Notes
I
1
2
|
Kỷ
niệm, kỷ niệm
To
die for others is
difficult enough.
To live for others is even
harder.
G. Steiner: Errata
Giữa “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “Ngày
mai đi nhận xác chồng” là chân lý:
Chết vì người đã khó, sống vì người còn khó
hơn?
*
Nhà thơ Lê Thị Ý, người được
độc giả đón nhận bàng hoàng khi biết chính là tác giả bài thơ dội vang
tình cảm
người đọc trong thời chiến tranh khốc liệt. Bài thơ được nhạc sĩ Phạm
Duy phổ
nhạc, được người đọc lấy câu thơ đầu trong bài để gọi tên: “Ngày mai đi
nhận
xác chồng.”
Thực
ra, “Ngày mai đi nhận
xác chồng” có tên nguyên tác là “Thương Ca 1” trong một chuỗi năm bài
Thương Ca
được ghi số Thương Ca 1, Thương Ca 4, Thương Ca 5, Thương Ca 6, và
Thương Ca 8.
Nhắc
chuyện cũ, tác giả Lê
Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng trên tờ Tranh Ðấu của sinh
viên
Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã gửi cho bạn ông là nhạc
sĩ Phạm
Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến trên các đài phát thanh
lúc bấy
giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.”
Nói
về hoàn cảnh bài thơ
được
khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết, “Nhà tôi ở gần nhà xác trên
Pleiku. Khi
ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang diễn ra thật khủng khiếp.
Không ngày
nào nhà xác không nhận thêm được xác những chiến binh QLVNCH hy sinh
tại chiến
trường. Và những người vợ trẻ thì đứng đầy quanh nhà xác với những vành
tang
trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy những cảnh thê lương ấy.
“Em
không thấy được xác
chàng,
Ai
thêm lon giữa hai hàng
nến
trong?
Mùi
hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa
trang mà ngỡ như phòng
riêng ai...”
Nguồn Người Việt
Nhà thơ Lê Thị Ý,
nghe nói,
là em gái nhà thơ Vương Đức Lệ (Lê Đức Vượng).
Không biết có đúng
không.
Cái
chi tiết về NDQ đọc, và
gửi
cho PD, tuyệt!
Có
lẽ đã đến lúc phải viết
về
cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi đấy. Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo
nghĩa, chưa báo cáo độc giả Tin Văn, để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải
trải qua những cơ may huyền diệu, sau những đau khổ khủng khiếp như thế
nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu,
trong cái dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
*
Theo server, thì 3,
trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn
hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi.
Và:
Ngày mai
đi nhận xác chồng.
Ui
chao, sao mà
tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhà thơ Lê Thị Ý
là em của Vương Đức Lệ, qua bài phỏng vấn
trên báo Người
Việt cho biết.
-ÐQAThái: Khi phổ thành ca khúc, hình như Phạm Duy có sửa vài lời trong
bài
thơ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Ðúng vậy. Có lẽ ông Phạm Duy sửa vài chữ cho nó hòa
hợp với
âm điệu bài nhạc hơn. Có câu ông Phạm Duy cắt bớt. Thí dụ câu tôi viết,
“Chiếc
quan tài phủ cờ màu, hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng” thì Phạm Duy sửa
thành
“Bây giờ anh phủ mầu cờ” và cắt đi câu thơ kế tiếp.
-ÐQAThái: “Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng”, tại sao lại phũ phàng ạ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Khi đau đớn thì cái gì cũng phũ phàng cả. Phũ phàng
là hình
ảnh đau đớn, quằn quại.
Tuyệt! Thơ được trao cho thi sĩ, là như vậy đó. Đám thi sĩ dởm làm sao
biết một
chân lý đơn giản như vậy. Cái tay ký giả thì bị ám ảnh bởi mấy cái vạch
cờ ba
sọc, nên mới théc méc,"tại sao lại phũ phàng ạ"!
Cũng ý này, Lão Tử phán, thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu [Gấu
nhớ đại
khái, không biết có đúng không, cái này là tán phó mát thêm!]
*
Thật tiện lợi, khi
hồi nhớ
làm việc được cả hai chiều”.
“Hồi nhớ của tôi chỉ làm việc
một chiều”. Alice
nói. “Tôi không thể nhớ chuyện, trước khi nó xẩy ra”.
“Quá nghèo nàn,
thứ hồi
ức chỉ nhớ chuyện đã qua”. Hoàng hậu nói.
“Bà nhớ rành rọt nhất, là
những chuyện gì?”. Alice
dò hỏi.
"Ồ! Những chuyện xẩy ra
tuần lễ tiếp theo tuần tới”. Bà Hoàng thản nhiên nói.
(Through the Looking Glass).
*
Bài Ngày mai đi nhận xác
chồng này Gấu đọc lại, mới nhớ ra đây là một bài viết bỏ lửng, tính
viết tiếp,
rồi quên luôn.
Vào lúc đang viết đó, Gấu
đụng vô, cái gọi là sự “chúc dữ của nước”, tạm gọi như vậy, mô phỏng
điều mà
Koestler gọi là sự "chúc dữ của cái vòng tròn", la malédiction du
cercle, giáng lên văn minh Tây Phương.
Vì quá mê cái vòng tròn mà
văn minh Tây Phương mất mẹ nó mất hai ngàn năm, kể từ Pythagore cho đến
khi
Kepler khám phá ra quỹ đạo của các hành tinh là hình bầu dục [ellipse].
Khi Kepler khám phá ra điều
này, ông nghĩ mình là thằng khùng, hay tên tội phạm, bởi vì đây là điều
cách
đây hai ngàn năm Pythagore đã biết rồi!
Nhà Gấu bị chúc dữ bởi
nước! Vào năm 1946, ông bố bị một ông học trò làm thịt, đòm một phát,
thẩy thầy
xuống sông, kèm cục đá.
Thằng em trai của Gấu chết vì
một viên đạn bắn từ bên kia sông, xuống mặt nước, giống như bắn thia
lia, và
viên đạn nhảy lóc cóc trên mặt nước, qua bên này sông, bay lên, lọt vào
ót
thằng em trai, lúc đó đang cùng tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường
Sóc
Trăng, vào năm 1967, trước Mậu Thân một năm. (1)
Khi thằng em vô quân trường
Thủ Đức, là Gấu đã ngửi ra cái chết của nó.
Và nó sẽ chết vì nước!
Lần Gấu thoát chết vì mìn
claymore của VC ở bờ sông Sài Gòn, là Gấu biết, thằng em vô phương!
(1) Đây là Gấu phóng đại, làm gì có viên đạn nào đi thia lia, nhẩy lóc
cóc, nhưng nếu bạn bắn một viên đạn xuống bước, thì bắt buộc nó phải
trồi lên, theo một định luật về vật lý học. Thằng em Gấu quả là chết vì
một viên đạn như thế. Khi nghe tiếng súng từ bên kia sông, theo phản
sạ, cu
cậu cúi đầu né, cái nón sắt, do ẩu tả, không cài dây, rớt xuống đất, và
khi viên đạn bay hết đà, bèn ghé cái ót cu cậu nằm nghỉ!
Gấu đã từng
gặp viên quân y sĩ, ông nói, nếu lấy viên đạn ra, thì sẽ nát bấy khuôn
mặt, nên tôi để luôn trong đó.
Đến khi Gấu bỏ chạy quê hương, bèn đào mộ ông em, lấy xác, hoả thiêu,
đem tro cốt vô chùa, vì cũng sợ, mấy ông VC chẳng tha người đã chết.
Và
quả đúng như vậy, chúng cho ủi sạch nghĩa trang quân đội Gò Vấp.
Mới đây thôi, đứa con gái út của Gấu về Việt Nam, ghé chùa, mang tro
cốt của bà cụ và đứa em trai ra Vũng Tầu, thả xuống biển.
Bà sư trụ trì chùa
nói, Ông Tướng Râu kẽm cũng vừa ghé, và cũng làm như
Gấu!
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Một thời để yêu, để hát, và để chết
Bài
Ngày mai đi nhận xác
chồng này Gấu đọc lại, mới nhớ ra đây là một bài viết bỏ lửng, tính
viết tiếp,
rồi quên luôn.
Vào lúc đang viết đó, Gấu
đụng vô, cái gọi là sự “chúc dữ của nước”, tạm gọi như vậy, mô phỏng
điều mà
Koestler gọi là sự "chúc dữ của cái vòng tròn", la malédiction du
cercle, giáng lên văn minh Tây Phương.
Vì quá mê cái vòng tròn mà
văn minh Tây Phương mất mẹ nó mất hai ngàn năm, kể từ Pythagore cho đến
khi
Kepler khám phá ra quỹ đạo của các hành tinh là hình bầu dục [ellipse].
Khi Kepler khám phá ra điều
này, ông nghĩ mình là thằng khùng, hay tên tội phạm, bởi vì đây là điều
cách
đây hai ngàn năm Pythagore đã biết rồi!
Nhà Gấu bị chúc dữ bởi
nước! Vào năm 1946, ông bố bị một ông học trò làm thịt, đòm một phát,
thẩy thầy
xuống sông, kèm cục đá.
Thằng em trai của Gấu chết vì
một viên đạn bắn từ bên kia sông, xuống mặt nước, giống như bắn thia
lia, và
viên đạn nhảy lóc cóc trên mặt nước, qua bên này sông, bay lên, lọt vào
ót
thằng em trai, lúc đó đang cùng tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường
Sóc
Trăng, vào năm 1967, trước Mậu Thân một năm. (1)
Khi thằng em vô quân trường
Thủ Đức, là Gấu đã ngửi ra cái chết của nó.
Và nó sẽ chết vì nước!
Lần Gấu thoát chết vì mìn
claymore của VC ở bờ sông Sài Gòn, là Gấu biết, thằng em vô phương!
(1) Đây là Gấu phóng đại, làm gì có viên đạn nào đi thia lia, nhẩy lóc
cóc, nhưng nếu bạn bắn một viên đạn xuống bước, thì bắt buộc nó phải
trồi lên, theo một định luật về vật lý học. Thằng em Gấu quả là chết vì
một viên đạn như thế. Khi nghe tiếng súng từ bên kia sông, theo phản
sạ, cu
cậu cúi đầu né, cái nón sắt, do ẩu tả, không cài dây, rớt xuống đất, và
khi viên đạn bay hết đà, bèn ghé cái ót cu cậu nằm nghỉ!
Gấu đã từng
gặp viên quân y sĩ, ông nói, nếu lấy viên đạn ra, thì sẽ nát bấy khuôn
mặt, nên tôi để luôn trong đó.
Đến khi Gấu bỏ chạy quê hương, bèn đào mộ ông em, lấy xác, hoả thiêu,
đem tro cốt vô chùa, vì cũng sợ, mấy ông VC chẳng tha người đã chết.
Và
quả đúng như vậy, chúng cho ủi sạch nghĩa trang quân đội Gò Vấp.
Mới đây thôi, đứa con gái út của Gấu về Việt Nam, ghé chùa, mang tro
cốt của bà cụ và đứa em trai ra Vũng Tầu, thả xuống biển.
Bà sư trụ trì chùa
nói, Ông Tướng Râu kẽm cũng vừa ghé, và cũng làm như
Gấu!
Gánh Nặng
Tuổi Thơ
Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ
trên, đa số
là những phê bình, nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ,
phải nói
là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn
sách mà
chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt
hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời
thơ
ấu khốn
khổ khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi
Gấu trở
về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu
còn ở
lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh
nặng
tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham Greene viết:
"Có vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống
ai,
nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh nặng
tuổi thơ.
Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường hợp
Dickens, còn
với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô Aunt
Rosa, bên
một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều chẳng bao giờ quên được.
Tất cả
những kinh nghiệm sau đó của họ, đều như dính mắc tới những tháng,
những năm
bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng
ta
đã có tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào
những năm
tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng
chứa toàn
những cay đắng ngày nào, (1) thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra
cũng
đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương
tựa vào
nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế
độ,
trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc,
tìm ra
được quê hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một
lô những
ông bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn, bất
thình
lình, đúng vào lúc chưa biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao, là
cách họ
phản ứng, sau khi bị cắn. Dickens học được sự thân ái, sympathy.
Kipling, sự
độc ác. Dickens phát hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên,
easy
and natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào trong sự hiểu biết của
nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại, rất ư là hợp thời, vào thời đó.
*
Câu
này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine, Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo
khổ, bị tước đoạt, và sự cùng cực làm nên vợ nhà văn nhớn. La pauvreté,
les
privations et la misère sont l'école du bon soldat. Napoléon Bonaparte.
Extrait
d'une Lettre à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.
(1) Đây là Gấu Cái nhớ lại kỷ
niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai
Lậy về Sài Gòn, và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than:
Trên xuồng
có đủ cay đắng, đủ dùng cho... ba người, người thứ ba là cô phù dâu
cũng ngồi
trên xuồng!
*
Gấu, nhà văn
Unpredictability, not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is
at the
core of our life.
Nguồn
Không thể biết trước, chứ không phải chết không thể nào tránh được, đó
mới là
cốt lõi của cuộc đời của chúng ta.
Unhappiness wonderfully aids the memory.
Greene: The Burden of childhood
[Bất hạnh là thuốc bổ của hồi nhớ]
*
Không thể biết trước được.
Quả có thế.
*
Lại nói chuyện tuổi thơ bất hạnh.
Trong bài ‘tạp ghi đầu tay’ mở ra sự nghiệp‘Gấu nhà văn tạp ghi’
ở hải
ngoại (1), Nước Cờ Của Hư Trúc Gấu
đưa ra nhận xét, những nhân vật của Kim Dung đều bước ra từ cái bóng
của Oliver
Twist của Dickens.
Những đứa trẻ bất hạnh.
Bài viết gây một trận sóng gió trên diễn đàn VHNT của Phạm Chi Lan, chỉ
mãi sau
này Gấu mới biết, khi tình cờ ghé mục lưu trữ của báo. Và đây có thể
coi là bài
đầu tiên Gấu viết cho báo này, không phải bài Mùa
Xuân nói chuyện
Mậu Thân bị PCL từ chối, kèm cái note thật là lịch sự, …
đây là
một nhân vật gây tranh cãi, tốt nhất, anh đưa bài khác, cho khỏi xui
cái duyên
văn tự giữa anh và VHNT.
(1) “Nick’ này, Gấu nhờ nhà thơ Luân Hoán mà có được. Trong đại tác
phẩm hàng
ngàn trang Nhà văn Việt Nam của ông, hân hạnh có Gấu ở trong đó, phần
tiểu sử,
ông ghi nhà văn, nhưng phần tác phẩm, thấy toàn tạp ghi, thành thử
‘chết tên’:
Gấu nhà văn tạp ghi.
Bài viết đăng trên tờ Văn Học, trước khi Gấu giữ mục Tạp Ghi, vài
tháng, hoặc
một niên sau đó. Một ông nhà văn ở tòa soạn báo này [hình như là PN]
bèn gửi
cho VHNT. Thời gian đó, Gấu chưa biết net, chưa biết không gian ảo là
cái gì,
tuy có tậu được một cái PC, nhưng chỉ sử dụng được trên Dos, không có
Window.
Thế là một bàn tròn văn học được mở ra, đây chắc là mục thường trực
cuối tuần
của báo này. Gấu còn nhớ trong đó có nhà văn THT. Ông này thì chán Gấu
như chán
cơm nếp nát, từ trước 1975, bèn lắc đầu, đọc văn đọc thơ là "cảm
nhận", chứ đâu có phân tích phân tiếc nhức đầu như thế này. Một ông,
trẻ,
Gấu chưa từng nghe danh, ở trong ban biên tập, thì rất ư bực mình, Kim
Dung thì
có liên can gì tới Dickens, đến những đứa trẻ bất hạnh? Đến cái đoạn
Gấu tán
phó mát về nước cờ của Hư Trúc, ông càng bực, đây là nước cờ ăn may, là
vô
chiêu thắng hữu chiêu, là buồn ngủ gặp chiếu manh, tình cờ may mắn mà
có được,
liên quan gì tâm hư tâm trúc ?
*
Sau này, khi viết thường trực cho VHNT, Gấu cũng hân hạnh, thường xuyên
được là
đề tài của bàn tròn văn học, và những lần như thế, đều được PCL gửi cho
một bản
sao. Một lần, một ông tỏ ra hết sức bực mình về chuyện Gấu rất ư là
nhập
nhằng
giữa những gì viết ra, và những gì được coi là trích dẫn, dịch thuật,
"his
own style", như ông viết.
Quả có chuyện đó, thành thử sau này, Gấu cố gắng, mỗi lần trích dẫn, là
mở
ngoặc, đóng ngoặc thật là đàng hoàng. Tuy nhiên, cách tốt nhất, cứ coi
như
chẳng có Gấu ở trong đó.
Toàn là của người, cả.
Đây là giấc đại mộng của Walter Benjamin, làm sao viết tác phẩm, chỉ
gồm toàn
trích dẫn, và phần của ông, giống như những giàn dựng, khi tác phẩm
hoàn thành,
được rút ra, dẹp bỏ.
Đây còn là giấc đại mộng của Roland Barthes: Tác giả, mi hãy chết đi,
để cho
độc giả xuất hiện.
*
Đỗ Long Vân, khi viết Vô Kỵ giữa chúng ta, tuy trân trọng tiểu
thuyết chưởng
Kim Dung, nhưng tự hỏi, Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta, và nghi vấn
này, [cơn
sốt, hiện tượng mê Kim Dung tại Miền Nam lúc đó, do đâu mà ra],
người
đời sau sẽ giải đáp.
Nghi vấn này, cho đến nay, vẫn chưa sao giải đáp. Trong nước sau 1975
còn mê
Kim Dung hơn trước nhiều. Những bản dịch sau này, đầy đủ hơn, từ những
bản văn
đã được Kim Dung nhuận sắc, bỏ đi những đoạn mà tác giả coi như là dài
dòng.
Trước 1975, đọc Lục Mạch Thần Kiếm, Gấu không hiểu, tại làm sao
mà pho
tượng trong động, nơi Đoàn Dự học Lăng Ba Vi Bộ, lại y chang Vương Ngọc
Yến, y
chang người đẹp trong tranh của Hư Trúc.
Hoá ra là tất cả là cùng một nguồn gốc.
Tuy nhiên đọc mấy ông dịch giả kiêm phê bình gia, biên khảo gia, thí dụ
như ông
Vũ Đức Sao Biển chẳng hạn, thì hỡi ôi, sao lại có những ông liều lĩnh
đến như
thế, và mới hiểu ra, là Kim Dung thật không dễ đọc, và vấn nạn Nước Cờ
Hư Trúc
quả thật không dễ giải đáp.
Và càng khó thực thi.
Giai thoại Nước Cờ Hư Trúc là từ tư tưởng Phật giáo, nhưng nó làm nhớ
tới giai
thoại "rau vô tâm" trong truyện Đát Kỷ giết Tỷ Can, bằng cách moi tim
ông làm thuốc. Ông này nhờ được mách bảo, sau khi bị móc tim, hãy ngậm
miệng
đừng nói thì toàn mạng, và khi không thoát khỏi sự tò mò, hỏi cô gái
bàn rau,
rau vô tâm là rau gì, và khi nghe trả lời rau muống, thế là ngã xuống,
đi luôn.
[Nên nhớ rau muống là rau 'quốc hồn quốc túy' của dân Việt].
Thành thử "hư trúc" thì mới giải được nước cờ, nhưng "hư
trúc" thì chết!
Trong lời giới thiệu, đại gia VĐSB phán, chúng tôi gọi Tiếu Ngạo
Giang Hồ là
một siêu phẩm. Toàn bộ tác phẩm gồm 40 chương hồi. Tuy nhiên tác phẩm
lớn không
ở chỗ dài hơi đó. Nó lớn vì chiều sâu kiến thức chứa ngay trong tác
phẩm.
Tuy nhiên sau đó, đọc ông viết
về những chiều sâu kiến thức, nào Phật
nào Lão
mà ông gán cho Kim Dung qua những nhân vật này nọ, thì hóa ra là ông
tán tào
lao tất cả.
Điều này chứng tỏ ông không đọc nổi Kim Dung, và có thể không đọc nổi
bất cứ
một cuốn tiểu thuyết, bất cứ một thứ giả tưởng.
Chứng cớ. Ông viết, "cơ duyên nào đưa đẩy một nàng Nhạc Linh San mới
muời
sáu tuổi say mê cái mã đẹp trai của Lâm Bình Chi và dễ dàng phụ dẫy
thâm tình
ban đầu mà cô đã dành cho Lệnh Hồ Xung? Cho đến khi lấy Lâm Bình Chi,
nhận ra
bản chất tàn bạo của gã, cô mới hối hận vì đã đánh mất một báu vật trên
đời?"
Đọc, Gấu này thực sự thấy thương cho đại gia VĐSB. Thương cho những
nhân vật
của Kim Dung.
Lâm Bình Chi đâu phải bản chất tàn bạo. Tay
này
cũng một thứ tuổi thơ bất hạnh. Hắn trở thành độc ác, thì đó là do bị
cuộc đời
cắn cho một miếng thật bất thình lình, đúng vào lúc chú bé hăm he làm
việc
thiện, giải cứu người đẹp, một cô gái bán rượu, vô tình sa vào tay con
người
độc ác mưu mô, tàn nhẫn, là Nhạc Bất Quần, đem cả con gái ra làm mồi
nhử chú bé
con nhà giầu mang trong mình kho tàng Tịch Tà Kiếm Pháp.
Đã có lần Gấu lèm bèm về nhân vật này, và mối tình Nhạc Linh San dành
cho Lâm
Bình Chi, và gọi đây là một thứ “tình nghiệt”. [Trong bài viết
Ngọa Hổ Tàng Long].
Nhưng sau đọc “Sebald đọc Weiss”, mới khám phá thêm một khía cạnh của
thứ tình
nghiệt này: Nhạc Linh San là mẫu người muốn trả nợ, muốn đem lại cho họ
Lâm tất
cả những gì đẹp đẽ nhất của đời người - cái gọi là hạnh phúc - để đền
bù lại sự
độc ác của loài người, qua tác nhân là cha cô - đã giáng lên đầu đứa
trẻ bất hạnh
này, trong đó có cả sự độc ác của chính cô, khi giả làm cô gái bán rượu.
Có thể nói, cái chết của Nhạc Linh San, là đã được "tiên đoán", khi
cô khoanh tay đứng nhìn Lâm Bình Chi giết người vì cô. Chính vì thế khi
chết,
cô cố năn nỉ “người anh”, “người yêu cô”, “người bạn thời thơ ấu”, Lệnh
Hồ
Xung, hãy chiếu cố cho họ Lâm. Bà mẹ của cô, khi biết, mới than, ôi oan
nghiệt,
là theo nghĩa đó.
Sự kiện, Nhạc tiểu thư năn nỉ Lệnh Hồ Xung đừng giết Lâm Bình Chi còn
là một
mệnh lệnh: Đừng làm hỏng ước mong trả nợ, cho bố ta trước tiên, và, cho
sự độc
ác của cả giống người. Và chuộc tội cho cả ta nữa.
Đẩy đến tận cùng ước mong này, là sự thực thê lương: Không ai có thể
giết được
Nhạc Linh San, ngoài Lâm Bình Chi! Mạng đòi mạng, oan oan tương báo là
như vậy
Bảo rằng, Nhạc Linh San say mê Lệnh Hồ Xung chứng tỏ chưa đọc Tiếu
Ngạo, tuy
dịch, bởi vì chính Nhạc Linh San, khi Lâm Bình Chi trổ mòi ghen tuông,
và sau
đó giết cô, đã giải thích cho ông chồng hờ, về mối tình khi còn là con
nít này.
Ngay Lệnh Hồ Xung sau cũng nhận ra, anh không phải mẫu người của Nhạc
Linh San.
Nàng yêu một người nào như cha nàng, nhưng lại không phải như cha nàng:
Một
người như Nhạc Bất Quần nhưng trừ bỏ đi, sự độc ác.
Người tình trong mộng của Nhạc tiểu thư, như thế, chính là Lâm Bình
Chi, khi
còn là một công tử miệt vườn Phúc Kiến mê mẩn tiếng hát [quan họ?] của
mấy cô
hái chè quê mình, không phải quê người.
Cái chết của Nhạc Linh San, ở tay người chồng hờ, mang tính tình
nghiệt, của
Đông Phương. Do đó, trước khi chết Nhạc Linh San năn nỉ Lệnh Hồ Xung
chiếu cố
tới Lâm Bình Chi, và tiễn nàng ra đi, là âm thanh của những bài hát của
những
cô gái hái chè vùng [Phú Thọ] Phúc Kiến, quê hương nhà chồng trong trí
tưởng
của nàng.
Ngọa Hổ Tàng Long
Ui chao thế "lày" thì,
khi Gấu đi, Gấu Cái nhớ cho đội kèn đồng tấu bài "Đôi Mắt Người Sơn
Tây", nhé!
Đi?
Gấu lại nhớ đến lời mời của Má Mì, lần đầu tiên tới xóm:
-Thế cậu có đi không?
Ngu quá, cù lần quá, Gấu bèn lắc đầu:
-Tôi không đi!
Nhật Ký Tin Văn
Gấu đọc
lại đoạn trên, viết về
Nhạc Linh San, ngộ ra một điều, cái xứ Bắc Kít, và cái tuổi
thơ bất
hạnh của Gấu, nó hành Gấu thật là khủng khiếp, thê lương!
BHD sở dĩ bỏ đi, một phần còn
do cô nhận ra, Gấu không chỉ yêu cô, mà còn thù cô, như yêu và thù xứ
Bắc Kít,
và tuổi thơ Bắc Kít của Gấu!
Mới đây thôi, Gấu còn cố thực
hiện mối tình khốn khổ khốn nạn với cái xứ Bắc Kít khốn nạn khốn khổ
khốn kiếp,
bằng
cách đằng đẵng, cúng hết cả cái quãng đời ở hải ngoại vào cái việc mơ
tưởng thực hiện một mối
tình tưởng
tượng, với một “em”, phải nói, một “ bà
già” Bắc Kít, một "Me Mẽo" thì đúng hơn.
Gấu muốn nói với em đó, bằng
cái tiếng Bắc Kít, “Anh Yêu Em”, thực hiện giấc mơ điên khùng ngày nào
với cô bé
con Bắc Kít 11 tuổi!
[Note: Đừng có tin, phịa đấy!]
Cũng là một cách trả ơn những "Me" của Gấu, có thể nói như vậy.
Bởi vì không có bà cô, Cô Dung, một Me Tây, làm sao có Gấu nhà văn!
Orwell, hay là sự phát
minh ra cái thực
Từ chối thoả hiệp, khinh miệt
mọi thứ kỷ luật đảng, cảm thấy mình khó trở thành một con người hành
động, tất
cả những điều trên đã đưa Orwell tới một ngõ cụt chính trị, và ông tìm
cách thoát
ra bằng việc viết. Trại Loài Vật,
còn mang một cái tít nho nhỏ, “Một câu chuyện
thần tiên”, là thời điểm quyết định trong cuộc tiến hoá văn học của
ông. Bên cạnh
đề tài chính trị (giải hoặc cách mạng vô sản Liên Xô, xác nhận điều,
cách mạng
nào thì cũng chỉ là phản bội, và hiện tượng biến thành ròi thành bọ là
gần như
không thể tránh được), hình thành một ý hướng văn chương dưới vóc dáng
thật đáng
nể của nó: Dụ ngôn.
Kỷ niệm,
kỷ niệm
Một
thời để yêu, để hát, và để chết
Ngày
mai đi nhận xác chồng
Theo server, thì 3,
trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn
hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi.
Và:
Ngày mai
đi nhận xác chồng.
Ui chao, sao mà
tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhắc chuyện cũ, tác
giả Lê
Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng trên tờ Tranh Ðấu của sinh
viên
Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã gửi cho bạn ông là nhạc
sĩ Phạm
Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến trên các đài phát thanh
lúc bấy
giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.”
Nói về hoàn cảnh bài thơ
được
khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết, “Nhà tôi ở gần nhà xác trên
Pleiku. Khi
ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang diễn ra thật khủng khiếp.
Không ngày
nào nhà xác không nhận thêm được xác những chiến binh QLVNCH hy sinh
tại chiến
trường. Và những người vợ trẻ thì đứng đầy quanh nhà xác với những vành
tang
trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy những cảnh thê lương ấy.
“Em không thấy được xác
chàng,
Ai thêm lon giữa hai hàng
nến
trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng
riêng ai...”
*
Cái chi tiết về NDQ đọc, và
gửi
cho PD, tuyệt!
Có lẽ đã đến lúc phải viết
về
cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi đấy. Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo
nghĩa, chưa báo cáo độc giả Tin Văn, để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải
trải qua những cơ may huyền diệu, sau những đau khổ khủng khiếp như thế
nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu,
trong cái dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
*
Gyorgy Faludy, tiếng nói của
kháng chiến
Hung,
mất ngày 1 Tháng Chín, 2006, thọ 95 tuổi
[Người Kinh Tế, số đề ngày 16 Tháng Chín 2006]
Không có viết và mực, ở trong
trại tập
trung Stalinist tại Hung, Gyorgy Faludy dùng cọng chổi để viết, bằng
máu, và
trên giấy vệ sinh. Đau khổ, như một lần ông nói, không phải là một đức
hạnh.
Nhưng ba năm của ông tại Recsk, từ 1950 đến 1953, theo một nghĩa nào
đó, quả là
những năm tháng mặc khải. Tập thơ xuôi, "tản văn", như lối nói hiện
nay, nổi tiếng ở bên ngoài nước Hung, kể lại quãng đời hưng phấn một
cách âm u
đó, darkly inspiring, tức thời gian ông ở tù "VC Hung" được ông đặt
tên là “Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa Ngục”.
Vẫn theo một nghĩa nào đó, Mr
Faludy chọn
nhà tù. Ông đã được đề nghị, một cơ may, chạy trốn quê hương, qua Áo
tái định
cư, nhưng từ chối, và lý luận, rằng, tôi phải tận mắt chứng kiến, những
đau
khổ, những rùng rợn, cho dù tới đỉnh cao cỡ nào, mà những người Cộng
Sản mơ
tưởng ra được, cho xứ sở của tôi. Trong bài thơ Mừng Thượng Thọ 70 Ông
Xì, ông
liệt kê danh sách những số phận dành cho kẻ can đảm: giầy đinh thúc vào
mạng
mỡ, đạn bắn vào đầu, và giá treo cổ. Và tất nhiên, làm sao tránh khỏi,
số phận
của thi sĩ, sau bài thơ: Ông chọn nhà tù, chẳng mấy chốc sau đó.
Thân thể trong tù, như Bác Hồ nói, nhưng cái đầu của nhà thơ thì ở bên
ngoài
nhà tù. "Đói khủng khiếp, lạnh cứng người," ông viết, "tôi co
cụm, thu lu thành một đống trên sàn đá, phủ lên người đủ thứ mảnh vải
đầy chấy
rận rệp, áo choàng, giống như một tấm lều, và thở qua tay áo, thổi hơi
thở vô
thân mình để sưởi ấm nó, và cứ thế làm thơ". Khi tay quản giáo chìa cho
ông xem, những bài thơ của người cháu trai của anh ta, nhà thơ nhăn
mũi, phán,
suy đồi, và phản cách mạng.
Tay quản giáo giận tái mặt.
Bị tống vô xà lim, chật cứng, tối thui, nhà thơ trải qua hàng giờ vận
nội lực,
trở thành chết cứng, rồi biến hoá, transfixed, thành một sợi nắng mùa
đông chạy
dài trên sàn xà lim. Ông tưởng tượng mình đang ở Biển Nam.
Ông và bạn tù mở một đại học đặc biệt, dậy thơ ca, lịch sử và văn
chương. Một
bạn tù huýt sáo trọn bài "Don Giovanni" của Mozart, một người khác kể
"Chiến Tranh và Hòa Bình". Nhà thơ đề nghị bạn tù nhớ ở trong đầu họ,
thơ của ông, khi ông viết chúng ra, theo cách như ở trên đã nói. Nếu có
người
nào được thả, thì người này sẽ tới thăm bà xã nhà thơ, và đọc cho bả
nghe.
Ông được thả vào năm 1953, khi Stalin chết, nhưng trại tù chẳng bao giờ
thả
[tha, cũng được] ông. Nó trở lại thí dụ, như trong bài thơ sau đây, làm
vào năm
1983.
Learn by heart this poem of
mine,
Books
only last a little time,
And this one will be borrowed,
scarred,
Burned by Hungarian border guards,
Lost by the library, broken-backed,
Its paper dried up, crisped and
cracked,
Worm-eaten, crumbling into dust,
Or slowly brown and self-combust,
When climbing Fahrenheit has got
To 451, for that's how hot
it will be when your town bums
down.
Learn by heart this poem of mine
*
Hãy học
thuộc lòng bài thơ này của tôi,
Sách thọ đâu được bao lâu ?
Và cuốn này thì sẽ bị mượn, bị vạch nát,
Bị đốt bởi lính biên phòng Hung,
Bị mất bởi thư viện, bị long gáy,
Những trang sách khô, ròn, rồi vỡ vụn ra,
Bị gián, mọt ăn, gặm, nát thành bụi,
Hay cứ thế từ từ vàng ố đi, tự huỷ diệt bằng hơi nóng,
Một khi nhiệt độ leo đến 451 Fahrenheit,
Đó là khi mà thành phố của bạn bị đốt rụi.
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.
Chàng mê thơ rất sớm, và tất
nhiên, không chỉ thơ, mà còn những
quán cà phê Budapest,
và một cuộc sống văn chương. Nhưng ông bố khoa học gia lắc đầu, phán,
Budapest
hiện đã có 20 ngàn thi sỡi, không một thằng nào trong số đó, nuôi nổi
thân. Thế
là ông đóng thùng ông con, tống đi Vienna,
học kỹ sư hóa. Chẳng ông thầy hóa nào biết đến ông, ấy là vì ông dành
thời giờ,
thay vì học hóa, thì là để dịch và cho xb những dòng thơ của Francois
Villon,
một thi sĩ nổi loạn người Pháp, thế kỷ 15, và ông khởi nghiệp thơ của
mình bằng
cách đó. Ông còn viết một bài thơ phạng Hitler và được ông này thưởng
cho 14
năm tù, nhưng ông trốn được, bằng cách giúi tiền vào túi quần tay quản
giáo. Và
khi cuộc chiến bùng nổ, ông chơi một cái thuyền, làm một chuyến du
ngoạn tới
Morocco, tìm cách tới Mẽo, và đăng lính Sao Sọc.
Làm thơ bằng những dấu
chân
chim.
Ông trở lại Budapest
sau chiến tranh,
để chứng kiến, quan sát, điều mà ông gọi là, "một nền dân chủ được xây
dựng lên mà đếch cần đến những người dân chủ" ['democracy being built
without democrats"].
Tháng Mười 1956 Cách Mạng Hung bùng ra, chống lại sự chiếm đóng của
Liên Xô.
nhà thơ tắm đẫm mình vào trong đó, như là một thành viên của phái đoàn.
Phái
đoàn gì cơ chứ? Phái đoàn Hội Nhà Văn bên cạnh Hội Đồng những công nhân
điều
hành cuộc cách mạng. Nhưng khi chiến xa Liên xô tràn tới, ông lại chuồn
đi Tây
Phương: Vienna, Florence,
Malta, New York, và Toronto.
Tại đây, ông sống chung nhà với một tay khiêu vũ, dancer, người Mỹ tên
là Eric
Johnson.
Tay thanh niên trẻ đẹp trai này lần ra dấu vết của nhà thơ tại Malta
sau khi
đọc Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Tại Địa Ngục. Mr Faludy sống tại đây,
sau khi
bà vợ mất. Ông cảm nặng Eric, và làm một số bài sonnets vì anh ta. Tại
Toronto,
họ chia một căn phòng nhỏ cùng với một đôi chim sẻ. Đôi chim thường đậu
trên
bàn máy chữ của nhà thơ. Và chỉ bay lên khi tiếng chuông báo hiệu chấm
dứt một
dòng.
Trên hai chục năm, đến 1989, khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, nhà thơ sống
tại Canada.
Sau
hết, nhà thơ cũng trở về cố hương, sách của ông hết còn bị cấm sau bốn
thập kỷ,
và sống trong trong một căn hộ rộng rãi trông ra sông Danube, do nhà
chức trách
thành phố ban cho ông. Tại quê nhà, ông gây sốc cho nhân dân, khi bỏ
Eric, chạy
theo một em nữ thi sĩ nhí, nhỏ hơn ông 60 tuổi, duyên dáng, uyển
chuyển, và kết
hôn với em, và xuất hiện với em, gần như hoàn toàn khỏa thân, trên
trang bìa tờ Penhouse, ấn bản tại Hung. Với mớ tóc dài, trắng
phau tỏa lên hai bờ
vai, với đôi mắt nâu và cái nhìn chiếu xoáy, ông trông như một ông tiên
trong
truyện cổ tích, cùng với nàng Fanny của ông tiên.
Được dân chúng ngưỡng mộ, vinh danh, cùng những giải thưởng, ông làm
thơ cho
đến tận cùng. Tập thơ chót của ông, xuất bản năm 2003, có tên là Thế
Kỷ
Giông Bão.
Ông thường có thói quen dậy thật sớm, ngắm dòng sông Danube
chảy bên ngoài, nhịp dòng sông cũng là nhịp của những bài thơ chảy
trong máu
ông.
*
.... Within the poetry of the Hungarian Gyorgy Faludy, who has died
aged 95,
Hungarian and other European traditions mingle, and there can be found
a record
of the turbulent 20th century.
Guardian
[Trong thơ của nhà thơ có truyền thống Hung và những truyền thống Âu
Châu khác
được trộn lẫn hòa nhập, và từ đó, là một ghi nhận về cơn chao đảo của
thế kỷ
20].
Đặng Tiến cũng phán, gần như tương tự, về TTT, chỉ thiếu cái khúc "a
record of the turbulent 20 th century", nhưng theo Gấu, có thể thay
bằng
câu của TTT, viết về Bếp Lửa, và về Hà Nội 1954, "đi và ở đều là những
chọn
lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết....".
Nguồn
*
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không
gian nhìn
ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ
khác dù rất
hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ
Yên, chủ yếu
ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người
dân châu
thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh
thót giọt
mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới,
không phải
là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là
người
nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ
tính cách
dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới
có Việt Nam và trong Việt Nam
có thế giới. Trong «Guernica»
của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam
có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là
một bước
ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam
là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm
Tuyền
không có người thừa kế.
Nguồn
*
Gấu,
nhà văn
Hắn nhấp nháy con mắt
nhiều hơn, và mang thêm biệt danh Chuột nhũi. Nhưng cô thư ký mới vào
nghề khâm
phục hắn, và luôn gọi hắn là "Gấu cưng" của tôi.
Call For The Dead
Có thể mượn, tên một tác phẩm
của nhà thơ Hung Faludy vừa
mới mất, "“Những
Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa Ngục”, để gọi hai năm Gấu ở trại Đỗ
Hòa, nhưng phải
trừ bỏ những
ngày đầu tiên, khi chưa liên lạc được với gia đình, đói, và nhớ nhà
quá, trốn,
bị bắt, bị tống vô tổ trừng giới.
Những ngày hạnh phúc của Gấu ở Đỗ Hòa bắt đầu cùng chuyến thăm nuôi đầu
tiên của Gấu Cái, sau khi biết trại tù, nhờ một gã thiếu niên trốn
trại, thoát, thương tình, đến nhà Gấu cho biết.
*
Lần bị bắt đúng lúc có chuyến vượt biên đường bộ, ngả Căm Bốt. Gấu Cái
cho thằng
lớn đi thế. Gấu được tin, trước khi bị đưa đi tập trung cải tạo. Bà cụ
đi thăm,
vừa vui vừa buồn, đưa cái hình thằng lớn chụp trước Tòa Đô Chính, trước
khi từ
giã Sài Gòn, nói nhỏ vô tai Gấu, nó đi thoát rồi. (1)
(1) Gấu nhớ lộn. Bức hình này, chụp trước Nhà Thờ Đức Bà.
Nhìn
bức hình, Gấu nhận ra, đúng chỗ đó, nó đã từng chụp hình, bức
hình polaroid có thể nói là đầu tiên tại Miền Nam, do tay Horst Faas
chụp, khi
anh chàng Đức này vừa từ trên văn phòng hãng AP, ở phía bên trên
Passage Eden
xuống, đang tính thử cái máy chụp đầu tiên ở Sài Gòn của anh ta.
Hóa ra không. Thằng nhỏ bị bắt, đưa từ biên giới về Sài Gòn, giam tại
khám Chí
Hòa. Lúc Gấu đi Đỗ Hòa, là Gấu Cái đang tất tả lo cho nó, thành thử
chẳng có ai
đi thăm, bà cụ đâu biết Đỗ Hòa hay Bến Hải hay Cà Mâu, đến khi hỏi ra,
thì đã mấy
tháng trời, Gấu vừa đói, vừa lo, không biết gia đình như thế nào, thế
là liều
lĩnh vượt trại. Khi Gấu Cái lên thăm, là lúc Gấu đang ở "tù trong
tù."
Cái hình thằng lớn, do Faas chụp đó, Gấu nhớ, là vì nó rất tức cười:
anh cu Tuấn
- từ đó, ra nick Tuấn Anh, khi viết Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề. Anh là tên
cô bạn,
trong Cõi
Khác - do bị sán kim, đứng đâu thì cũng thò tay vào
trong đáy quần để gãi đít, do sán kim làm ngụy ! Có thể, đó là một
trong những
tấm hình polaroid đầu tiên của Sài Gòn. Cu Tuấn cũng có thể là đứa con
nít đầu
tiên ở Sài Gòn được chơi mấy món đồ điện tử remote control, do mấy tay
phóng
viên UPI đi xả hơi ở Hồng Kông, hay Tokyo
mang về.
Date:
Thu, 6 Aug 1998
20:11:13 -0300
Anh Tru than,
Vua nhan duoc sach. Cam on anh nhieu.
Doc truyen "Lan cuoi, Saigon" thay
ngam ngui. Anh hoi nho Hong Lam va anh
Nhan khong, nho lam, anh Nhan da bi ban chet sau 2 thang GIAI PHONG. Du
Tu Le
cung hoi nhu vay. September 12 nay Du Tu Le sang toi de cung ra mat
sach mot
lan.
Anh nho NGUYEN TUONG GIANG (
Tap San Van Chuong ) khong ? Da gap lai chua ? Luc truoc o Boston
bay gio don xuong Virginia cho gan DINH CUONG.
Chu
tieng viet anh dung bo
chu nao ? De lan toi danh chu tieng viet co bo
dau cho de doc.
Cho toi dia chi cua anh de
gui sach va CD cua toi.
Than
NTK
Ui chao, thời gian dịch sách
cho ông Nhàn, tại nhà in Hồng Lam, số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm [của linh
mục Cao Văn
Luận], Gấu cầy 3 jobs, một, dịch sách, một, làm cho UPI, một, làm một
anh Cán Sự
Bưu Điện, vậy mà không đủ sở hụi.
Mấy đứa nhỏ lúc này hoàn toàn
sống nhờ bà cụ Gấu. Bà nấu cơm tháng cho mấy cô cậu sinh viên học Văn
Khoa, đường
Cường Để, kế ngay bên nhà Gấu, số 29/8D cư xá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trưa,
mấy cô
ghé ăn, xong, trở lại lớp. Còn đám nam sinh viên, có đứa trọ luôn nhà
Gấu, trong có
một tay, sau này mới biết VC nằm vùng, nhưng rất quí Gấu!
Mãi sau này, nghĩ lại, mới hiểu
ra là có ông Trời tất cả. Giả như không dịch sách cho ông Nhàn, là ngỏm
củ tỏi
nơi nông trường Đỗ Hòa rồi. Có những lúc, Gấu thật sự ngạc nhiên, tự
hỏi, tại
sao mà ông Trời lại quá châu đáo đến như thế, để lo cho số phận, chỉ
một thằng
cha Gấu, và lũ gấu con của nó!
Hà, hà!
*
Nhưng, để có được cái job
dịch sách, cũng ly kỳ lắm.
Giả như Gấu không giữ trang VHNT cho tờ Tiền Tuyến, thì cũng trớt lớt!
Trang báo, lúc đầu là do Thanh Tâm Tuyền phụ trách. Ông kêu Gấu giữ mục
điểm
sách. Sau ông chán, giao cho Gấu. Gấu kêu thêm một ông bạn quí cùng phụ
trách,
nhưng ông này sau cũng rãn ra. Khi ông giao, ông giao thêm một số bài
vở, đều
là những bài điểm sách, của hai tay mơ, và kèm câu, coi, sửa, rồi đăng
cho họ.
Một, là Nguyễn Mai, còn một, sau này theo lệnh
ông thứ
trưởng văn hóa VC làm danh sách những nhà văn phản động đồi trụy của
Miền Nam.
Tay này bèn trả ơn cả
TTT lẫn Gấu, bằng cách đưa
hết cả
đám Sáng Tạo vô, thêm thằng cha Gấu, đứng hàng thứ bẩy, trong số 12
tên!
Mấy
chuyện trên, lèm bèm mấy lần rồi. Khi ở trại tị nạn Thái Lan, khi
phải làm hồ sơ Cao Uỷ, và khi phải trải qua
thanh lọc, Gấu thèm ơi là thèm, giá mà có cái danh sách vàng đó, là
khỏi lo rớt
thanh lọc!
Giả
như Gấu không làm cái chuyện hì hục ngồi sửa mấy bài đó, thì làm
sao sau này, có cái chuyện, tay Nguyễn Mai trả ơn bằng cách giới thiệu
Gấu với ông Nhàn, khi ông làm tờ báo Thiếu Nhi, và làm nhà xuất
bản Vàng Son?
Còn
cái tay lấy oán trả ơn kia, thì chịu thua, không hiểu nổi.
Tuy
nhiên sau này, thì hiểu.
Anh
ta thù Gấu chỉ vì Gấu viết được quá, trí thức quá, đọc sách quá,
cái gì cũng quá quá so với anh ta, mù tịt!
Ra
hải ngoại, anh ta viết văn, nổi tiếng lắm, vậy mà vẫn không quên thù
Gấu, quái thế!
Có
lần, đọc, thấy anh ta than, làm trí thức mệt bã người, Gấu thấy
thương anh ta.
Và
thương luôn cả Gấu nữa!
Hà,
hà!
Rừng & Nguyễn
Đình Thuần & NQT & Đặng Phú Phong
@ DPP's, Little Saigon
Cải chính: Có tới
hai ông Phong.
Cái ông Phạm Phú Phong, viết về Thái Ngọc San, là một ông trong
nước, khác ông Đặng Phú Phong trên đây.
Xin lỗi bạn ta, về những dòng sau đây. NQT
*
Tôi thuộc thế hệ đàn em, đã quen thân Thái
Ngọc San hơn ba mươi năm nay. Nhưng đến khi anh đột ngột ra đi, qua
bạn bè
anh, tôi mới biết thêm rằng, trước khi anh có một tuổi trẻ không
yên ổn dễ
dàng với ba lần bị bắt đi lính, ba lần đào ngũ vẫn kiên trì chọn
con đường
dấn thân đến với phong trào đấu tranh chống Mỹ của lực lượng trí thức ở
miền
Nam, anh đã có một tuổi thơ đầy gian truân bất trắc. Điều đó phần
nào giải
thích vì sao sinh ra ở Lệ Thủy, Quảng Bình, chưa đầy mười tuổi anh đã
vào Huế
để rồi suốt đời gắn bó với Huế, trở thành dân Huế rin; giải thích vì
sao anh đã
từng lang thang trên hầu khắp các đô thị lớn ở miền Nam và đã từng trốn
khỏi
dòng tu… Tất cả những khó khăn cay cực đó không thể ngăn cản mà góp
phần tạo
nên những cảm xúc cường tráng, đầy nhiệt huyết của hồn thơ tranh đấu:
Làng em
đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ
lại hiên
ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê
em kết
nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
Phạm Phú Phong
Nguồn
Nhà thơ Maia sau cùng đã tự sát bằng súng lục vì những dòng thơ xúi
tuổi trẻ
lao vào chỗ chết. Không hiểu thi sĩ Thái Ngọc San, sau 30 Tháng Tư, số
phận ra
sao, có biến thành ruồi, như những bạn bè của Đào Hiếu, hay có tự sát
bằng súng
lục như Maia?
Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây
Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ
Đường Trường Sơn là đường chân lý
Thật
khó hiểu quá. Bao
nhiêu con người đã chết vì những dòng thơ như vậy, để có được một đất
nước khốn
khổ như bây giờ. Bản thân tác giả bài viết này, thì bây giờ cũng lưu
vong xứ
người.
Vậy mà vẫn viết những dòng đầy cảm khái như trên, ca ngợi bạn mình, một
tên VC
nằm vùng ngày nào ư?
Bỏi vì Gấu sợ, chính TNS cũng không muốn ai nhắc tới những dòng thơ
trên, nếu
còn chút lương tri.
*
Nguyên Mẫu
Nguyên
mẫu là một mục của tờ văn học Pháp, Le Magazine Littéraire. Số Tháng
Giêng 2009, có một bài viết về cặp Don Quichotte & Pancho Panca,
thật tuyệt, của Benoit Duteurtre. Tin Văn scan để hy vọng lèm bèm về
nó, khi nào hưỡn hưỡn, rảnh rảnh.
Thú nhất, là tác giả tìm ra sự liên hệ giữa cặp Don & Pancho với
những cặp, thí dụ, hai nhân vật trong Của Chuột và Người, và, từ Của
Chuột và Người, móc vào cơn suy thoái kinh tế hiện đại, rồi móc vào cơn
suy thoái tâm linh qua hai nhân vật trong Trong khi chờ Godot của
Beckett. Tuyệt!
Nói gần nói xa, chẳng qua nói thẳng: Đây cũng chính là cách viết Tạp
Ghi của Gấu!
Cái nọ xọ cái kia, chẳng biết đường nào mà lần! [Gấu Cái ghét thậm tệ,
chửi, chẳng khi nào đọc được trọn bài viết của mi!]. Một ông phê
bình
gia hải ngoại cho rằng, cách viết của Gấu là từ tuyệt chiêu Lăng Ba Vi
Bộ mà ra!
Nhưng, Lăng Ba Vi Bộ là một “diệu pháp” để tránh đòn. Đoàn Dự chẳng
muốn đánh nhau với ai, học được phép này, thú quá, vậy là khỏi lo thằng
nào đánh mình!
Còn mi?
Thì cũng nói thẳng: Để đánh người! NQT
*
Bác gái
nói đúng đó – bác
chịu khó viết bài có nhập đề-thân bài-kết luận cho bà con dễ đọc với.
Phúc
đáp: Tks. Nhưng Tin Văn bây giờ hết còn có thể viết một bài riêng rẽ ra
như vậy được nữa rồi. Tự nó cuốn lấy nó, chằng chịt như mạng nhện, Gấu
này cũng chịu thua. Chỉ có cách là từ bỏ nó. Terminate nó! Nhưng làm
sao terminate? Bài viết nào thì cũng như một phần tử trong một bản đại
hoà tấu diệt trừ Cái Ác Bắc Kít, trong khi chưa có một Newton xuất
hiện.
Nhưng nhờ Gấu Cái không đọc mà Gấu tha hồ viết!
Tks again. NQT
Đọc
ở đâu ?
Trên tờ TLS, Robert Irwin điểm cuốn “Đọc ‘Lolita’ ở Teheran”, của Azar
Nafisi, một câu chuyện về tình yêu, về những cuốn sách và về cách mạng,
đã đưa ra một nhận xét thú vị. Theo ông, những nhà phê bình văn học chú
ý ai đọc sách, đọc sách gì, nhưng lại ít chú ý đến nơi chốn mà những
cuốn sách được đọc.
Nhìn lại một đời đọc, nơi đọc, hoặc chỉ thấy mà chưa có hân hạnh đọc,
lần đầu tiên trong đời, quả là ghê gớm thật. Mà có khi còn liên quan
đến cái gọi là cơ may, vận mệnh của một đời văn, đời người.
Một cách nào đó, có thể nói, Mai Thảo đọc truyện ngắn đầu tay của Dương
Nghiễm Mậu, Cũng Đành, từ sọt rác tòa soạn báo Văn, tại đường Phạm Ngũ
Lão Sài Gòn, khi Trần Phong Giao làm tổng thư ký, như ông kể lại trong
một bài viết về họ Dương. Bởi vì ông đã lôi nó từ đó ra và đem lên Sáng
Tạo. (1)
Nguyên Ngọc đọc Nguyễn Huy Thiệp từ trong đống bụi của tờ Văn Nghệ, như
ông kể lại với Nguyễn Xuân Hoàng trên tờ Văn số tháng 6 & 7, 2003.
Như thể, trong khi chờ đợi người đọc, chúng - những cuốn sách – có khi
phải rúc sâu vào lớp bụi, nơm nớp sợ, một thằng cha cà chớn, một con
mắt phàm phu tục tử nhìn thấy!
Giả sử như chẳng gặp được một Nguyên Ngọc, thì đành biến thành bụi...
Tôi, đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền ngay trên hè
đường Sài Gòn, khi cuốn sách được đem bán xôn. Sau này, tôi vẫn cám ơn
ông Nguyễn Đình Vượng, người xuất bản, đã làm một hành động vô cùng
ngoạn mục, là cho Bếp Lửa biến thành bụi đường, để rồi tái sinh, như
truyền thuyết về một loài phượng hoàng.
Giả sử như ông không làm như vậy, một thằng học sinh nghèo như tôi, sức
mấy mà có tiền, hoặc dám bỏ tiền ra mua, một cuốn Bếp Lửa, nằm trên giá
sách?
Tay nghệ sĩ chơi nhạc, và soạn nhạc nổi tiếng Yanni, kể lại, vào năm 9
tuổi, ông bố đem cầm cố căn nhà của gia đình, lấy tiền mua cây đàn
dương cầm cho thằng con con nít. Sau này ông con kể lại, ông không phục
ai trên đời bằng phục chính ông bố của mình! Bởi vì, theo ông, mua cây
đàn chậm hơn một tí là... hỏng! Ông bố biết, phải có cây đàn, và phải
có ngay lập tức, không là cái thiên tài ẩn náu ở trong thằng con nít,
sẽ bỏ đi ngao du, bởi vì nó không thể đợi đuợc!
Tôi cứ tuởng tượng ra một ông Nguyễn Đình Vượng, một buổi sáng đẹp trời
tại Sài Gòn, bê chồng sách cũ, bán không được, là những cuốn Bếp Lửa,
cho xuống lề đường, để nó gặp được những độc giả... đích thực của nó,
thí dụ như... tui, chẳng hạn!
Bởi vì hành động bệ những cuốn Bếp Lửa mà tôi còn nhớ rõ, bìa vàng vàng
đó, ra lề đường, đối thằng con nít nhà nghèo là tôi đó, nó giống như
hành động cầm cố nhà mua cây đàn. Có chút khác, là ông Vượng làm sao
biết có một thằng con nít, đúng vào thời điểm đó, cần đọc... cọp, cuốn
Bếp Lửa?
Ôi chao, khi đã kiếm ra đồng tiền, cày hai jobs, một cho nhà nước, một
cho báo Mẽo, thằng con nít ngày xưa ‘đăng ký’ mua báo
Tây dài hạn [hồi đó gọi là ‘abonner’, thay vì ‘subscribe’], nhưng làm
sao quên được cái thú đọc báo cọp, đọc sách cọp, ngay ở vỉa hè?
Thanh Tâm Tuyền đọc Đêm Giã Từ Hà Nội, cho cả băng bằng hữu Sáng Tạo
nghe, và sau khi đăng, mời Mai Thảo đến tòa soạn, cả hai kéo nhau đi
uống "cà phe". Mai Thảo tâm sự, nếu anh mà không lôi nó ra đọc, rồi
đăng, tôi đã kiếm nghề buôn, thay vì viết, giữa những chuyến ngồi ngất
ngưởng trên xe xích lô, từ tòa soạn báo này tới báo khác, tại Sài Gòn.
Theo tôi, Thanh Tâm Tuyền phải đợi tới khi Mai Thảo
mất mới cho đăng những chi tiết trên, không phải là để đính chính một
vài điều về nhóm Sáng Tạo, thí dụ như “Ai là người cầm đầu nhóm, ai là
người khám phá ra Mai Thảo”... nhưng là để cho thấy, cái gọi là nghiệp
văn của Mai Thảo, sẽ biến thành nghiệp buôn, nếu không có một độc giả
là Thanh Tâm Tuyền.
Và khi Thanh Tâm Tuyền cho rằng Mai Thảo “đã trốn thơ cho tới khi không
thể trốn được nữa”, thì chúng ta, những độc giả của cả hai, sẽ tự hỏi,
phải chăng, thi sĩ cho rằng, giả sử như Sáng Tạo không đăng truyện
ngắn_tùy bút_ thơ Đêm Giã Từ Hà Nội, biết đâu đấy,
Mai Thảo sẽ “bằng lòng” làm nhà thơ, thay vì... “bằng lòng làm nhà văn”
[chữ của Thanh Tâm Tuyền, trong bài viết về Mai Thảo khi ông mất, trên
tạp chí Thơ], tác giả của những cuốn tiểu thuyết đăng báo, viết giữa
những chuyến xe xích lô ngất ngưởng trên đường phố Sài Gòn....
còn tiếp
(1): Mai Thảo, trong Chân Dung Nhà Văn, không nói rõ tên tờ báo, nơi
ông nhặt được bản thảo truyện ngắn của DNM. Không phải truyện Cũng
Đành, mà là Rượu Chưa Đủ.
Chắc chắn không phải báo Văn, vì khi ST còn sống, chưa có Văn. Báo Văn
số 1, số ra mắt, là số Tết, Xuân 1964, theo NCK. Cám ơn bạn đã nhắc nhở
về sai sót trên.
NQT
*
Bác gái nói đúng đó – bác chịu
khó viết
bài có nhập đề-thân bài-kết luận cho bà con dễ đọc với.
Tks.
NQT
Gấu có mấy bài tủ, đúng thứ như trên đây yêu cầu, vẫn chỉ để dành riêng
cho
mình, không dám viết ra, chỉ sợ viết ra là ... mất.
Viết, một cách nào đó, là... chết.
Gấu đã từng mở ra, như trên, những dòng kỷ niệm về BHD, trong Lần Cuối
Sài Gòn,
khi, ở trại tị nạn, biết rõ một điều, mất cả hai, BHD và Sài Gòn.
Nhưng thôi, sắp đi rồi, sang bên kia gặp BHD, gặp Sài Gòn rồi, giữ làm
quái gì
nữa!
*
Vào cái thời kỳ mà
Gấu này còn
mặt dầy, xun xoe, năn nỉ, xin được viết chùa cho đám khốn kiếp, một
trong bọn chúng, khi biết Gấu nghỉ viết mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của
NMG, đã
viết mail, ‘xoa đầu’ Gấu, đại khái như sau:
Gấu có đến mười món ăn chơi, 10 tuyệt chiêu. Nào là, có óc tổng hợp, có
cái nhìn bén nhạy, có cái hóm
hỉnh, có cái lòng nhân hậu….
Khi viết Tạp Ghi, Gấu mới sử dụng có 3 tuyệt chiêu
thôi, khi nào viết cho tụi này, chắc là mới đúng đất dụng võ, nhớ tung
đủ mười chiêu,
nhe, nhe!
Và “Người” cũng đưa thêm nhận
xét:
Những bài viết thật ngắn, thật gọn của Gấu, là những bài Người thích
nhất.
Bài Cầm Dương Xanh, Gấu gửi
cho tụi khốn kiếp đăng, được 'tán tỉnh', đại khái:
Gọi là thơ, gọi là tản văn, gọi
là tiểu luận, gọi là, gọi là, gọi là… cái
chó gì cũng được hết!
Bài này Gấu Cái chán lắm. Nhất là câu này:
Anh
yêu em, như một người
thân thương ruột thịt, mỗi lần anh trở về; bởi vì, ngoài em ra, đâu còn
nơi nào
để mà trở về?
Cầm Dương
Xanh
Đâu con
phố đơn côi,
như tên thường gọi,
nơi
gương cũ
bóng xưa
gặp gỡ?
Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet? (1)
... Đập cổ kính ra tìm lấy
bóng.
Anh biết, chẳng ai tin đôi
trai gái yêu thương nhau ngần ấy năm trời chẳng hề có chuyện chiếm đoạt.
Họa là thánh, ngay cả những
người bình thường nhất cũng tỏ vẻ nghi ngờ.
Hoặc ngần ngại, khi phải đưa
ra một lời kết luận.
Hay là anh không thương em.
Hay là em không thương anh, những ngày đó.
Sau ba mươi năm, anh tự hỏi.
Có lẽ không
phải vậy. Anh
thương em, như bất cứ một người nam thương một người nữ. Muốn sở hữu.
Muốn chỉ
là của mình. Nhưng đó là những lúc xa, thật xa em, tưởng tượng nếu có
em lúc
này, lúc nọ...
Khi gặp, anh chỉ thấy em thân
thương, giản dị, như một đứa em ruột thịt. Anh chỉ thấy em, như những
đứa em
gái của em. Anh yêu em như yêu tụi nó.
Anh yêu em, như một người
thân thương ruột thịt, mỗi lần anh trở về; bởi vì, ngoài em ra, đâu còn
nơi nào
để mà trở về?
Sự thực, riêng với anh, có lẽ
là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một đối đầu, thách đố. Như thể, anh
may mắn
được gặp em, vậy là quá đủ rồi. Như thể anh quá sợ, cuộc chiến lúc nào
cũng soi
mói, rình mò. "Mày chê tao nhơ bẩn, chắc gì mày đã hơn tao?", anh
nghe như nó nói, với ánh mắt cười cợt, với nụ cười đe dọa. Như thể, anh
càng
yêu em trong sạch, thánh thiện, nghĩa là bình thường, giản dị chừng
nào, cuộc
chiến thua chúng ta chừng đó.
Tất cả cái xấu trong cõi đời
này, là do lơ là, đối với một chút chi mong manh, dễ vỡ. Cái xấu hoàn
toàn là
do sự bất cẩn của chúng ta. Và cái tốt chỉ nẩy sinh, do sự kháng cự,
chống lại
nó*...
Nhiều lần anh tự hỏi, chẳng lẽ giản dị như vậy sao,
chẳng lẽ
chúng ta
giản dị chọn lựa sự lãng quên?
Có những lần, anh đã trách
em. Hình như em quên tất cả những một tí, những một chút kỷ niệm, Đâu
có nhiều,
tuy mấy năm trời quen biết. Nhưng sau này anh hiểu. Một lần lên xe, là
cả quãng
đời cũ xưa coi như đoạn tuyệt. Cha mẹ, anh em, còn cũng đành nữa là...
Đã từ lâu, anh đi đâu cũng có
em. Anh gói em, ở nơi nương náu giản dị nhất: anh giấu em trong nỗi vui
của anh
như một tờ thư ngập ánh mặt trời.
(Cela fait longtemps que
je
ne sors plus sans toi. Je t’emporte dans la plus simple cachette qui
soit: je
te cache dans ma joie comme une lettre en plein soleil)*
Anh vẫn phục
người Tây
phương. Họ rất kính trọng những kỷ niệm riêng tư của nhau.
Hình như chỉ có một lần độc
nhất, anh hôn em, từ phía sau, bên dưới mớ tóc, trong dáng đi vội vàng
của em,
sau khi vừa đi đâu về. Anh vô tình đụng tới tâm hồn, thể xác em, khơi
dậy ở em,
nữ tính, và anh thấy toàn thân em run rẩy. Và anh tự nhủ, sẽ chẳng bao
giờ,
chẳng bao giờ... nữa.
Rồi một lần trong những ngày
Mậu Thân cay nghiệt. Bữa đó khuya, hai đứa ngồi nơi phòng khách. Trong
khi nói
chuyện, như vô tình, hoặc làm như vô tình, tự nhiên em nói: Anh được
tất cả
rồi, còn muốn gì nữa? Thoạt đầu, anh ngạc nhiên, rõ ràng là anh đâu
muốn gì...
anh như ú ớ biện minh với chính mình. Rồi anh hiểu, và anh vô cùng cảm
động.
Anh biết, em muốn nói, em thương anh, vậy là đủ rồi. Như thể em muốn
nói một
điều thật là giản đơn, cho nên cũng thật khó hiểu: em trở thành đàn bà,
ngay
phút đầu tiên chúng ta nhìn thấy nhau.
Lần đầu tiên anh cầm tay em,
là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ
Nhập Ngũ
Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay
em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh
như nghe
em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?
Bao nhiêu năm, anh vẫn thường
tự hỏi, nếu không có những ngày tháng cay nghiệt đó, anh có thương em
nhiều đến
như vậy không.
Anh viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với
cuộc
đời của chúng ta.
J'écris depuis que tu me
lis.
Les mots sont en retard
sur
nos vies. *
Không phải người ta viết để
trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về
với
tình yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu.**
Cái phần
thiếu vắng, có thể
là tất cả những gì anh đang tự hỏi.
NQT
*Christian
Bobin:
L’inespérée.
** Christian Bobin: La part
manquante.
Nguyễn Quốc Trụ
(1)
Lời
nhạc, theo
Trúc Chi.
Phạm
Chi Lan cũng rất mê bài viết trên, và
lấy một câu trong bài,
Không
phải người ta viết để
trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với
tình yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu
làm đề từ cho một số VHNT.
Cái tít bài, là của Joseph Huỳnh Văn. NQT
Note:
Đọc cái mẩu tản văn trên, thì
cũng nên đọc Tiền Kiếp Của Gấu, thì mới gật gù mà
lẩm lẩm, quả là số phần thật,
cái sự may mắn được nhìn thấy nhau một lần ở trong cõi đời này!
Đây
là câu chuyện
tiền kiếp của Gấu, mê một em nhà giầu, đài gương chẳng thèm soi đến dấu
bèo,
bèn bịnh đến đi tầu suốt, trước khi đi, chỉ xin được hửi tay người đẹp,
đến mãi
mãi kiếp sau sau, đúng vào khi xẩy ra cuộc chiến Việt Nam, trước khi
lừng lững
khốc liệt đi vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, thì được toại nguyện
Kỷ
niệm, kỷ niệm
*
Trở
lại Tipasa
Albert Camus
Một bài viết ngắn, gọn, nhưng
đâu có dễ đọc, nếu không biết... sơ sơ về
Camus?
Đây là
một trong những bài viết
tuyệt vời của Camus. Trong bài viết, Camus cho rằng, chính là do chiến
đấu quá
lâu cho công lý [chân lý nước Mít là một] khiến VC biến thành.. bọ,
thành ruồi!
For there is
merely bad luck in not being loved;
there is misfortune in not loving. All of us, today, are dying of this
misfortune. For violence and hatred dry up the heart itself; the long
fight for
justice exhausts the love that nevertheless gave birth to it. In the
clamor in
which we live, love is impossible and justice does not suffice. This is
why Europe hates daylight and is only
able to set injustice
up against injustice.
Bởi vì có cái xấu số trong chuyện không được yêu, có cái bất hạnh trong
không yêu. Tất cả chúng ta, ngày này, đều chết vì bất hạnh. Bởi vì bạo
lực và thù hận làm trái tim tự nó khô cằn, càng chiến đấu cho công
lý lâu chừng nào thì càng làm cạn kiệt tình yêu chừng đó, và đừng mong
chi chuyện sinh sôi ra lại. Trong cái âm thanh và cuồng nộ mà chúng ta
đang sống ở trong nó, tình yêu thì bất khả, và công lý thì không đủ.
Chính vì thế mà Âu Châu ghét ánh sáng ban ngày, và chỉ có thể lấy
bất công chống lại bất công.
Le retour de Camus
Alors
que s’approche le
cinquantième anniversaire de la mort d’Albert Camus, en janvier 1960,
deux
livres américains rendent hommage à l’écrivain et moraliste français.
Le
premier, par David Caroll, professeur à l’université de Californie, est
consacré à « Camus l’Algérien ». S’appuyant notamment sur son
autobiographie
inachevée, Le Premier Homme, publiée
en 1994, il rend compte du rôle du problème algérien dans l’élaboration
de la
philosophie morale de l’ancien Algérois. Camus, on le sait, refusa de
prendre
parti dans la guerre d’Algérie. Il avait défendu les droits des «
musulmans » à
la veille de la Seconde Guerre mondiale, mais quand le conflit éclata,
en 1954,
il fit valoir que l’on n’était pas obligé de choisir entre la justice
et le
massacre des innocents.
Le
second ouvrage, par David
Sherman, qui enseigne la philosophie à l’université du Montana, revient
en
profondeur sur les accusations d’inconsistance philosophique dont a été
victime
l’ancien résistant de la part du camp sartrien, dans les années 1950,
avant et
après le début de la guerre d’Algérie. Dans un compte rendu de ce livre
publié
dans les Notre Dame Philosophical Reviews, publication en ligne de
l’université
catholique de Notre Dame (Indiana), le philosophe sénégalais Souleymane
Bachir
Diagne approuve le travail de réhabilitation mené par Sherman.
Normalien,
Bachir Diagne,
actuellement professeur à l’université Columbia
de New York,
a été l’élève d’Althusser et de Derrida, et connaît bien les arcanes de
l’intelligentsia française. Tout en s’emmêlant un peu dans les dates,
il
rappelle la méchante querelle qui éclata en 1952 du fait de Francis
Jeanson, un
fidèle de Sartre. Jeanson publia dans la revue de ce dernier, Les Temps
modernes, un article critiquant L’Homme révolté, paru l’année
précédente.
L’article était intitulé « Albert Camus ou l’âme révoltée », titre
ironique
évoquant la « belle âme » selon Hegel, figure de l’homme, écrit Diagne,
«
incapable d’agir, étant prisonnier de sa posture éthique, pris entre
deux
options qu’il juge également répréhensibles ». Ignorant Jeanson, qu’il
ne
connaissait pas, Camus adressa sa réponse directement à Sartre («
Monsieur le
directeur »), affirmant n’avoir pas de leçon à recevoir de ceux qui «
n’ont
jamais placé que leur fauteuil dans le sens de l’histoire ». Allusion
cinglante
à l’absence d’engagement de Sartre dans la Résistance, alors que Camus,
lui,
avait risqué sa vie, en animant le mouvement Combat. Sartre répondit
avec
brutalité, l’accusant de surcroît d’incompétence philosophique. La
rupture
entre les deux hommes était consommée.
En jeu,
le point de vue
développé par Camus dans L’Homme révolté, selon lequel ni le
capitalisme ni le
communisme ne méritaient d’être soutenus. Avant cela, Camus s’était
attiré une
critique du même ordre de la part de Roland Barthes, après la parution
de La
Peste, fin 1947. Barthes lui reprochait de refuser un véritable «
engagement »
et de préférer la morale à la politique.
Sherman
considère que nous assistons aujourd’hui à
une «
renaissance » de Camus, et Diagne souscrit à ce point de vue. «
L’effondrement
des certitudes idéologiques fait que Camus n’est plus persona non grata
et
mérite d’être redécouvert comme “un philosophe de notre temps”, selon
les mots
qui clôturent le livre de Sherman. » Depuis la chute du mur de Berlin,
l’heure
est en effet, écrit Sherman, à l’engagement au profit de valeurs «
éthico-politiques cosmopolites telles que le dialogue entre les
cultures et les
droits de l’homme », état d’esprit qui rencontre exactement l’attitude
de
Camus. Sherman
souligne aussi un autre aspect très actuel de la position de l’écrivain
français, son refus de l’esprit de système au profit d’une observation
attentive du monde réel. Autre forme d’opposition à l’auteur de L’Être et le Néant et de la Critique de la
raison dialectique.
David Sherman, Camus,
Wiley-Blackwell 2009 (non traduit en français).
www.booksmag.fr
Thanh
Tâm Tuyền, trên tờ Sáng Tạo, ngay sau khi Camus tử nạn xe hơi,
cũng đã
từng chỉ trích Camus, y chang, "Kẻ Chính Trực, đứng ở lưng chừng trời",
“belle âme” selon Hegel, figure de l'homme, écrit Diagne,« incapable
d'agir,
étant prisonnier de sa posture éthique, pris entre deux options qu'il
juge
également répréhensibles ». Và nhà thơ kết luận: Cái chết đã đóng chặt
Camus
vào dĩ vãng.
*
Tủ Sách Xìn Phóng (1)
Gấu này
cũng có vài kỷ niệm về
Trần Phong Giao. Và luôn cả về đấng bạn quí của Gấu, là người viết bài
này.
Những kỷ niệm liên quan tới cả hai, và tới một vài chi tiết trong bài
viết.
Bảo là vui thì cũng được và bảo
là buồn thì cũng vẫn được.
Cũng chẳng tính viết ra, bởi
vì, như người ta nói, người chết rồi, thì kể như xong, xấu tốt gì cũng
xong. Nhưng
lại nghĩ lại, đã chắc gì những điều sắp viết ra đây, làm xấu đi hình
ảnh một đấng
TPG.
Và một đấng bạn quí!
(1)
Xìn
Phóng, như DTL viết, là nick của TPG.
Re: Hi
Sunday, October 11, 2009
I am fine. Tks…
Vui thấy anh Trụ vẫn ra sức ... đọc và viết
K
Vẫn ra sức?
Độc thiệt!
Đọc và viết, thôi, sao?
Còn... trả đòn nữa chứ!
Tks, anyway!
NQT
*
Gấu Cái, đọc cái mail của bà ngoại O. [Bác gái nói đúng đó – bác chịu
khó viết
bài có nhập đề-thân bài-kết luận cho bà con dễ đọc với], và cái này,
của K,
phán, bây giờ, mi rảnh rồi, và coi tình hình sức khoẻ của mi, ta nghĩ,
mi dư
sức, và dư thì giờ, viết, ít lắm là ba cuốn "tửu thiết".
Gấu cũng có ý đó. Mỗi cuốn chừng 100 -150 trang.
Một thứ truyện vừa.
Cuốn thứ nhất, viết về quãng đời hạnh phúc ở địa ngục Đỗ Hòa, một nông
trường
cải tạo tại Nhà Bè, thuộc Bộ Thương Binh Xã Hội của VC.
Cuốn thứ nhì, o bế, sửa chữa, hoàn tất tác phẩm Gấu Nhà Văn.
Hãy thế!
Cuốn
trên, cũng thật ly kỳ, với
riêng Gấu. Mới ra ngoài này, vừa đi làm một anh bán bảo hiểm nhân thọ,
là Gấu tậu
nó rồi, bản bìa cứng. Thế rồi dọn nhà, bỏ luôn. Lần mua sau, là bản
trên, mới
thấy nó, trong lúc “lại” dọn nhà!
Đọc lại, thấy bùi ngùi, tệ!
Nhân tiện, post và dịch bài về
ông M.S. Swaminathan: Bản đồ đói trùng với bản đồ ý thức hệ dởm
Do
đến
trại tị nạn sau “tử
điểm”, tức là sau thời hạn được “tự động” coi là tị nạn chính trị,
những người
như tôi phải trải qua một cuộc thanh lọc, qua đó nhà chức trách nước
tạm dung
sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính trị, hay chỉ là di dân kinh
tế.
Thời gian chờ đợi thanh lọc
thường trên dưới một năm. Với chúng tôi, nó còn là thời gian “chạy
thuốc”: liên
lạc thân nhân ở nước ngoài, nếu có, hoặc bạn bè, cơ quan, đơn vị cũ… để
xin
tiếp tế và lo giấy tờ xác nhận, hoặc làm hồ sơ bảo lãnh.
Nhân đọc một số báo (hình như
của lực lượng kháng chiến Hoàng Cơ Minh) ở trong trại, thấy tên nhà văn
Trùng
Dương, tôi viết thư tới bà, qua địa chỉ toà soạn.
“Thư của bạn tới tôi sau khi
đã đi gần hết nửa vòng trái đất,” bà viết thư trả lời, từ một địa chỉ
Hồng
Kông, do đang được học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa. Bà than
giùm, “Bạn
qua trễ quá!”
Kèm, là thư của Nguyễn Ngọc
Ngạn (khi đó là chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại), gửi cho Trùng
Dương, chứ
không phải cho tôi, “Bạn nhờ tôi can thiệp cho một ông bạn nào đó,
nhưng lại
quên không cho địa chỉ…”.
Tôi liên lạc. Anh trả lời,
gửi tặng sách (cuốn Ý Trời, nguyên tác tiếng Anh, anh là tác giả, The
Will of
Heaven, chắc là muốn dặn dò khéo: hãy cố lo học tiếng Anh!).
Kèm giấy xác nhận. Là hội
viên Văn Bút Việt Nam
từ trước 1975.
Sau này gặp, anh cho biết, đã
phải nhờ một tờ báo địa phương lo in
giùm, chỉ bốn giấy chứng nhận, với tiêu đề Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại
thật
tuyệt. Bốn tờ xác nhận, cho bốn người, lúc đó đang ở trại tị nạn vùng
Đông Nam
Á. Ở Thái
Lan, có ký giả Hồ Ông và tôi.
Có thể, việc xác nhận là “bổn
phận” của anh, với tư cách đương kim chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại, nhưng
cứ nghĩ đến cảnh anh loay hoay nhờ cậy người này người nọ “vẽ” giùm cho
một
“tác phẩm” đẹp tuyệt vời như trên, thật là đáng quí.
Thật sự, nếu gặp một người
khác, không phải anh, có thể mọi chuyện không đơn giản như vậy.
Chả là, trước 1975, do viết
ba thứ phê bình điểm sách, khi tuổi còn trẻ, ngựa non háu đá, như các
cụ
nói, Gấu tui gây không ít ân oán giang
hồ. Cứ nghĩ, nếu gặp một ông, hay một bà, đã từng bị Gấu tui phạng,
chưa chắc
người đó đã xử sự như Nguyễn Ngọc Ngạn. Hơn nữa, tôi còn nhớ, đúng thời
gian
đó, một số nhà văn hải ngoại đang vận động ký tên danh sách yêu cầu nhà
nước
Việt Nam thả nhà văn Dương Thu Hương [thời gian 1990 -1992, hình như
vậy]. Trên
tờ Làng Văn, có bài viết về trường hợp này, của Nguyễn Ngọc Ngạn. Anh
cho rằng,
cái việc khóc người hàng xóm, trong khi bà con thân nhân của mình đang
bị kẹt ở
trại tị nạn, và có nhiều nguy cơ bị trả về cho ông nhà nước xi-xi, là
một việc
làm cần xét lại.
Trong số những tài liệu dùng
vào việc thanh lọc, nhằm chứng minh tư cách tị nạn chính trị của Gấu
tui, có
copy bài viết của Nguyễn Ngọc Ngạn
Sách Quí
Cái vụ này, bây giờ nhớ lại, thấy ra là cũng rất ly kỳ, và quả là có 'ý
trời' ở trong đó!
Gấu này cứ thử tưởng tượng, giả như đúng lúc đó, một đấng bạn quí của
Gấu mà ngồi ở chỗ NNN, thì sao, nhỉ?
*
Khi TD gửi thư cho NNN, nhờ
can thiệp cho Gấu, NNN không hề biết Gấu này là ai, qua cái thư ông
viết trả lời
TD, đính kèm lá thư thứ nhất Gấu nhận được của bà, từ một địa chỉ ở
Hongkong. Lá thư gửi tới toà soạn một tờ báo của lực lượng HCM, Gấu
không còn nhớ
tên, khi đó đầy rẫy ở trong trại, cùng với tờ Lửa Việt, của nhóm BBS ở
Canada,
rồi tờ Nắng Mới cũng ở Canada, rồi tờ Làng Văn cũng ở Canada. Những chi
tiết này,
sau Gấu mới biết, khi đã được đi tái định cư ở Canada.
Tờ Làng Văn thì hiếm hoi hơn,
so với mấy tờ kia.
Khi gửi báo tới trại như thế,
thường là tòa báo bỏ đi những trang quảng cáo. Giá mà để những trang
đó, thì Gấu
đã biết địa chỉ của ‘cô bạn’, và thể nào cũng gửi thư cầu cứu, cầu viện
rồi.
Sau gặp, cô cho biết, có đọc
cái truyện ngắn của Gấu trên tờ Làng Văn, viết lúc ở Trại, nhưng cô lại
nghĩ, gửi
từ Việt Nam!
Victor Serge, Mexico 1944
& Ông con phác họa ông bố, 1936
Note:
Gấu được ngài
Nguyễn Văn Lục gọi là một trong những đứa con hoang của... Sartre!
Triết gia
Đào Trung Đạo lắc đầu, không được, nó là thằng thợ máy Bưu Điện, đâu
phải dân
khoa bảng.
TTT thì gọi cả lũ Bắc Kít di cư, trong có ông, tất nhiên, là
những
đứa con tư sinh [con hoang] của một miền đất.
Thua xa
Victor Serge.
Ông được coi là đứa con hoang, mồ côi, đúng hơn, của lịch sử.
Không có xứ sở nào nhận ông
là đứa con của nó!
Trên NYRB số mới nhất, Oct
22, 2009, có bài điểm cuốn sách của ông, mới được dịch từ tiếng Tây, Những năm
tháng không tha thứ, nhà xb NYRB.
Octavio Paz,
trong Hành Trình, kể, Victor Serge khuyên ông nên đọc tờ Partisan
Review.
Gấu cũng nghe theo lời khuyên này, đọc, và khám phá ra cả một lô những
tác giả
cần đọc, toàn những ông bỏ chạy "VC quốc tế" cả, thí dụ, Manea,
Milosz.
Thêm ông Amos Oz, nhà văn Do Thái.
Gặp Oz, đọc ra Kafka.
Đọc những ông bỏ chạy "VC quốc tế", ngộ ra thân phận Gấu, hiểu ra,
một phần nào, tại sao Gấu không bắt chước những ông như Lữ Phương, Đào
Hiếu,
chọn Bác Hồ làm minh chủ, chọn Mặt Trận làm nơi nướng bầu nhiệt huyết,
đại khái
vậy.
Nhưng đọc Trường hợp đồng chí Tulayev, mới vỡ
ra, đây là
đứa anh, hoặc em, song sinh của Đêm giữa ban ngày của Koestler.
Lạc Đường
"After
all, there is
such a thing as truth"
[Nói cho cùng, có cái thứ đó, một cái gì từa tựa như là sự thực]
Victor Serge: Trường hợp Đồng chí
Tulayev
Susan Sontag trích dẫn làm đề từ cho bài viết về Victor
Serge: Không bị vùi giập [Unextinguished]:
Làm sao giải thích
sự chìm vào tối tăm quên lãng của một trong những vị anh hùng bảnh
nhất, cả về
đạo hạnh lẫn văn chương của thế kỷ 20: Victor Serge? Làm thế nào mà hiểu được cái sự lơ là không
được biết
đến của cuốn Trường hợp Đồng chí
Tulayev, một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, đã
từng được lại khám phá ra, rồi lại chìm vào quên lãng, ngay từ khi vừa
được
xuất bản, một năm sau khi ông mất, 1947?
Phải chăng, đó là do không có xứ sở nào nhận [claim] ông ?
*
Gấu này
cứ trở đi
trở lại với kỷ niệm, cái lần vô một thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm cuốn
Ngôn
ngữ và Câm lặng của Steiner lên, và nhìn ra cái trang Tin Văn sau
này.
Nhân ngày 30 Tháng Tư năm nay, 2008, Gấu tự hỏi chính mình, "huyễn hoặc
nào đưa đến huyền thoại Tin Văn", mô phỏng bạn hiền DT.
Và, làm sao "giải hoặc"?
Chỉ đến những ngày cuối đời, như ngày này, Gấu mới hiểu ra ngọn ngành.
Huyễn hoặc khủng khiếp mà cuốn sách gây ra ở nơi Gấu, chính là hình ảnh
nhà văn
Tam Ích, tà tà xếp những cuốn sách của ông thành một chồng, rồi tà tà
leo lên,
tròng cái thòng lọng vô cổ, rồi bye bye cuộc đời, sau khi đưa chân đá
đổ chồng
sách.
Trong cái chấn động mà những trang sách, những dòng chữ của Steiner gây
nên ở
nơi Gấu, có hình ảnh của Tam Ích, như trên!
Cùng với hình ảnh đó, là lời than của ông: Tuổi trẻ của tôi đúng là
thật tuyệt
vời, nếu tôi không vớ phải những cuốn sách viết về Lò Thiêu.
Nếu như thế, Tam Ích đi theo Cộng Sản, là cũng giống như Koestler, khi
gia nhập
Đảng Cộng Sản Đức: Hitler ante portas? (1)
(1) Mấy chục binh đoàn VC đang chờ ở cửa ngõ Sài Gòn!
Marx
lật ngược
triết học Hegel, ra chủ nghĩa Marx.
Nếu như thế, Gấu lật ngược kinh nghiệm Tam Ích, ra trang Tin Văn, mà ở
dưới nền
của nó, là 'huyễn hoặc': Giả như dân Mít chúng ta, nhất là đám Yankee
mũi tẹt
biết đến Lò Thiêu, liệu có để xẩy ra Lò Cải Tạo.
Nhật ký
Tin Văn
Những
năm tháng
không tha thứ,
Trường hợp đồng chí Tulayev, Hồi ký của một nhà Cách Mạng… những
tác phẩm của
Serge, là cũng nằm trong dòng Lạc
Đường
của đồng chí VC nằm vùng Đào Hiếu của
chúng ta, nhưng bảnh hơn nhiều, bởi vì ông không còn một chút ảo tưởng
về những
năm tháng quỷ tha ma bắt đó.
Trơ
cu lơ một thân một mình, “y
chang” Đào Hiếu [theo cái nghĩa bạn bè của họ Đào đều đã biến thành
ruồi],
Victor Serge (1890- 1947), đứa con mồ côi của lịch sử, kẻ may mắn sống
sót vì bám
kịp cái quan tài Cách Mạng Bôn Sê Vích.
Viên
Linh & NQT
Tao
[VL] đã phải nhờ thằng Nguyễn
Thuỵ Long
đi lùng khắp mấy tiệm bán sách báo cũ mới có được mấy số này đấy!
Ngô
Vương Toại & Gấu
& Đặng Phú Phong & Dương văn Hùng
@ DPP's Tiểu Sài Gòn
|
|