29.10.2004
Nguyễn Quang
Lập
Chín khúc
tương đồng
(Đọc Trầm
tích, trường ca của Hoàng Trần Cương. NXB Hội Nhà Văn 1999, tái bản
2004)
Tôi hiểu Trầm
tích là kết tủa của kí ức, sự kết tủa lỏng, từng giọt, từng giọt một
của một
người từ thuở “đẻ rơi bên cối giã gạo”, thuở mới chỉ là “nỗi buồn không
biết
nói”, “đi qua tuổi thơ nắng mưa lấn bấn”, đi qua “những nhọc nhằn mê
lú”, “những
tháng năm tươi nguyên màu máu chảy”, “những địa tầng mưng máu” cho đến
ngày bạc
tóc mới giật mình nhìn lại món nợ đời không biết trả làm sao, nhưng lại
không
muốn “gán cho mai sau/dù một cắc nợ nần”. Từng giọt kí ức cũng là từng
giọt ăn
năn, từng giọt nhớ thương day dứt, kết thành dòng sông chảy lặng lẽ
giữa đời
thường.
2.
Kí ức về nơi
chôn rau cắt rốn, “nơi mùa hạ long đầu/mùa đông lỏng gối/ nơi linh
thiêng thơm
thảo tình người”. Nơi đó là miền Trung, “mảnh đất mỏng và sắc như cật
nứa”, mảnh
đất “về tắt mắc rừng / đi ngang vướng biển”, “mảnh đất nghèo mồng tơi
không kịp
rớt”.
Miền Trung,
“cái chảo rang của đất đựng trời”, “đông chưa tàn, hạ đã rạn ban mai”.
Sống trọn
kiếp với miền Trung mới thấm cái chữ rạn kia. Mùa hạ đã rạn trời, “nắng
rúc xù
mái rạ”, “bảnh mắt nắng rộm màu cá rán/ nghe mo nang lốp bốp nổ khắp
làng”, “trời
thủng lam nham nắng chiều vàng ổi”. Những mùa hạ điêu đứng. Nắng điêu
đứng nắng.
“Ðất khát chen nhau gầy rạc lời ru”, “những dòng sông thoi thóp nước”.
Gió điêu
đứng gió. Những ngọn gió “thổi cay thổi rát”, những ngọn gió “cào lửa
vào đêm”.
Ðất gan gà gió xới “bụi đỏ vùi chột cả bóng tre” và “cát mênh mang là
cát”, “lốc
gió xoáy hình vành nón”, “bạc phau trang giấy trắng học trò”. Ðã từng
vật vã
trong mịt mù cát bụi, tôi hiểu vì sao nhà thơ lại nói: “câu ví dặm nằm
nghiêng/
trên nắng và trên cát” và vì sao “đến câu hát cũng hai lần sàng lại”.
Lịm đi vì
những câu thơ hay tê tái! Những câu thơ nóng rẫy, rút ruột từ những năm
tháng
trời đày, những mùa hạ vật vã với nắng gió và hạn hán, thèm quá một
giọt mưa trời,
bao ngày “ngửa mặt nhìn trời xanh nhức mắt”, nhìn “sông Lam héo theo
lá” mà lo.
Và khóc: “Gặp trăng thâm quầng đứng khóc cạn đêm”. Những ai từng bị
những vầng
trăng quầng đe dọa suốt tuổi thơ cháy khát, khó lòng cầm được nước mắt
trước
thơ anh.
3.
Miền Trung,
“những đồng quê gió máy bạc trời”, những cơn “mưa quây khú cả nắng
vàng”. Mảnh
đất “mưa giờ Ngọ chưa qua gió giờ Mùi đã tới”, mảnh đất “ròng ròng mùa
chinh
chiến”. Ở đâu trong kí ức da diết nhớ thương mảnh đất ấy cũng gặp
“những bãi
hoang loang đầy vọt bổi”, những cánh đồng “lúa con gái mà gầy còm ốm
đỏ”, những
xóm làng “tre pheo cụt ngọn”, những “cây mít còm nhòm nhựa ứa rưng
rưng”, “những
đồi chổi rành/ những truông chổi đót/ quét vẹt trời miền trung”. Một
chữ vẹt
xót xa, cứa vào lãng quên, đánh thức những tâm hồn bỏ trốn, đánh thức
cả mùi
quê cho những kẻ li hương: “mùi cỏ mặn và khẳn như lông bò tẩm nắng” ,
“mùi cỏ
còn đắng nghét đến hôm nay”. Miền Trung, nơi ấy “chỉ gió bão là tốt
tươi như cỏ/
không ai gieo, mọc trắng mặt người”. Tao tác người tha phương cầu thực,
đất rỗng
không, trời cũng rỗng không. Trống trơn “những ngọn đồi tím lịm sim
mua”, những
bến sông hoang đầy gió, “tiếng gọi đò méo cả bến sông”. Một chữ méo
buốt đến tận
xương. Chữ của trời hay chữ của người? Ba mươi năm cạy cục viết văn,
một chữ ấy
làm tôi giật mình sợ toát mồ hôi. “Nhìn quầng trăng lại nhớ mảnh quê
gầy”.
Muốn khóc
quá.
4.
Có một miền
Trung của kí ức được chiếu sáng bằng cái nhìn trẻ thơ, cái nhìn quí hơn
vàng
cho những ai đam mê nghệ thuật, được nhà thơ cất giữ nâng niu sau nửa
đời bươn
chải, bỗng sáng lên một vẻ đẹp rưng rưng. Trời quê “tẩm ngẩm xanh”, “bờ
ao tím
rần túm lá lộc mưng/ lá lộc mưng trảy non chát ngòm cổ họng” và trên
cánh đồng
quê “chiều chưa nguội nắng/ ngoài đê cỏ hỏn hẻn cười/ đã giật mình nghe
sấm đuổi”.
Bức tranh đồng quê của chú bé nghịch ngợm, mải chơi. Cái nhìn trẻ thơ
là cái
nhìn ngạc nhiên, vì thế nó mở mắt cho ta cảm được cái lạ lùng những gì
hằng thấy,
những gì quen thuộc, những gì nhàm chán trong cuộc sống mòn của kiếp
người.
“Trăng đầu tháng đỏ ngầu/ như cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi.” Ta
xuýt xoa
và chợt nhớ miếng bã trầu mẹ ta vẫn thường quệt ngang trên vách. “Hình
như bến
bờ đau đẻ/ khoắt khuya đất vật ầm ầm”. Ta phì cười và chợt nhớ những
đêm thơ
bé, nghe bất kì tiếng động nào ta cũng lén mẹ vụt ra sân. Cái nhìn trẻ
thơ là
cái nhìn vô tư lự, gạt hết cay cực ở đời, tỏa ra ánh sáng trong vắt, vì
thế cho
ta nhìn thấy cái đẹp ngay cả trong những gì nguy hiểm, những gì đang đe
dọa.
Cái đẹp của cơn lũ về lúc nửa đêm, ngoài cái nhìn trẻ thơ không ai có
khả năng
nhìn thấy: “Hình như sông cũng nằm mơ/ nửa đêm sóng cười trắng xóa”. Ta
sống được,
ta yêu đời chỉ vì ta đã bị mê hoặc bởi cái nhìn trẻ thơ, có phải thế
chăng? Những
con cá còm dưới đáy vó bè đói rách bỗng lấp lánh vẻ đẹp lạ thường:
“Ðọng dưới
đáy vó bè những mảnh trăng bơi lẻ”. Trẻ thơ là vậy, thương người cũng
thật trẻ
thơ: “Khoai sắn thương nhau láu táu để dành”. Thương trời cũng thật trẻ
thơ:
“Ðưa mây trắng về trời khêu lại nắng”. Cái chữ khêu ấy là chữ của trẻ
thơ hay
chữ của kí ức trẻ thơ thì cũng thế. Thương cả những con kiến mùa nước
lũ. “Mùa
lũ theo con kiến càng/ leo cong ngọn cỏ/ mùa lũ theo đàn kiến đỏ/ men
ngược bờ
tường/mùa lũ theo bầy kiến đen/ tha rơm vào tổ/ mùa lũ xua đàn kiến
gió/ bỏ nhà
đi hoang/mùa lũ đẩy cánh kiến vàng /sang nhà hàng xóm”. Thương mà lại
hát vang
lên, dung dăng dung dẻ, ấy là cách thương của trẻ thơ.
Ta già nua bởi
vì ta cằn cỗi.
5.
Trầm tích chỉ
những giọt tình thi thoảng, điều ngạc nhiên nhíu mày, dù thế nào thơ
cũng là chốn
trú ngụ của tình yêu. Nhiều thơ cho bà, ít thơ cho em, dòng thơ thật
trong
không thật mát. Ít nhưng mà quí hiếm, thôi thì cầm lòng vậy. Ðã bao lần
ngắm
em, khó thấy một cảnh này: “Buổi trăng lên em tự vuốt bóng mình”. Không
phải, vẫn
hằng thấy đó thôi nhưng chẳng biết nói lên. Không biết hắt lên đời
thường ánh
sáng lạ, xin đừng làm thi sĩ. “Em thấm vào anh/ đam mê ngọt lịm”. Ai
chẳng thế
nhưng thơ có cách thấm của thơ. Thấm từ khi “gặp màu xanh hút hồn thăm
thẳm mắt
em”. Không có hút hồn, câu thơ ấy xưa như trái đất, thơ đôi khi cũng
cần phải
láu. Thấm từ buổi đầu gặp gỡ, hoặc là trong ngõ nhỏ, hoặc ở giữa cánh
đồng, hoặc
ở bến sông quê chiều vừa lịm nắng. Không biết. Chỉ biết “em ngang qua
chiều/ nắng
thơm mùi rượu/ mắt sông/ môi lửa/ gió lên đồng”. Em đáng yêu và đáng...
sợ, nếu
là tôi, tôi sẵn sàng xin chết. Xin chết một lần yêu: “Mưa đến với đêm/
và anh
mang gió/ ôm mưa ngang thềm”. Cái chết có chữ thơ che đậy. Xin chết hai
lần
yêu: “Khoảnh khắc gặp gỡ/ mờ đất tối trời/ như là ngọn lửa/ sấn vào đêm
sâu/
đêm ngày sấp ngửa...” Một chữ sấn làm tan hết chữ thơ, lộ thiên cái
chết nóng rực.
Vườn thiêng đã phá, trái cấm đã ăn, cứ thế, cứ thế... “Em là thế/ và
anh là thế/
xanh ngang đêm/ và thắm lệch ngày”. Xanh thì xanh ngang, thắm thì thắm
lệch, lạ
thay cái chữ thơ làm ta lún sâu vào tình, khó lòng dứt ra được.
6.
Bơi
lội trong dòng sông kí ức có tên Trầm
tích, ta gặp những mảnh đời thường lam lũ, những chân dung dựng bằng kí
ức, dựng
bằng tinh lọc thơ dành dụm suốt đời. Vẫn là bà muôn năm lưng còng, Trầm
tích
cho ta một góc nhìn lấy ra từ đau xót, phác thảo bà, đời rất đời mà đẹp
hơn cổ
tích: “Tuổi thơ tôi đi qua/ trong nắng mưa lấn bấn/ trong bóng bà đã
lấm hoàng
hôn”, trong bóng bà “lúi húi dáng lưng còng ngóng vịn cơn mưa”. Hội họa
nào vẽ
được cái “bóng lấm hoàng hôn” và dáng “ vịn cơn mưa”? Muôn năm không vẽ
được,
cho dù Rodin, cho dù Hopper. Muôn năm bà vẫn ru cháu dưới ánh trăng,
chiếc võng
cột gốc cau, “ánh trăng nâng bóng cau đặt mớm vào mép võng”, sao ta
nghe tiếng
ru hời nhớ thương đứt ruột: “Câu ví dặm gầy nhom thì thào như người mới
ốm”. Ðứa
bé thiêm thiếp ngủ, bà “bỏm bẻm nhai trầu/ rón rén thức mùi hương”.
Cháu bà là
tương lai của bà, bên cánh võng bà cố giữ gìn nâng giấc tương lai, bao
nhiêu đắng
cay hờn tủi trong đời bà rón rén giấu đi. Cả trầu cau cũng tỏa hương
rón rén!
Bà nào bà không thương cháu nhưng thương như bà thuở “làng lâm nạn”,
rùng rùng
đói rách xâm lăng, mọi thứ trong nhà đều đem đấu giá, quả thật trong
đời chưa
nghe ai nhắc đến: “Biết lấy chi cho lũ cháu nô đùa/ bà xâu mấy đồng xu
rỉ xanh
rỉ vàng chuột tha vào trong ngạch/ quàng lên buồng chuối sau nhà/ quàng
lên buổi
chiều buồn thời gian không đấu giá”. Ai từng qua những ngày “lâm nạn”,
những
ngày ruộng đất sục sôi, thấy lại kí ức này đều cúi gằm xuống ngực khẽ
nấc lên,
chắc thế.
Không làm
sao nói hết.
Không
làm sao nói hết dáng mẹ miền Trung tần tảo
nuôi con. “Mẹ hãm nhỏ đĩa đèn dầu lạc/ tẩm lớp nghệ vàng lên mẹt cá
ươn/ sớm
mai kéo sụp nón / sấp mặt ngồi cuối chợ/ nhặt về những đồng xu bạc
phếch đất
bùn.” Tuổi bé con có biết gì đâu, bạc tóc mới đau cái “buổi sáng con để
xổng
con cá chầy ngoài bãi/ con cá chầy sẽ mang gạo về cho các em con”. “Con
cá mừng
thoát nạn”, mẹ đứng trơ trên bãi, “lũ em đứng vỗ tay”, “mẹ rấm rức
cười/ mắt
mưng mưng gió”. Nụ cười đắng ngắt, không đau đời không nhìn thấy được.
La
Joconde có nụ cười bí hiểm mặc kệ La Joconde, tôi chỉ thao thức vì nụ
cười của
mẹ. Bạc tóc mới đau “ngày di dân gió tràn vào xóm nhỏ”. Nườm nượp những
cuộc di
dân chẳng phải vì đói nghèo, vì những ý tưởng vu vơ kinh tế mới. “Mẹ
lận vào
lưng đùm hạt giống”, “bỏ lại sau lưng mồ mả cha ông”, “dẫn bầy con đi/
ánh mắt
phẳng lì màu đất nện”. Ánh mắt trơ lì cam chịu của người mẹ miền Trung.
Mẹ biết
mẹ đang đem con đến chỗ sa cơ nhưng chẳng thể đặng đừng, làm sao đương
cự với
trống dong cờ mở? Ðau đến nỗi trào ra hai chữ phẳng lì. Bỗng hiểu vì
sao “mẹ
vén vun cưng nựng nụ cười/ trên gương mặt thời gian còn rác rưởi”.
7.
Trầm tích có
chân dung đa sắc, có chân dung một nét. Hai ngàn rưỡi câu Trầm tích,
chỉ hai
câu anh vẽ về cha. Phác thảo một nét xót như xát muối. Người cha vừa
thoát qua
cái chết dựa cột oan uổng sau một cú sửa sai, lẳng lặng về nhà. Không
mừng vui cũng
chẳng giận hờn. “Mẹ bảo: may mà trời có mắt/ cha chẳng nói gì/ người
lẳng lặng
cầm sào đi xốc lại cây rơm”. Phác thảo một nét thô tháp và trần trụi,
toát lên
khí chất miền Trung. Nếu là xi-nê đây là xen tuyệt hảo.
8.
Trầm
tích đa thanh không tổng phổ, nói rằng
giao hưởng e hãy còn xanh. Nhưng có một xô-nát cho bộ dây, chân dung
không lời
người lính trở về sau chiến tranh, quen rất quen, lạ vô cùng lạ. “Cho
con xin
trọn vẹn một ngày/ trải lá chuối lên xó vườn rậm cỏ / nằm giang tay
giang chân/
để nghe gió thì thào to nhỏ/ để dõi theo mây núi trắng ngần/ để nỗi nhớ
lần về
tận ngõ...”
Ta
nghe tiếng hòa bình vi vút.
Hòa
bình đẹp như mơ, hòa bình đau hơn hoạn - nỗi
niềm mênh mông người lính thời hậu chiến. “Ta nhiều khi mình giấu cả
mình/ bỏ
sót những cái đích kề cận/ quay lại tìm trời đã nín thinh/ quay lại tìm
ta
không là ta nữa”.
Ta
nghe một khoảng lặng đau.
“Giặc
tan/ lính tản/ loãng chiều” - Một hòa
bình ngẩn ngơ. “Hoảng hốt nhìn sân trường vắng bóng trẻ con/ hoảng hốt
nhìn
lòng mình ruột gan như lửa đốt/ bói đâu ra bóng dáng ngày thường”. Một
hòa bình
ngơ ngác. Một hòa bình không có trong giấc mơ giữa hai lần xung kích.
Khúc biến
tấu xốn xang, quay cuồng cơn stress, báo hiệu cái kết đơn thanh, ấy là
khi người
lính “một mình đứng khóc cùng cỏ lác”. Tiếng vĩ cầm chầm chậm chết dần
trong
câm lặng.
Xô-nát
của Debussy, của Saint-Saëns hay của
Shostakovich? Tôi không biết, với âm nhạc tôi là tên mít đặc.
9.
Tôi
hiểu Trầm tích đánh thức kỉ niệm của mỗi
người, đập vỡ lớp vỏ bọc cứng nức những ham hố đương thời, những toan
tính gầm
ghè, những âm mưu nhơ nhuốc, những ghen ghét bệnh hoạn, kéo mỗi người
về qua khứ,
dẫu biết “quá khứ không toàn là kỉ niệm/ quá khứ có khi còn buốt óc”.
Không
biết nói gì hơn.
Bắc
Linh Ðàm, những ngày mộng du.
Nguồn:
Báo Văn Nghệ, số 43, 23.10.2004
[Trích
talawas]