HÀ CẨM TÂM
TÌNH HƯ
KHÔNG
MÀ THẬT NHƯ MÂY
*
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền.
[Ghi
chép 4]
Thảo Trường
Vào những năm 1958-1961 tôi sống ở Huế. Từ thành phố
tới chỗ tôi ở phải
“qua một chiếc cầu lên một cái dốc”, căn nhà khoảng giữa Chùa Từ Đàm và
Đàn Nam
Giao, nơi đó, đêm đêm tôi viết những truyện ngắn, gửi cho ông Mai Thảo
đăng
trên tạp chí Sáng Tạo. Cũng vì có liên hệ như thế nên mỗi khi vào
Sàigòn, tôi
thường lui tới tòa soạn Sáng Tạo số 29 đường Ký Con, Quận 1, ở đó tôi có dịp gặp các vị trong bộ biên tập
do ông Mai Thảo giới thiệu như: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Doãn
Quốc Sĩ,
Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Quách Thoại, Tô Thùy Yên và… Thanh Tâm
Tuyền.
Trong bản tuyên ngôn “Văn
nghệ là vận động biện chứng của hủy diệt và sáng tạo” của nhóm Sáng Tạo
đưa ra
chủ trương “Phủ nhận văn nghệ tiền chiến”, thì tôi nghĩ là không thể
phủ nhận
được, vì “văn nghệ tiền chiến” có vai trò và sứ mệnh đã hoàn thành của
thời kỳ
đó. Giá trị của “văn nghệ tiền chiến” đã ghi lại trong văn học sử Việt Nam.
Chính thể
cộng sản ở miền Bắc cũng đã từng có chủ trương xóa bỏ những giá trị
“văn nghệ
tiền chiến” nhưng họ đã không làm nổi, thì há gì nhóm Sáng Tạo là những
người
đã từ bỏ cái chính thể lầm lẫn đó di cư vào Miền Nam lại chủ trương
“phủ nhận”?
Nhưng đối với tôi, các vị ấy
đều đã để lại trong tôi những dấu ấn đặc biệt, bằng họa phẩm, thơ,
truyện ngắn,
tùy bút, hay biên khảo…
Thí dụ như: “Quán Cháo Lú”
của Vũ Khắc Khoan, “Hạt Ba Dăng Của Niêm” của Mai Trung Tĩnh, “Niềm Đau
Nhức
Của Khoảng Trống” của Dương Nghiễm Mậu, “Cánh Đồng, Con Ngựa, Chuyến
Tầu” của
Tô Thùy Yên, “Dòng Sông Định Mệnh” của Doãn Quốc Sĩ, “Trắng Chiều” của
Nguyễn
Sĩ Tế, kịch bản “Bão Thời Đại” của Trần Lê Nguyễn… v…v… nhiều lắm.
Những thơ văn của các vị ấy
đã kích thích tôi trong công việc sáng tác. Đọc những tác phẩm của họ
tôi bèn
muốn viết một cái gì đó của tôi.
Riêng với Thanh Tâm Tuyền,
bài thơ Budapest
mà tôi đọc được, đã trụ lại trong tôi suốt từ bấy đến nay. Biến cố bi
thảm ở Budapest
năm 1956 mà
truyền thông khắp thế giới đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất
mạnh mẽ,
thì nhà thơ của chúng ta đã chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc
đàn áp
dã man tàn nhẫn đó. Mấy câu thơ giản dị đã gây xúc động và còn lại mãi
trong
lòng người thưởng ngoạn. Xin đừng hỏi tôi bài thơ ấy hay ở chỗ nào.
Chịu. Xin
chịu. Tôi không có may mắn được đào tạo về những lý sự thế nào là hay
thế nào
là không hay và điều đó cũng đã thành thói quen trong tôi. Cho nên tôi
chỉ cần
thấy được cái nào hay là đủ. Rồi về sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở
nhà tù)
tôi đã gặp nhiều người cũng rất thích bài thơ đó. Có ai đó đọc lên một
câu liền
có người khác phụ họa theo, chứng tỏ bài thơ rất phổ biến.
“Hãy cho tôi khóc bằng mắt
em,
Những cuộc tình duyên Budapest
Hãy cho tôi chết
bằng da em,
Dưới dây xích chiến
xa tội nghiệp…”
Tôi
chợt nhớ tới bài khóc Xít
ta lin. Người nghệ sĩ tự do chân chính khóc cho tình yêu bị thảm tử vì
bạo lực
đàn áp. Kẻ mưu đồ chính trị vật vã khóc tên đồ tể. Một bên “Hãy cho tôi
khóc
bằng mắt em, những cuộc tình duyên Budapest…”.
Một đằng “Hỡi ôi! ông mất có trời đất không, thương cha thương mẹ
thương chồng,
thương mình thương một thương ông thương mười! Ông Xít ta lin ơi!...”
Sau này tôi có dịp gặp Thanh
Tâm Tuyền thường xuyên ở nhật báo Tiền Tuyến. Hồi đó tôi đã chuyển về Saigon, có viết truyện dài “Bà Phi” và thỉnh
thoảng “đi”
một bài tạp ghi cho Ký giả Lô Răng. Thanh Tâm Tuyền cũng từ một đơn vị
bộ binh
chuyển về làm trong ban biên tập. Có một lúc Phan Lạc Phúc phải đi học
tham mưu
gì đó, Thanh Tâm Tuyền phải lãnh thêm cái mục tạp ghi và mỗi ngày ông
phải
“cầy” thêm một bài báo nữa, và tôi cũng lai rai mỗi tuần “đi” đỡ cho
ông một
quả. Ký giả Ba Tê [TTT] thay cho Ký giả Lô Răng. Dưới bài tôi viết, ông
Ba Tê
nói đùa, sao không ghi là “Hai Tê” [TT]. Nhưng tôi vẫn giữ cái bút hiệu
Cơ Hảo
đã dùng quen bên tuần báo Diều Hâu mục “Một Tuần Sấp Ngửa”.
Chữ “sấp ngửa” cũng do Thanh Tâm Tuyền gợi
ý cho
tôi đặt tên mục phiếm luận này.
Chúng tôi gặp lại nhau trong
trại tù rừng núi Âu Lâu, Yên Bái. Tôi từ trong Nam chuyển ra bằng tầu
thủy,
bằng xe lửa và xe vận tải mất gần mười ngày, đến trại ban đêm, sáng ra
có họa
sĩ Nguyễn Thuyên đến dẫn tôi sang lán kế bên gặp Thanh Tâm Tuyền. Chúng
tôi
cười xòa tập hút thuốc lào và tán gẫu chuyện đời. Thanh Tâm Tuyền cho tôi một ít thuốc ký ninh chống sốt rét và
căn dặn tôi phải hết sức phòng bệnh: muỗi rừng và nước độc! Trong khi
ấy họa sĩ
Nguyễn Thuyên lấy giấy và bút chì vẽ luôn cho tôi mấy bức chân dung
ngay khi
tôi ngồi trên sạp nứa chỗ ngủ của Thanh Tâm Tuyền.
Những bức vẽ này tôi đã cất
giấu và sau đó tôi đã chuyền cho chị ruột tôi lên thăm đem về chuyển
cho gia
đình tôi ở Mỹ (đã in trong tập truyện Tiếng Cim Hót Trong Bụi Tre Gai).
Mấy năm sau ở Vĩnh Phú, nhưng
mỗi người mỗi trại giam khác nhau, chỉ thỉnh thoảng có tin tức nhau qua
những
bạn tù. Tôi nhận được mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vịnh củ sắn sống.
Thời
gian này tù binh bị bỏ đói, sức tàn lực kiệt, nhiều anh em đã bị chết,
chôn kín
cả sườn đồi gần trại, cho nên có khi kiếm được củ sắn sống tù binh cũng
dấu đi
ăn cho dạ dày bớt thèm thuồng.
Lạ lắm, củ sắn bóc lớp vỏ
ngoài để lộ ra một thân hình tròn lẳn, trắng tinh, trắng muốt, trắng
như không
có gì trắng thế, mịn như không có gì mịn thế, xinh đẹp như không có gì
xinh đẹp
thế, gợi cảm như không có gì gợi cảm thế, hấp dẫn như không có gì từng
hấp dẫn
đến thế… Nhưng sắn sống có nhiều độc tố, bập vào là say. Trắng trẻo,
xinh đẹp,
nõn nà… dễ làm cho anh hùng gục ngã! Loại sắn vỏ màu hồng nhạt (gọi là
sắn tầu)
thì còn có thể nhưng phải ngâm nước rồi luộc kỹ thải chất độc ra mới có
thể ăn
được, nhưng loại sắn kỹ nghệ vỏ trắng (chắc là sắn…mỹ) thì tuyệt đối
không ăn
được.
Say sắn cũng lắm chuyện kinh
hoàng. Ăn vào chỉ ít phút sau là ói mửa ra “mật xanh mật vàng”, tiêu
chảy,
người sẽ gầy rộc đi, mắt sâu hoắm. Cũng không đến nỗi chết ngay, nhưng
từ đó
mất sức dễ bị các chứng bệnh hiểm nghèo. Tôi đã thấy một ông trung tá
liên đoàn
trưởng biệt động quân, cùng khóa 6 sĩ quan trừ bị với tôi đã bỏ mình vì
say sắn
ở K1 Vĩnh Phú.
Núi rừng Việt Bắc còn có nấm
độc, trái vải guốc, cũng gây ngộ độc chết người. Ăn nhầm mấy thứ này
người ta
thường vặt một nắm lá nhớt như lá khoai lang bỏ miệng nhai nuốt tí nước
cho
buồn nôn tống ra hết những thứ trong dạ dày để giảm thiểu chất độc
trong người.
Củ sắn ghê gớm. Nó bao vây
trùng trùng điệp điệp các trại tù. Nó chất chứa trong các kho nhà bếp
dưới dạng
sắn sống, sắn khô (còn gọi là sắn nút chai), sắn “dui” (không rõ ý
nghĩa cái
tên này). Nó bám trụ trong bao tử, trong cơ thể tù binh. Không ăn nó
thì đói,
nuốt nó vào thực quản nóng ran và dưới hai màng tang mỗi tù binh nổi
lên hai
cục trông như hai cái bứu nhỏ, hai cái bứu này chỉ mất đi sau cả tháng
không ăn
sắn nữa. Hàng triệu tù binh miền nam, kẻ nào lỡ sống sót sau tù đày, ít
ra cũng
phải hội nhập chung vào với cả một thế hệ còi cọc miền bắc, để công
cuộc thống
nhất đất nước mang trọn vẹn ý nghĩa của nó! Trước cái đói ngơ ngác chết
người
đang đe dọa và hình tượng củ sắn chiến lược xã hội chủ nghĩa “vĩ mô”
như thế, nhưng
thi sĩ của chúng ta vẫn bình thản mô tả nó một cách lạnh lùng, có pha
chút lãng
mạn bỡn cợt:
“Thoát xiêm y, trắng nõn
nà,
Lửa lòng bốc cháy ai mà
chẳng
say”…
*
Năm 1993 tôi tới Mỹ, Thanh
Tâm Tuyền từ Minnesota gửi tặng tôi tập thơ “Thơ Ở Đâu Xa”, chúng tôi
có vài
lần nói chuyện với nhau qua điện thoại, và mỗi khi in được một tập
truyện tôi
cũng đều gửi tặng Thanh Tâm Tuyền, nhưng suốt mười mấy năm nay chúng
tôi chưa
được gặp lại nhau lần nào. Nay nghe tin nhà thơ đã ra đi, cũng chẳng
phải bất
ngờ vì đó là điều tất nhiên cho tất cả mọi người, vả lại chúng tôi cũng
đã thất
thập, Thanh Tâm Tuyền còn lớn hơn tôi 1 tuổi, nhưng tin nhà thơ mà mình
quí
trọng đã vĩnh viễn từ giã cõi đời cũng làm cho tôi ngậm ngùi khôn tả.
Thanh Tâm Tuyền là người điềm
đạm, trầm ngâm, ít nói, khi nói thì nói chậm rãi. Tôi và ông chưa hề
bao giờ
“mày tao”, chỉ đôi lần vui chuyện ông dùng chữ “cậu cậu tớ tớ” là đã
thân thiết
lắm rồi. Khi nói chuyện cũng như khi
viết, Thanh Tâm Tuyền dùng chữ rất chuẩn xác. Tôi chưa thấy bao giờ ông
hô hoán
hay dùng những chữ kích động, nhưng cách nói bình thản của ông lại đem
đến
những hình ảnh gợi cảm.
Thơ văn của Thanh Tâm Tuyền
đã xuất bản phổ biến, nhưng hình như câu thơ vịnh củ sắn thì tôi chưa
thấy in
trong tác phẩm nào của ông.
Tôi nghĩ chế độ cộng sản chỉ
giam giữ và bỏ đói được ông đại úy Dzư văn Tâm, họ không, và không bao
giờ, bỏ
tù được thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Thi sĩ đã nhìn củ sắn độc trồng lền
khên khắp
núi đồi xung quanh trại giam bằng cái nhìn của ca dao, bằng cái nhìn
của thi
ca, bằng cái nhìn riêng của thi sĩ, mà không anh cai tù cộng sản nào
nhìn thấy
được. Cộng sản ở Liên Xô, cộng sản ở Budapest,
cộng sản ở Âu lâu - Vĩnh phú, hay cộng sản ở bộ chính trị…
chẳng thể làm gì được thi sĩ .
Họ cũng không được phép xách
dép cho nhà thơ tự do.
Vậy. Hôm nay. Chúng ta họp
mặt ở đây để tỏ lòng quí trọng thi sĩ
của chúng ta
Thảo Trường
*
Bài của Thảo
Trường về TTT có chi tiết sai: "Quán cháo lú" là truyện của Lê Văn
Siêu in trên ST số 1, chứ không phải của Vũ Khắc Khoan.
NL .
Tks.
TT/NQT
*
Ngoài
ông Đặng Tiến, có chị
Thụy Khuê đã viết về "Cấu trúc thơ Thanh Tâm Tuyền", nhưng những ý
tưởng cuả GNV thì khác hai người trên, ông nói về chất "nam tính",
những "dự cảm" tai ương hay "báo bão" cho một sự sụp đổ...
rất hay và rất đúng (theo cách nhìn của … [tôi]. Cũng như có độc giả đã
cho
rằng họ cảm ra được cái dự cảm, báo bão cho một toàn cầu hoá trong "Amers" của St.
John Perse. Đó không chỉ là tài hoa văn chương, mà còn
là cái tầm nhìn, cái mũi của loài... "cô độc" (chẳng biết dùng từ gì,
nên tôi phang đại vậy), như Xuân Diệu "nghếch mũi lên trên trăm triệu
năm
/ thở lại những mùa xuân cũ" chơi, những khi ông ta quá oải (tôi đoán
mò
vậy)…
[...]
Sau
này, khi có ai học thơ TTT, muốn trích dẫn ông, họ không có nguồn để
dẫn. Sách là
nguồn dẫn, không ai lại nói "theo ông GNV ở trang web Tin Văn (nay đã
không còn), Thanh Tâm Tuyền là một cánh chim báo bão", ví dụ.
*
Tks. NQT
5 năm
TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)
Lúc
này, tôi nhắc đến Thạch,
Ðồng, An, Liên, và Nga là những nhân vật trong cuốn Ung Thư. Và, trong
Ung Thư
có một chi tiết thật cảm động, tôi rất thích đó là bối cảnh Hà Nội
trong cơn
hấp hối, thành phố sắp tan rã, suốt đêm Thạch đi tìm Liên khắp Hà Nội,
nhưng
không có nàng, sau đó anh trở về lại con hẻm cũ nơi có nhà nàng ở, đứng
đầu hẻm
với nỗi nhớ người yêu Thạch bụm tay lên miệng cất tiếng hú gọi tên
Liên...
Liên... Liên, tiếng hú vang dội đã làm bầy chó rống lên, sủa ran cả một
khu
phố. Tôi gợi lại chi tiết nhớ được đó, anh Tâm mỉm cười nhìn qua tôi,
tôi đọc
được ở trong cặp mắt anh một niềm vui rất thơ trẻ.
NCK: Tưởng nhớ TTT
*
Trong Những Ngày Ở Sài Gòn, tập
truyện xb trưóc 1975, có một xen, anh học trò, là Gấu Nhà Văn sau này,
trước
khi bỏ vào Nam, mò về làng, đứng bên này
sông, cất tiếng hú, làm sóng sông Hồng nổi lên cuồn cuộn, rồi sau đó
lừng lững, khốc liệt
về lại Hà Nội, lên tầu hỏa, xuống Hải Phòng, lên tầu há mồm…
Trong
Cõi Khác, cũng có xen,
Gấu Nhà Văn đang cas trực đêm, hạ san, lấy xe Honda, phóng vô Chợ Lớn,
đến con
hẻm nhà cô bạn…
Nhiều
lần tới nhà khi đã quá
khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết
sức muốn
gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách
mở cửa.
Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô
hốt hoảng
trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải
nói, phải
gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có ý định gặp.
Không hề trông mong cô sẽ giúp đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái
hiên
hàng giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám lá khô, tiếng mèo kêu thảm
thiết trên
mái ngói, chờ cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần rồi thất thểu rời con ngõ.
*
Không hiểu, có ‘mô phỏng’ TTT
hay không?
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, cả
hai xen, trong truyện của Gấu Nhà Văn, đều là những sự kiện thực. Xen
về quê, cất
tiếng hú Sư Tử Hống, là thuổng sự kiện thực, của Phạm Năng Cẩn, một
trong Thất
Hiền. Anh về quê tính gặp mẹ, trước khi bỏ vô Nam,
nhưng không đủ can đảm gặp, và
nếu gặp, thì hết dám bỏ đi.
Còn xen thứ nhì, xẩy ra dài dài,
những ngày quen cô bạn.
*
Nói một cách khác, không có
vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ
"chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự khẳng định,
để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền
đất. Nói
rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá
trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh Tâm Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải
(Nguyễn Đình
Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng
Quên, truyện
ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả
Miền Nam,
thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ
tên, viết
về ông già gác dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng
bị gã con
trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã
thét cô bồ:
lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình
hối hả...
làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa
Ngục
(Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con
ong hút
nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra
văn. Ở
Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn
bà,
không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái
Sống đều
thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng
ở trước,
hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những
con người
đứng bên lề...
DNM
*
Subject: Re:
Chuc
Mung Nam
Moi
Date: Sun, 21 Jan 2001 16:24:20
From:
To:
Chuc vo chong Tru mot nam moi nhu y.
Tam
T.B. Dung pho bien dia chi nay cho ai khac. Cung chuyen loi dan nay den
NTV
ho toi. Cam
on.
>From:
>To:
>Subject: Chuc Mung Nam
Moi
>Date: Sun, 21 Jan 2001 10:50:26 -0500
>
Anh Tam: Nhan dip nam moi, tui em kinh chuc anh chi va gia dinh moi dieu
>nhu y, cho em gui loi chuc toi cu va Chat; bai dich Gao cua NTV em
dang
>danh may lai, se chuyen anh sau,
>Kinh,
>Nguyen Quoc Tru
Note: Mail của
ông anh nhà thơ
Hồ
sơ
Thanh
Tâm Tuyền
*
Lúc này, tôi
nhắc đến Thạch, Ðồng, An, Liên, và Nga là những nhân vật trong cuốn Ung
Thư.
Và, trong Ung Thư có một chi tiết thật cảm động, tôi rất thích đó là
bối cảnh
Hà Nội trong cơn hấp hối, thành phố sắp tan rã, suốt đêm Thạch đi tìm
Liên khắp
Hà Nội, nhưng không có nàng, sau đó anh trở về lại con hẻm cũ nơi có
nhà nàng
ở, đứng đầu hẻm với nỗi nhớ người yêu Thạch bụm tay lên miệng cất tiếng
hú gọi
tên Liên... Liên... Liên, tiếng hú vang dội đã làm bầy chó rống lên,
sủa ran cả
một khu phố. Tôi gợi lại chi tiết nhớ được đó, anh Tâm mỉm cười nhìn
qua tôi,
tôi đọc được ở trong cặp mắt anh một niềm vui rất thơ trẻ.
NCK: Tưởng nhớ TTT
*
Bếp lửa reo đời quá vãng
Mãi nhớ em dẫu ngày chưa kịp tới
Nguyễn Lương Vỵ
Tại
sao lại bỏ Hà Nội?’
“Tôi chán đây rồi. Sang bên
ấy ở ẩn cho qua ngày.”
“Có chắc ẩn được hay không?”
“Không biết. Nhưng chắc được,
ở ngay trong trường với các linh mục. Bên này nó nghi ngờ những liên
lạc và
hành vi của mình quá rồi.”
"Những liên lạc hành vi
nào?” Đại hỏi ngạc nhiên.
“Một vài chỗ quen biết hoạt
động nội thành, một vài chỗ các đảng phái khác, thư từ, sách đọc, công
việc làm
cũng đủ nó khó chịu, còn gì hơn?”
Tôi ngồi trên bực gạch. Đại
trông thẳng mặt tôi nghiêm trang. Hắn móc túi lấy đưa cho xem một lá
thư.
“Thư của người bạn ở chiến
khu Trình Minh Thế.”
Tôi nhìn qua rồi trao trả
Đại. Hắn vừa cất lá thư vừa nói:
“Tôi nghĩ rằng cho đến bây
giờ không thể đi khác hơn được. Nó còn đúng. Mình còn phải nhắm mắt
nhận lấy
thân phận của giai cấp mình.”
Nó - Đại muốn nói về chủ
nghĩa cộng sản. Tôi cầm lên cuốn sách của Đại để sang bên và trông vào
tấm hình.
Tôi nói:
“Tôi cũng nghĩ như thế nhưng
tôi lại muốn nghĩ thêm chút nữa. Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp
mình,
tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai
cấp vô
sản”
“Làm thế nào được khi đế quốc
còn đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng thứ ba.”
“Tôi cũng không tin.”
Câu chuyện ngưng ở đấy như
thường lệ.
Bếp
Lửa
Chúng
ta tự hỏi, cụm từ 'lực lượng
thứ ba', chiến khu TMT, ở đâu ra?
Với Greene, tác giả Người Mỹ Trầm Lặng, là trên chiếc thuyền của Hùm
Xám Bến
Tre, trên đường về Sài Gòn.
Với TTT, tác giả Bếp Lửa?
Mẩu đối
thoại trên, ở Hà Nội.
Như thế chiến khu Trình Minh Thế, như được nhắc tới trong Bếp Lửa có lẽ chỉ là một cái tên phịa ra cho một vùng
hậu phương, vùng kháng chiến, do Vẹm kiểm soát, so
với vùng Tề?
Nhưng
Trình Minh Thế, còn là một
cái tên đại diện cho cái gọi là 'lực lượng thứ ba', trong Người Mỹ Trầm
Lặng.
TMT là
người, là đầu mối, để
Pyle liên lạc. Theo Greene, TMT là người trách nhiệm vụ nổ bom
trên đường
Catinat. Mìn, thuốc nổ, Pyle cung cấp.
*
Ảnh hưởng của TMT là trung
tâm điểm của cái cú tạo nên tác phẩm Người Mỹ Trầm Lặng. Ông là chất
xúc tác
làm bật ra những "nhiệm vụ đặc biệt" của Pyle. Greene xác nhận, cả
trong giả tưởng lẫn không-giả tưởng, Xịa đã ngoéo tay với Thế, cung cấp
cho Thế
vật liệu thực hiện những hành động đen
tối, ma quỉ. Điều này khiến Liebling của tờ Người Nữu Ước bực mình, "Có sự
khác biệt giữa... gọi nhân vật không ưa, tuy rất nổi cộm của mình, là
một tên
khốn kiếp, với cái sự kết án anh ta là một kẻ sát nhân."
Greene, trong bức thư mở ra
tác phẩm, nhắc tới sự kiện TMT bị bắn sau lưng, điều này cho thấy, có
thể ông
đã thay đổi cái nhìn đối với TMT.
Câu nói
của Đại, và Tâm lập
lại, "Tôi không tin lực lượng thứ ba", "Tôi cũng không
tin", trong Người Mỹ Trầm Lặng cũng có, và cũng trong một cuộc đối
thoại,
giữa Pyle và Fowler. Anh già Hồng Mao nghi ngờ Pyle lậm nặng với Thế,
cảnh
cáo:
- Chúng tôi đám thực dân
thuộc địa già, Pyle, chúng tôi cũng học được một tị, về thực tại, chúng
tôi học
được điều này, chớ đùa với diêm quẹt. Cái gọi là Lực Lượng Thứ Ba đó,
nó bò ra
từ một cuốn sách, không phải từ thực tại, Tướng Thế này chỉ là một tên
tướng
cướp với một vài ngàn đệ tử: ông ta không phải là một nhà dân chủ quốc
gia....
-Tôi không hiểu anh định nói
gì, Thomas...
-Ba cái xe đạp cài bom. Chúng
là một trò tiếu lâm, ngay cả đã làm cụt giò một con người. Nhưng, Pyle,
đừng
tin những người như Thế. Họ làm gì được, trong cái việc kéo Đông Phương
ra khỏi
Chủ Nghĩa Cộng Sản. Chúng tôi rành mấy thứ đó quá mà.
-Chúng tôi?
-Đám thực dân thuộc địa cũ
-Tôi lại nghĩ, anh không chọn
bên.
-... Hãy mang Phượng về Mẽo.
Quên Lực Lượng Thứ Ba đi.
*
Chính trong cái bầu khí xám
xịt đó, là Sài Gòn thập niên 1950, mà cuộc tình tay ba, trong Người Mỹ
Trầm
Lặng, với ba đỉnh của nó, được mở ra: tính dễ bị mua chuộc, mà cũng rất
ư là
thành thực, không mầu mè, của một cô Phượng [với giấc mơ lấy chồng Mẽo,
làm dâu
Mẽo, hay tệ hại hơn, làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… như những cô Phượng
hiện nay ở
Việt Nam…], tính dãn ra, chẳng còn muốn vướng vào những vấn đề của một
xứ xở
thuộc địa như Việt Nam, của anh mũi lõ già nghiền thuốc phiện, là
Fowler, và sự
ngây thơ của một anh Mẽo trẻ tuổi đẹp trai, thiện nguyện viên, hay cố
vấn Pyle!
Đúng là một tam giác lý tưởng để dựng nên một cuốn tiểu thuyết lý
tưởng! Nó làm
cho Zadie Smith [trên tờ Guardian] nhớ tới trò chơi “jack straw”, trong
đó mỗi
người chơi, tới lượt mình, rút một cọng rơm mà không được đụng những
cọng rơm
còn lại. Tài nghệ của tiểu thuyết gia ở đây, là làm sao cân bằng cả ba,
bắt
từng nhân vật đối diện với chính mình, và với hai kẻ kia, trong tấn trò
đời,
với tất cả những lên voi xuống chó, những hy vọng, những thất bại - và
nhất là,
phải làm sao cho độc giả đừng trông mong có được một nhận định, đánh
giá sau
cùng, khi gấp sách lại, [và thở phào, rằng, việc đọc của ta như vậy là
xong!].
Greene không thích những độc giả của ông có được sự hài lòng, thoải
mái, theo
nghĩa này: “Khi chúng ta không chắc chắn, như vậy là chúng ta vưỡn còn
sống!”
Trường
hợp Người Mỹ Trầm
Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng từ từng mỗi
viên gạch
của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức được so đo
đong đếm
đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác
phẩm Những
Người Âu Châu, nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy
ra ở
trong một
căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào một trận
địa. Độc
giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy, bẩn
thỉu, tởm
lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều cuộc
chiến
khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù
những
“nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa.
Những
nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định
được,
của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà
lần, một
khi con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt.
Nhưng, cho
dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và tay phóng
viên Fowler
đã tìm được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là
đối với
Fowler. Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì
vớ được
sợi thừng cứu mạng!
“Tôi là
một kẻ có niềm tin
lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một
cuộc
phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào
đó, con
người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào
Thiên
Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”
*
Ở Lò
Luyện Ngục đó - ở cuộc
chiến Việt Nam
đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp
trai, trẻ
măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một
tự sự
lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt
Nam phải
“thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không
còn Cộng
Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh ta về Fowler, và
ngược
lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới
ngu si
đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc
địa cũ
của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này
lại có
những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện
nào tin
được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp
với vai
trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy
sâu con
người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những
toan tính
cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và cùng với nó, là
một xứ
sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn bà thực, đang
hít thở
không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà mà Pyle đang
chôm từ
Fowler.
Gừng
càng già càng cay, càng
ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn
Mẽo
Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng
như
Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu mong
Chúa làm cho
anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những
nguyên
nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh. Chúng luôn
luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi
anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về
thế
thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo
của anh
đấy, Pyle ạ.”
Nhưng
theo Zadie Smith
[Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin
quan trọng
hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta,
trên
bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo
[fundamentalism].
Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của Zadie
Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên
toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi
tới với
bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ
Pyle này làm
chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene
ở trong
Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa
cả”, khi
chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và
những
người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái
đất
này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém
giết lẫn
nhau, vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như
vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa
lưng vô
tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính
hỏi bạn
như vậy”.
Nhưng
tác phẩm của Greene là
đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng
mà một
người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo
nghĩa đó, Greene
là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và
những chi
tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến đấu nhằm chống lại
những
thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô
ngã, vô
vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.
Ruth Franklin
trên tờ Người
Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với
Zadie
Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc
Greene.
Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có
thể, đó cũng là của
Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta
có thiên
hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con
người. Cầu
xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao
được vậy.
Nó quả
đã không bị phí phạm.
*
Theo
Gấu, Greene viết Người Mỹ
Trầm Lặng, là khi tóm được password ‘lực lượng thứ ba’, qua miệng tên
Xịa. Nhưng
khi gặp Phượng, và lấy tên nàng làm tên nhân vật chính, Greene, ở đây,
cầu mong
một điều tốt lành, khi cuộc chiến chấm dứt, y chang giấc mơ của Bác Hồ,
về một
căn nhà Mít to lớn hơn, đàng hoàng hơn. (1)
Phượng, là phượng hoàng, loài
chím tái sinh từ tro than.
Đó là giấc đại mộng của Mít.
Không được như vậy, là do đâu?
(1)
Phượng, tên một nhân vật
trong phim gián điệp "Người Mỹ trầm lặng", bị một số báo chí Việt ngữ
viết sai là Phương, trong khi chính tác giả đã giải thích ở trong
truyện, đây
là tên một loài chim quí, phượng hoàng.
"Phuong," I said – which means Phoenix, but
nothing
nowadays is fabulous and nothing rises from its ashes. "Phượng", tôi
nói, "Phượng có nghĩa là Phượng hoàng, nhưng những ngày này chẳng có
chi
là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro than của loài chim đó"
Câu văn
như một "lời nguyền" cho một cuộc chiến sắp sửa tái diễn?
Và là lời cầu chúc
của Greene, khi cuộc chiến chấm dứt?
Nhưng
nói cho cùng, chẳng có chi là huyền
hoặc, về chuyện người Mỹ sẽ hất cẳng người Pháp, và cuộc chiến sẽ biến
tất cả
thành tro than, và chẳng có gì mọc lên từ đó.
Lời đề tặng ở trang đầu, là
dành cho một nhân
vật Phượng "có thể" có thật ở ngoài đời:
"René và Phượng thân mến, Tôi
xin phép
được tặng cuốn sách này cho các bạn, không chỉ để tưởng nhớ những buổi
chiều
hạnh phúc mà chúng ta đã cùng trải qua tại Sài Gòn, trong hơn năm năm
qua,
nhưng còn bởi vì tôi cảm thật hổ thẹn đã mượn căn hộ của các bạn, làm
chỗ trú
ngụ cho một nhân vật của tôi, và tên của bạn, Phượng, để độc giả dễ
dàng theo
dõi, bởi vì đây là một cái tên giản dị, đẹp, và dễ phát âm, so với
những tên
đàn bà khác, của đồng bào bạn. Cả hai bạn sẽ nhận ra một điều, tôi còn
vay mượn
thêm chút đỉnh, nhưng chắc chắn không phải từ phía Việt Nam.
Pyle,
Granger, Fowler, Vigot, Joe – những người này chẳng có chút dây mơ rễ
má với
cuộc đời của Sài Gòn hay Hà Nội, và Tướng Thế thì đã chết: bị bắn từ
phía sau
lưng, như người ta nói. Ngay cả những biến động thực sự xẩy ra, cũng đã
được
dàn dựng lại, ít ra là trong một trường hợp. Thí dụ như vụ nổ lớn gần
khách sạn
Continental, đã xẩy ra trước những vụ nổ do bom cài trên những chiếc xe
đạp.
Tôi chẳng cần phải đắn đo, về những thay đổi nho nhỏ như vậy. Đây là
một câu
chuyện tiểu thuyết, chứ không phải là một mẩu lịch sử, và tôi hy vọng
câu
chuyện về vài nhân vật giả tưởng sẽ mua vui cho đôi bạn được một vài
trống
canh, trong một đêm nóng nực của Sài Gòn."
*
Có một chi tiết,
rất ư lạ lùng, về PXA, liên quan tới ông anh nhà thơ của Gấu.
Có thể Ẩn là người đế xướng một cú đối thoại giữa nhà văn hai miền trên
tờ Time,
sau khi Diệm bị làm thịt ít lâu, bằng cách phỏng vấn hai nhà văn, để kế
bên
nhau, trong cùng một số báo.
Chính PXA nói với Gấu về chuyện này. Ông còn cho Gấu biết, ngoài Bắc,
người được Time chọn để tiếp xúc, là Nguyễn Tuân.
Miền Nam,
là Thanh Tâm Tuyền.
Gấu có hỏi ông anh, ông xác nhận có.
Nhưng sau đó, Time không thực hiện cú này.
Như vậy, PXA phải là người đề xuất cái vụ chọn TTT, Time mà
biết cái
đếch gì, đúng không?
Tại sao lại huỷ?
Lý do: TTT là một tên “Chống Cộng điên cuồng", qua tờ Sáng Tạo, cuốn
Bếp
Lửa. Một tên Bắc Kỳ di cư. Một tên sĩ quan VNCH “có nợ máu với nhân
dân”?...
Liệu, Bắc Bộ Phủ đếch chịu TTT, và ra lệnh cho PXA: NO!
5 năm
TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)
[Trích
mail độc giả]
Gửi GNV
hai cách suy luận
khác nhau về thơ trong tù của TTT...
Câu lạc
bộ Tân hình thức, Khế
Iêm viết:
“Anh tìm về với thơ nhưng chỉ có thể làm thơ
vần điệu, vì trong tù không có giấy bút, phải nương vào vần điệu mới có
thể nhớ
và giữ lại trong tâm trí. Như vậy chẳng khác nào anh bị buộc phải đi
lại một
hành trình ngược, đã phá vỡ vần điệu, thì bây giờ phải trở về vần điệu.”
Website
Phong Điệp, Bùi Công
Thuấn viết:
“Nhưng
TTT không đi tiếp con
đường cách tân ấy, ông lại trở về với thơ ca truyền thống.
Từ dòng ý thức, ông trở về với thơ
tâm trạng của thơ Lãng Mạn ( 1930 -1945
), từ Siêu Thực ông trở về Hiện Thực, từ ẩn dụ
bí hiểm ông trở về với chất liệu đời thường. TTT từ bỏ lối thơ lạ
và bí hiểm trở về với lối thơ chân chất tự nhiên. Điều này có ý nghiã
gì ? TTT
nhận ra con đường cách tân là
con đường đi vào ngõ cụt. Đó chỉ là những
khoe khoang phù phiếm trắc nết, những không tưởng,
“ không tưởng của những cuộc phiêu lưu chết
sững”.
Nếu đặt
TTT trên dòng lịch sử
Văn học Việt Nam hiện đại , bên cạnh những
nhà thơ cùng thời như Nguyễn Đình Thi, Chế
Lan Viên, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Trần Dần …, TTT có thể có một vị trí
nào đó. TTT có công
cách
tân thơ, đem tư duy thơ miền Nam
từ Tượng Trưng đến Hiện Sinh kết hợp với
Siêu Thực và kỹ thuật Tân Hình Thức, tạo thành một thi pháp riêng.
Nhưng
những cách tân của TTT chỉ dừng ở mặt kỹ
thuật viết, chưa đạt tới tầm tư tưởng nghệ thuật, vì thế không tạo ra
được
một trào lưu như thời kỳ Thơ Mới ( 1930-1945 ). Tôi trộm nghĩ rằng,
ngay cả ở
chính sự cách tân ấy, TTT chỉ đi tiếp con đường của Xuân Thu Nhã Tập
trước đó, tất nhiên là có những đóng góp mới hơn, và tồn tại như một
hiện tượng thử
nghiệm, để rồi chính TTT từ bỏ con đường ấy, không có người tiếp bước.”
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=2922
đây là
GNV:
"Những
người yêu thơ
Thanh Tâm Tuyền, yêu chất "bạo động của bạo động", nam tính... của
thơ ông, khởi từ những dòng thơ cách mạng trong Tôi không còn cô độc,
tới Liên,
Đêm... có thể sẽ không thích những dòng thơ "hiền từ" của Thơ ở đâu
xa. Tôi vẫn nghĩ ông bắt đầu bằng thơ tự do, ngược hẳn lời khuyên của
Borges,
chính vì chất hung bạo "đặc biệt" của thơ ông: Thơ không thể èo uột,
yếu đuối, bệnh hoạn, không phải là nơi trốn chạy, ẩn náu... Nó là mắt
bão:
trung tâm của mọi bạo động. Ông chỉ trở lại với thơ vần, sau trại tù.
Với tôi, Thơ ở đâu xa mới
là cực điểm của bạo động trong thơ: thiền. Trích tiên bị đầy
(vào trại tù), trở về trần."
*
Tks. NQT
*
[Trích Tôi không còn cô độc]
không
đa đa siêu thực
thẳng thắn
khởi từ ca dao sang tự do
ai hỏi
anh ngoài hàng giậu
lãng mạn lập thể siêu thực dã thú đa đa
tôi mở những trái cây vườn nhà
cử chỉ trữ tình tinh khiết
những bước đi văn nghệ chim sẻ
mùa ngói nâu dựng vực mắt nâu
Mưa bên
kia sông mưa nửa dòng
nước
ta thương cô mình như bước
nhớ chân
hoa dù tàn muôn vạn nghìn lần
lòng ta vẫn chỉ một lần
thương yêu
*
Après ma libération, sur le
chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier
et
écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je
ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis
toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au
camp : « II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe,
comme si
rien n'était modifié. »
Et maintenant je me dis : «
Quand serai-je capable d'une telle chose ? » Pour re-écrire.
Khi
ra
khỏi trại tù, trên
đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ
lưu giữ
trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi
chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ,
khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy
ra,
chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi:
"Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?
Propos recueillis et traduits
par Le Huu Khoa
*
Những dòng thơ trong Tôi không còn cô độc, như trích
dẫn ở trên, cho thấy, TTT muốn đi từ
ca dao qua thơ tự do.
Thành ra những nhận xét của Bùi Công Thuấn [Từ
dòng ý thức, ông trở về với thơ tâm trạng của thơ Lãng
Mạn ( 1930 -1945 ), từ Siêu Thực ông trở về Hiện Thực, từ ẩn dụ bí hiểm
ông trở
về với chất liệu đời thường. TTT từ bỏ lối thơ lạ và bí hiểm trở về với
lối thơ
chân chất tự nhiên. Điều này có ý nghiã gì ? TTT nhận ra con đường cách
tân là
con đường đi vào ngõ cụt. Đó chỉ là những khoe khoang phù phiếm trắc
nết, những
không tưởng…], không đúng.
Và cái sự muốn ‘viết như chẳng có gì xẩy ra’, sợ vẫn
nằm trong đường hướng suy tưởng đó:
Trước 1975, [khởi từ Ca Dao qua] Tự Do.
Trong và Sau
Trại Tù: Trở về với Ca Dao?
[Note: Đây chỉ là một gợi ý, nhân đọc mail độc giả TV]
V/v
Trần Dần, nhân đang ì xèo
về ông.
Trần Dần làm Gấu nhớ đến một
nhận xét về văn học Nga của Steiner, trong bài viết thật tuyệt Under
Eastern
Eyes, Dưới Mắt Đông Phương. Áp dụng
vào xứ Mít, nó có thể giải thích được
hai "trường hợp thơ", của hai nhà thơ, một, thơ tự do của TTT, và một,
thơ
‘cách tân’
của Trần Dần.
*
“Một
cái êm rất
xóc” là một trường hợp rất điển hình của phép nghịch dụ
(oxymoron),
nghĩa là đặt hai điều trái nghĩa cạnh nhau.
NL
There is a
contradiction about the genius of Russian literature
Có một mâu
thuẫn về thiên tài văn học Nga
Steiner: Under
Eastern Eyes
*
Dưới con mắt Đông Phương
Steiner viết, dịch đại khái,
như sau:
Có một nghịch lý về thiên tài
văn học Nga.
Từ Pushkin tới Pasternak, những
đấng sư phụ của thi ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới - như một
trọn khối, as
a whole. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt, thơ ca, tiểu
thuyết, truyện ngắn của họ cũng thật bảnh, thật cần thiết, không có
không được.
Chúng ta không thể sống như những nhân sinh hệ
lụy, nếu
thiếu chúng. Văn học Nga chia sẻ cái tính phổ cập trên với Cổ Hy Lạp.
Tuy nhiên, với độc giả không
phải người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, hay Mandelstam, họ
luôn luôn
cảm thấy mình là một kẻ xa lạ… có một cái gì ở trong đó, rất ư là
quốc hồn
quốc tuý, đặc Nga, không thể nào xuất cảng ra bên ngoài được.
Trong
thơ TTT, trong thơ Trần
Dần, theo Gấu, có cái đặc biệt Bắc Kít đó! Phải đọc họ dưới con mắt Bắc
Kít, thì
mới hiểu được!
Đây cũng là một khiá cạnh, biết
đâu đấy, của Cái Ác Bắc Kít, chăng?
[Đúng
là tẩu hỏa nhập đến nơi
rồi!]
*
Mấy tính từ ‘êm’, ‘xóc’, không
biết của NL, hay của TD, nhưng với dân ghiền thuốc lào, nhất là những
ai đã từng
đi tù cải tạo VC, chúng liên quan mắc mớ hai thứ thuốc lào, một sợi
đen, một, vàng,
rất thịnh hành thời kỳ đó.
Cùng với êm, xóc, còn, nào là “ém”, “phê”: êm, hỗn, bạo,
xóc…
Rất nhiều tên tù cải tạo, chết
vì ém thuốc lào, và thường là do thứ thuốc lào sợi vàng!
5 năm
TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)
Khi ra
khỏi trại tù, trên đường
về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu
giữ trong
trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng
mong
muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm
sao
viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại
viết?
*
"Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
TTT
Poetry makes nothing
happen
Auden
Cái
sự trở về với thơ vần của TTT, khi ở tù, sự thực, là trở về với ca
dao. (1)
Nói
rõ hơn, đây mới là ‘đỉnh cao’, hay đỉnh cuối, điểm tận cùng của thơ
ông, theo
nghĩa câu của Auden, trên:
Thơ làm chẳng
chuyện gì xẩy ra.
(1) Muốn làm người học trò mười bẩy
tuổi
Đạp xe trên đường
đồng
(Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy) ...
Và làm thơ trong trại cải
tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân. Chế độ lao động
trong trại, đó là
một ngày căng thẳng tám tiếng, không có cuối tuần; mỗi tù nhân có riêng
một vũ
trụ của anh ta: một cái chiếu, chừng năm, sáu chục tù nhân trên dưới
hai lớp,
trong tấm "toan" trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian
viết. Với nhịp tù hối hả như thế, cái lạnh, cái đói... ai dám nghĩ đến
sáng
tạo? Ngay cả thiên tài, ngay một sức mạnh siêu nhiên cũng chẳng thể
vượt qua,
những "trói buộc" này.
Tuy nhiên, người Việt nói "làm thơ",
không ai nói "viết thơ". Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở
đâu, trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức... Thơ gặp anh
không
cần hò hẹn, không định rõ ngày giờ. Người ta không thể kiếm nó, vì biết
đâu mà
kiếm. Bạn chỉ có một việc: tiếp nhận nó, bàn bạc cùng nó. Nó chỉ yêu
cầu bạn:
hãy giữ tiếng nói chơn chất của bạn. Tiếng nói này, sau đó, sẽ quyết
định cuộc
đời của riêng nó.
Brodsky
phán, mới hách:
Nếu nhà thơ có trách nhiệm nào đó với xã hội, thì đó là: làm thơ cho
thật bảnh
[it is to write well]. Là một thiểu số, anh ta đâu có chọn lựa nào
khác.
Không làm thơ bảnh được, thì chết mẹ đi cho rồi! (2)
Failing this duty, he sinks into oblivion.
*
Brodsky vinh danh Frost… his “being
versed in country things”... , đúng mong ước của TTT, “Muốn
làm người học trò mười bẩy tuổi / Đạp xe trên đường đồng”
(2)
Thú thực, đã lâu lắm, Gấu chẳng
đọc được một bài văn bài thơ nào cho ra hồn!
Có vẻ như nhà thơ TTT là nhà
thơ cuối cùng của Mít, như VP là nhà văn [cuối cùng] của thế kỷ 20!
Sang thế kỷ 21, mất mẹ cả thơ
lẫn văn xứ Mít!
May quá, còn phê bình gia, tên
hoạn quan!
*
Về Khổ
Đau và Trí Tuệ, là tít
bài viết của Brodsky về nhà thơ đồng quê của Mẽo, Robert Frost, và được
dùng làm
tít cho tập tiểu luận của ông. Những dòng vinh danh Frost của Brodsky
làm Gấu liên tưởng tới nhà thơ TTT.
Ông viết:
Vào năm 1959, trong một bữa
tiệc tại Nữu Ước, chào mừng sinh nhật thứ 85 của nhà thơ, nhà phê bình
hách
xì xằng nhất vào lúc đó, Lionel Trilling, đã đứng dậy, với ly rượu
trong tay,
tuyên bố một câu xanh rờn: Robert Frost là “nhà thơ khủng khiếp” ( “a
terrifying poet”). Mọi người giựt mình, nhưng đúng là một từ thật đắc
địa, but
the epithet was well chosen, theo Brodsky.
Ui
chao, Gấu lại nhớ đến từ ‘khủng
khiếp’, “của Gấu”, khi đọc cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng, thời
gian giữ
mục điểm sách cho trang VHNT của tờ Tiền Tuyến, khi TTT phụ trách [sau
giao lại
cho HPA và Gấu]. Ông tỏ ra rất thú từ này, và còn nói, tôi chắc cũng
phải bắt
chước cách xử sự của cậu mới được!
Trong
cái "nghiệp"
phê bình của tôi, tôi đã đụng độ với quá nhiều người. Riêng trường hợp
ông bạn,
tôi quên, nhưng rất nhiều lần tôi nhớ. Có khi vừa nhớ, vừa cầu mong, hy
vọng
rằng bài phê bình của mình có thể có ích nào đó. Ngay cả trường hợp ông
bạn,
tôi cứ tự hào một cách thật tếu là, biết đâu, nhờ lời nói "khích" của
tôi, ông đã để lại cho đời hai đại tác phẩm.
Mà có thể thế thật! Thí dụ
như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà xuất bản cuốn Vào Nơi Gió
Cát. Tôi
đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn Học Nghệ Thuật của nhật báo
Tiền
Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau ông giao lại cho
Huỳnh Phan
Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn "láu cá' Bắc-kỳ,
cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản, làm một
tuyển tập
truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao nhất, so với
các nhà
xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút còn một
bữa ăn
linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất bản. Rồi
tới Vào
Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng
chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm tắt nội dung phần đầu, tôi
kết
luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng khiếp! (Chấm xuống
dòng đàng
hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo
dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết, người phụ trách
trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng khiếp". Ông cho đăng, dưới
cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận
dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà trả lời sau đó bằng tác phẩm
Cuộc
Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm tuyệt vời nhất, nói "không"
về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà, một người vợ tất tả
chạy
ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng. Một ấn bản khác về chàng
Orphée.
Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo,
trao cho
vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề: Nếu Dostoevsky muốn kéo
Thượng Đế
xuống cho ngang bằng con người, ở đây Nguyễn Thị Hoàng muốn kéo địa
ngục lên
ngang tầm trái đất...(23)
Một chuyến đi
Và làm thơ trong trại cải
tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân. Chế độ lao động
trong trại, đó là
một ngày căng thẳng tám tiếng, không có cuối tuần; mỗi tù nhân có riêng
một vũ
trụ của anh ta: một cái chiếu, chừng năm, sáu chục tù nhân trên dưới
hai lớp,
trong tấm "toan" trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian
viết. Với nhịp tù hối hả như thế, cái lạnh, cái đói... ai dám nghĩ đến
sáng
tạo? Ngay cả thiên tài, ngay một sức mạnh siêu nhiên cũng chẳng thể
vượt qua,
những "trói buộc" này.
Tuy nhiên, người Việt nói "làm thơ",
không ai nói "viết thơ". Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở
đâu, trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức... Thơ gặp anh
không
cần hò hẹn, không định rõ ngày giờ. Người ta không thể kiếm nó, vì biết
đâu mà
kiếm. Bạn chỉ có một việc: tiếp nhận nó, bàn bạc cùng nó. Nó chỉ yêu
cầu bạn:
hãy giữ tiếng nói chơn chất của bạn. Tiếng nói này, sau đó, sẽ quyết
định cuộc
đời của riêng nó.
*
It is almost
impossible to
imagine that under the unbearable conditions imposed by the Nazis,
intellectual
life could still continue. The historian Yitzhak Schipper, who was
writing a
book on the Khazars while he was all inmate of the Warsaw ghetto, was asked how he did
his work
without being able to sit and research in the appropriate libraries.
"To
write history," he answered, "you need a head, not an ass."
Alberto Manguel: The library
as survival [in The Library
at Night]
Thật khó mà tưởng tượng được,
dưới điều kiện Nazi đời sống tinh thần vẫn tiếp tục. Sử gia Yitzhak
Schipper viết
một cuốn sách về Khazars trong khi là tù nhân ghetto Warsaw; khi được
hỏi làm
sao có thể viết, khi không thể ngồi, và không có tài liệu nghiên cứu
như ở
trong thư viện, ông trả lời, để viết lịch sử, bạn cần cái đầu, không
phải cái đít.
Trốn
đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
*
Thất
Hiền
Thất Hiền, tức bẩy người hiền,
tức bẩy đứa
chúng tôi, đều quen nhau qua Chất, em trai nhà thơ TTT.
Năm đó, do trường tư không có lớp đệ nhất, đám chúng tôi, sau khi đậu
tú tài I,
đều được trường Chu Văn An thâu nhận, do đó Chất và tôi quen nhau.
Sủng, Luận
tuy cùng bọn, nhưng đậu Tú Tài I năm trước. Cẩn bỏ học ngang đang tìm
việc làm.
Giả sử như Chất đậu năm trước đó, cùng với hai tên Sủng và Luận, tôi đã
không
có cơ hội làm quen với anh, và như thế mọi chuyện trong cuộc đời của
tôi chắc
chắn sẽ đổi khác.
Phải đến mãi sau này, khi về già, nhớ lại,
tôi mới nhận ra, một số chuyện xẩy đến với tôi, tưởng như chẳng liên
quan với
nhau, vậy mà, “ma đưa lối quỉ dẫn đường”, chúng đều như xúi giục, năn
nỉ , hăm
dọa, “này Gấu, mày là phải viết văn chứ không thể trở thành một ông
thầy dậy
toán, hay lý hoá như mấy tên Sủng tên Luận bạn mày đâu”!
Tôi cứ như nhìn ra con đường dẫn, từ cái cảnh Gấu tôi, đứng ngay trên
vỉa hè
Sài Gòn ngấu nghiến đọc cọp cuốn Bếp Lửa của TTT. Cảnh
này dẫn tới cảnh anh bạn
Nguyễn Hải Hà “tình cờ” giúi vào tay Gấu tờ Sáng Tạo, trong khi cả hai
đều là
những thằng mê toán đến phát điên, và có thể trở nên khùng, nếu gặp một
bài toán
khó, không làm sao giải được!
Tất cả là để dẫn tới chuyện, tôi quen Chất, tại năm học đệ nhất ban
toán, tại
lớp B. 8, trường Chu Văn Anh. Và được anh dẫn về nhà chơi, biết bà cụ
anh, và
ông anh của anh, nhà thơ TTT.
Tôi đã có lần kể lại, trong Một Người Anh”, cái cảnh đến nhà, lần
thứ
nhất gặp nhà TTT ngồi ở một cái bàn nhỏ ở góc nhà.
“…. Rồi thi đậu Tú Tài phần một. Khi đó trường tư chưa có Đệ Nhất. Tôi
được vào Chu Văn An, hiệu trưởng là
thầy Trần Văn Việt,
khi nhà trường còn nằm nhờ phía sau trường Pétrus Ký. Học chung với đám
dân
trường tư, trong có Chất, em anh T. Qua Chất, tôi có thêm một số bạn,
Cẩn,
Quốc, Sủng, Luận, Tín. Đúng 7 đứa. Nhà bà cụ Chất là nơi chúng tôi
thường tụ
họp. Ngay từ những ngày đầu tới chơi, thấy anh T. ngồi co cả hai chân
lên ghế,
trước một cái bàn nhỏ ở góc nhà, tôi đã tưởng tượng, phải nói là đã mơ
ước,
tương lai của mình sau này rồi sẽ y hệt như vậy.”
Một
người anh
Cái bàn nhỏ
đó,
tôi lại nhớ ra nó, khi gặp lại ông cậu, lần trở lại Hà Nội. Ông cũng
nhớ lại,
lần đầu tiên ông có được cái bàn ở trong đời, đấy là nhờ ông Nguyễn Văn
Linh và
chính sách cởi trói. “Không có ông Linh, với chính sách cởi trói cho
đảng viên,
mợ mày đâu có cơ hội mở ra cái quầy bán đinh sắt ở phía dưới nhà, nhờ
vậy mới
có đồng ra đồng vào."
Tôi nhìn lên
bàn, thấy cuốn Larousse, ấn bản đời thứ tiền sử.
"Cậu dùng cuốn từ điển này?”
Ông gật đầu.
“Cũng mới mua sau này, nhờ cái sạp bán đinh sắt.”
Ông bùi ngùi kể lại, lần hai cậu cháu gặp
gỡ năm 1954, cậu thì từ rừng núi Việt Bắc về tiếp thu thủ đô, cháu, sau
khi
nhường thủ đô cho ông cậu, bèn vội vàng chạy ra ga Hàng Cỏ, lên tầu
hoả, xuống
Hải Phòng, xuống tầu há mồm, ra vịnh Hạ Long, lên tầu Đệ Thất Hạm Đội,
chuồn vô
Nam, năn nỉ Sài Gòn nhận thằng bé Bắc Kỳ làm con nuôi.
Năm 2001, về lại Hà Nội, nghe ông cậu than thở:
"Suốt cả tuổi trẻ, cậu lên rừng, theo kháng chiến, 1954 về Hà Nội, lập
gia
đình, suốt quãng đời còn lại, chỉ mong sao có được một cái bàn để mà
làm việc."
Ôi chao câu nói của ông cậu, làm tôi nhớ đến Nguyên Hồng, khi viết Bỉ
Vỏ, trên
mấy cái thùng gỗ, thay cho cái bàn!
Khỉ như thế đấy, viết, tức là nhớ lại, những khổ với sướng chung quanh
một cái
bàn!
NQT
5 năm
TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)
TTT
& ông em, ngồi sau, [Bạn
C. trong Thất Hiền của Gấu]
@ Vườn
Bờ Rô, Sài Gòn
Thơ Thanh Tâm
Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế
giới.
Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất
hiện đại,
cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu
ta thấy
thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu
thổ
Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót
giọt mưa
dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới,
không phải là
tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là
người nhược
tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính
cách dân
tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có
Việt Nam và trong Việt Nam có thế
giới. Trong «Guernica» của Picasso có Bến Tre, trong
tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có
Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một
bước ngoặt
trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm
Tuyền không
có người thừa kế.
Nguồn
Đọc bài
viết của NCK, Gấu
nhận ra một sự thực "chói lòa":
Đối với lũ chúng tôi, TTT là
thần tượng, không phải văn chương, mà đời thường, và qua bài viết này
của NCK, đời tù!
Mấy thằng ngu, thấy Gấu này
hay nhắc tới ông, hay nhắc tới Faulkner, bèn tức điên lên, tại sao mày
không
nhắc đến chúng tao, cũng thi sĩ, cũng nhà văn, cũng bạn quí!
Chúng đâu có hiểu, cả trong
đời sống lẫn trong cõi mộng, Gấu này bảnh hơn chúng rất nhiều: Đều có
Thầy!
*
Gấu đã từng nghe, một vì giáo
sư Ăng Lê, đã từng dậy một ông bạn quí của Gấu. Gấu quen ông, những
ngày cuối
đời, ở hải ngoại. Có lần, nhân nhắc đến đấng bạn quí, ông bèn kể, có
lần thầy
gặp lại trò, trong một chốn đông người, và có thể, không có cách nào để
tránh
mặt thầy, ông học trò bèn lừ lừ đến, chìa tay bắt tay vị thầy ngày nào,
gật gù:
Ngày trước moa có học toa!
Câu chuyện trên Gấu nghe
"đích thân" ông giáo sư Ăng Lê, kể, nhưng cách kể của Gấu “đểu", so
với thái độ "minh triết" của vị giáo sư.
Steiner,
nhiều học trò như
thế, vậy mà khi được hỏi, ông chỉ nhớ, một em sinh viên, nói
thắng vào
mặt
Thầy, moa chán những bài học
minh triết của toa quá rồi, moa đếch thèm
học nữa.
Cô bỏ đi, lặn lội đến một nơi tận cùng trái đất, để làm một cô giáo
tỉnh lỵ,
chắc thế, chân trần... Trên Tin Văn hình như có nhắc tới chuyện này
rồi. (1)
(1) Trong đời
tôi,
tôi đã gặp được năm hoặc sáu sinh viên phú bẩm (doués), sáng láng
(créatifs)
hơn tôi. Một lần ở [Đại học] Cambridge, một trong những nữ sinh viên,
con chim
đầu đàn của khóa học, đã nói với tôi: "Tôi ghê tởm tất cả những gì thầy
dậy
tôi; tôi quá chán tất cả những gì mà thầy đại diện; tôi chẳng bao giờ
thèm nghe
nói về văn hóa, và tôi bỏ đi làm một người y sĩ chân trần ở Trung
quốc." Vài
năm sau, tôi được mời thăm Bắc kinh, và vị Đại sứ Anh quốc đã cho tôi
tin tức
về người đàn bà này. Bà là một y sĩ, trong một làng quê không điện
không nước…
Vậy đó, bà ta có lẽ là một thành công độc nhất của tôi.
Văn hóa
không làm tăng tính người
Nhật Ký TV
*
Tôi
không muốn làm nhà thơ. Mà chỉ muốn làm một anh văn
nghệ làng nhàng. Một thằng nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì đã trần tình như
vậy, nhưng là một Tư Mã Giang Châu
đã quá hân hạnh ở trên cõi đời này rồi.
R.L. Stevenson
*
Là một nhà thơ chứ, lẽ dĩ
nhiên!
Một nhà thơ vụng về, nhưng một nhà thơ.
[Borges trả lời phỏng vấn]
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
PHỐ CŨ DƯƠNG CẦM THU
Lá vàng rơi thương tưởng Dương
Cầm Thu
Phố ươm nắng vàng câm. Âm biếc nắng
Bờ bến gọi. Thức tròn mùa xa vắng
Em đi đâu?! Dương cầm réo sông xa
Dương Cầm Thu ngấm men rượu
Hoàng Hoa
Phố thầm nhắc một mái lầu phong nguyệt
Màu cổ điển. Rằm phơi âm bất tuyệt
Em đi đâu?! Cỏ ướt khúc tình sầu
Dương Cầm Thu tóc xõa Dương Cầm
Nâu
Phố khuya hát ngàn sông. Rêu nhớm rễ
Âm níu Nhạc. Ngàn sông bay nắng xế
Để ngàn khuya tan theo Dương Cầm Thu
Muốt tay em mềm hết dấu sương
mù
Phố điêu khắc. Dương Cầm Thu chín đỏ
Lá say hết âm vang chìm đáy mộ
Nắng vàng câm. Âm biếc nắng nhớ nhau
Nắng vàng câm. Vang bóng đến
ngàn sau
Phố ngực nõn dậy thì trăng ướt mượt
Phím chất ngất. Dương Cầm Thu hẹn ước
Trăng gọi nước xuôi ngàn. Đàn vang bước em đi…
8/2005
Quả là một khúc thần sầu. Chất
viril [chất
đực], chất eros [chất huê tình], chất sauvage [dã man, tàn bạo]...
nhưng cũng
thật thơ mộng:
Em đi đâu, cỏ ướt khúc tình sầu.
Thơ NLV âm vang thơ của những bậc đi trước ông.
Rõ nhất, là Joseph Huỳnh Văn, rồi tới Bùi Giáng, rồi tới Thanh Tâm
Tuyền [chất
đàn ông, hung bạo mà cả hai đấng kia không hề có].
Có lần, Gấu thú thực, chưa tìm ra chìa khoá vô cõi thơ NLV. Có NTN, lần
anh
viếng thăm Mẽo, và nhà thơ này gật gù, đúng, mỗi cõi thơ là mỗi chìa
khoá. Thơ
của tôi, chìa khoá nằm ở mãi cõi Thơ Đường.
Nói chung, thơ của mấy ông này, chìa khóa thì đều nằm trong Cõi Điên
cả.
Trừ Joseph HV, cõi thơ Ky Tô, giống của Brodsky.
Trừ TTT, cõi thơ trí tuệ, gần cõi thơ Milosz, nhưng lại thiếu cõi quê
của
Milosz.
Cõi quê như chính ông tâng bốc:
It is good to be born in a small country where nature is on a human
scale,
where various languages and religions have coexisted for centuries. I
am
thinking here of Lithuania,
a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le
với con
người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời.
Tôi đang
nghĩ về Lithuania,
miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Với TTT, thì đây là Đất Bắc mà
ông đã từ bỏ, và khi trở về, thì như một
tên tù:
Chiều
cuối năm qua
xóm nghèo
Mưa
bay lất phất gió căm
căm
Đường
lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn
đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro
đứng coi tù qua thôn
Vác bó
cuốc nặng bước loạng choạng
Về
trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh
lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm
lòng ta chiều cuối năm
78 (Thơ
ở đâu xa)
Thơ
TTT, sở dĩ không có truyền
nhân, chính
là do cái chất trí tuệ của nó.
Như Adam Zagajewski viết về Milosz:
Tưởng Niệm Czeslaw Milosz [1911-2004]
Trí
Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski