còn
do huyền thoại tạo ra chung quanh tên tuổi thiêng liêng của họ, làm từ
khóa để qua các văn sĩ của tôi, tôi biết ai là người hiện đại, ai là
người tiên phong. Nhưng chẳng có huyền thoại nào chung quanh cái tên
Milosz, một cái tên lạ hoắc, không làm cho tôi liên tưởng đến ai, và
cũng không nhắc tôi nhớ đến ai chung quanh tôi. Trong trường hợp của
ông, tôi ngẩn ngơ không phải vì một huyền thoại mà vì chính cái đẹp của
nó, một mình, trần trụi, không trụ chống bên ngoài. Chúng ta hãy trung
thực với mình chuyện này : chuyện này rất hiếm khi xảy ra.
2
Nhưng tại sao lại chỉ chính bài thơ này ? Tôi
nghĩ, chính yếu, là nó nằm trong cái mà tôi chưa bao giờ thấy ở đâu hết
: sự khám phá mẫu lý tưởng của một hình thức nhớ nhung mà nó diễn tả,
theo ngữ pháp, một loại nhớ nhung không phải qua quá khứ mà qua vị lai.
Thời vị lai ngữ pháp của nhớ nhung. Hình thức ngữ pháp phóng chiếu một
quá khứ đau buồn lên một tương lai xa xăm ; chuyển tải cái gợi nhớ buồn
bã không còn nữa lên nỗi buồn tan nát của một lời hứa không thể nào
thực hiện được.
Nỗi buồn
xinh xắn ơi, em sẽ khoác chiếc áo màu tìm nhạt,
Và các nụ hoa trên mũ của
em sẽ nho nhỏ và buồn buồn.
3
Tôi còn nhớ buổi trình diễn kịch của Racine ở nhà
Kịch Comédie-Française. Để làm cho lời đối đáp được tự nhiên, các diễn
viên đọc thơ như đọc văn vần; họ xóa một cách có hệ thống phần nghĩ
đàng sau mỗi câu thơ; không thể nào nhận ra nhịp điệu alexandrin, cũng
không nghe lối họa vần. Có thể họ nghĩ làm như vậy sẽ hài hòa với tinh
thần thơ văn hiện đại, loại bỏ từ lâu vừa vần vừa âm luật. Nhưng vần
thơ tự do, từ khi sinh ra đã không muốn làm thơ văn tầm thường ! nó
muốn loại cái vỏ ngoài kích thước để thấy tính âm nhạc, tự nhiên hơn,
phong phú hơn. Tôi lúc nào cũng giữ trong tai tôi giọng nói như hát của
các thi sĩ lớn siêu hiện thực đọc thơ (tiệp cũng như pháp) !
4
Năm 1949, André Gide làm một quyển hợp tuyển
thơ Pháp cho nhà xuất bản Gallimard. Ông viết trong lời mở đầu: «X.
trách tôi đã không dành một chỗ nào cho Milosz. [ ... ] Quên sao?
Không. Là vì tôi không thấy một cái gì đặc biệt để đáng đưa ra. Tôi lặp
lại: lựa chọn của tôi không có tính cách lịch sử gì hết, chỉ có phẩm
chất mới làm tôi quyết định.» Câu nói phách lối của Gide có lý một
phần: Oscar Milosz chẳng dính gì trong hợp tuyển này ; thơ của ông
không phải là thơ tiếng Pháp; vì ông giữ tất cả nguồn cội gốc rễ Ba
Lan-Li-tu-a-ni, ông núp trong ngôn ngữ Pháp như trốn trong tu viện.
Chúng ta hãy xem lời từ chối của Gide như một cách quý phái để gìn giữ
cái cô đơn không chạm tới được của một người lạ ; một Người Xa Lạ.
[LN dịch]
Ghi
chú
trong ngày
Lolita
vs BHD
Cali
Tháng Tám 2011
Toi dang viet ve bai tho
Bien
H.A cho phep dung may cai mail dau
Hw?
Gui kem,
Tks
Wed, 10 Feb
2010 13:05:28 -0800
"Biển" cuả ông đang quạnh
quẽ, buồn thăm thẳm và lạnh
băng...
Đẹp như vậy mà sao không để cho nó được yên hở Gấu Nhà Văn?
H.A
Cái tít làm
Gấu nhớ bài viết về 1 bạn quí, những ngày mới vô làng.
“Khí hậu ẩm
ướt trong thế giới tiểu thuyết NDT.”
Bài đăng
trên Nghệ Thuật. VL đọc bản thảo, nghiêm giọng phán, mày viết sao là nó
mang
cái tên của mày, ký ở dưới bài viết đấy.
Ý anh muốn
nói, mày thổi bạn quí vừa thôi.
TTT cũng đi
1 đường, tương tự, khi GCC viết về 1 đấng bạn quí khác.
Cái khí hậu
của TV, thì cũng là cái khí hậu tâm thần của Sebald, theo GCC
Sau cuộc chiến
[Mít], nếu bạn vẫn là con người, thì không thể lành lặn được.
Phải có 1
cái gì ở trong bạn bị hư, hỏng, hoặc trục trặc, lâu lâu dở chứng.
NQT
HTL vs CVD
Minh Trị
Thiên Hoàng ở Nhật Bản thành công với cuộc Duy tân 1867–1895, vì đã gửi
sinh
viên đi khắp thế giới với chủ đích là để học hỏi và dịch thuật tầm tri
thức mũi
nhọn của châu Âu. Và trong hai thập niên 1960–1980 Hàn Quốc đã động
viên toàn bộ
sinh viên du học và trí thức để dịch thuật hàng ngàn tác phẩm kinh điển
cho học
sinh và nhân dân trong nước có thể theo kịp với thế giới. Đã đến lúc
chúng ta
phải biết hổ thẹn. (1)
Chúng ta nên
biết hổ thẹn, không làm như Nhật Bản, hay Hàn Quốc, hay nên tự hào, vì
có Cớm
Văn Hóa, có kiểm duyệt?
Một thằng
chăn trâu học lớp 1, hay 1 tên y tá dạo lên làm Thủ Tướng, thì cần gì
đến phiên
dịch?
Trên thế giới
có trường hợp nào như trên?
Tệ như Râu Kẽm, bé không
học, lớn làm Phó Tông Tông Ngụy mà cũng còn có
Thầy là
Vũ Khắc Khoan, Thầy của GCC, nữa là!
Mưa rơi đâu
cần phiên dịch?
Bom hẹn giờ cũng không.
|
|