Notes
1
|
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Trong
số những đệ tử của
Faulkner, tệ nhất, [không có, để lận lưng, trên chuyến tầu suốt,
một cuốn
tiểu thuyết (1)], hẳn là Gấu, và, trong số những đệ tử làm dạng danh
Thầy,
hẳn có tay Llosa.
Gấu đã từng kể, trong những
ngày Mậu Thân, mỗi khi bí, mỗi khi bị những trái hoả tiễn VC làm "vãi
linh hồn", là lôi thầy ra, để chôm, một câu văn, một ý tưởng, làm mồi
nhử
những con chữ, từ xó xỉnh đâu đâu, mò về…
Llosa cũng có những
kỷ niệm y chang những ngày đầu đọc Faulkner.
(1) Một độc giả, và cũng là văn
hữu, đọc Gấu, phán, tất cả những truyện ngắn của Gấu, trên cái toàn thể
của nó,
có thể coi như là một truyện dài. Ý này, một nhà văn Miền Nam,
đã tử trận,
Doãn Dân, cũng đã nói ra, với một tay bạn thân của Gấu. Anh bạn cho Doãn Dân mượn đọc, cuốn Những
Ngày Ở Sài Gòn. Đọc xong, anh gật gù ra đòn:
1. Thời
gian viết, dàn trải, kéo dài cả một thời mới lớn. Trên cái nền đó, dư
sức nối kết thành
một cuốn tiểu thuyết.
Thưở con nít, ở Hà Nội. Rồi di cư, rồi lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lúc nào
cũng hướng về Hà Nội, và rồi gặp lại nó, trong BHD, rồi bị thằng bố Bắc
Kít của BHD cấm cửa, rồi hai đứa rủ nhau vô Chợ Lớn rung răng rung rẻ,
rồi ông bố bắt tại trận....
2. Tay “NQT” này, là một gã quá
nhát, và rất sợ “hạnh phúc”, đến nỗi, giả như có được, thì cũng nghĩ
phận mình
“hèn mọn, không xứng đáng
với nó”!
Và anh ta dẫn câu của BHD:
Ta
cấm mi không bao giờ được nói, mi không xứng đáng xách dép suốt đời cho
ta!
-
Nadine
Sautel. La Fête au Bouc fait penser à la fois
à
une fugue à trois voix, à un film de Costa Gavras mâtiné de David
Lynch, et aux
romans de Faulkner, dont Mallraux disait qu'il abordait le thème de la
condition humaine comme « l'intrusion de la tragédie grecque dans le
roman
policier " ...
- Mario Vargas Llosa. J'aime
beaucoup votre idée de roman faulknérien. Faulkner est le premier écrivain
que
j'ai lu avec un crayon et un bout de papier à la main, essayant de
déchiffrer
ses structures temporelles, la façon dont il organisait les points de
vue.
Tragédie grecque? Roman policier? Certainement ! Les faits dépassaient
en
horreur l'imaginable, et il fallait les débusquer. Ça peut choquer
qu'on fasse
de la douleur ou de l'atrocité une matière pour la création. Mais c'est
la
condition de l'écrivain, de convertir ce qu'il lit, ce qu'il vit, en
œuvre
d'art. Et la dictature, Mallraux l'a bien montré, est un thème
particulièrement
riche, parce que c'est une expérience-limite qui oblige à affronter la
peur.
C'est l'épreuve dans laquelle on peut observer ce qu'il y a de meilleur
et ce
qu'il y a de pire dans l'être humain. Et la dictature de Trujillo, quand
j'étais jeune, était
considérée comme la forme emblématique de la dictature en Amérique
latine. Elle
en avait poussé à l'extême les caractéristiques: la cruauté, la
corrruption,
mais aussi la théâtralité. Trujillo
était insurpassable dans le grotesque: nommer colonel son fils Ramfis à
neuf
ans, puis général à douze ans, dans une cérémonie publique à laquelle
assistaient
tous les ambassadeurs ... Il dessinait luimême ses uniformes
extraodinaires, et
la forme de sa moustache hitlérienne, aidé par un top model newyorkais
qu'il
avait adopté. C'était à la fois son chef de protocole et son ministre
des
plaisirs. Je l'appelle Manuel Alfonso. J'ai gardé ces images. A
l'époque
j'étais étudiant en lettres à l'université San Marrcos, à Lima.
*
Llosa trả lời tờ Le Magazine Littéraire
Note: Bài phỏng vấn
này thật
tuyệt, và thật có ích cho đám nhà văn VC, Yankee mũi tẹt!
Tin Văn sẽ cố gắng dịch để gửi cho những bạn văn VC, vốn chỉ khoái
viết, đọc và dịch
thứ văn chương vô ích, vô hại, hay quá đát!
Bạn
biết đấy, với
tôi, viết là
một “lý do đủ”, để sống. Nó cứu tôi khỏi tình trạng tuyệt vọng tuyệt
đối, và sự
tuyệt vọng tuyệt đối gây bại liệt. Nhà văn không được xấu hổ về cái
chuyện “đâm
xầm vào chính trị” [“từ” của một đấng bạn quí của Gấu]. Nhà văn phải có
trách
nhiệm, do quyền năng của những chữ của người đó, lên những độc giả của
mình. Tôi
luôn trung thành với Sartre, cho tới khi ông ta phán một câu thật khó
nghe với
tờ Le
Monde, vào
năm 1964 [“Đứng trước
một đứa trẻ đang chết, cuốn Buồn Nôn chẳng
là cái đéo gì!]. (1) Vào cái lúc mà người ta thay thế
lý trí bằng những hành động của niềm tin, [đây là quan điểm của tôi về
ý thức hệ],
nhà văn là kẻ chứng tỏ cái thực, một cách thuần lý. Điều này thật quan
trọng, là
vì, một khi mà con người xử sự một cách phi lý, thì đó là lúc bạo lực
xuất hiện.
Điều quan trọng với nhà văn là phải một lòng một dạ, chân thực, với
chính mình,
và sống với tất cả sự toàn vẹn khả hữu, điều mà anh ta viết. Tôi, tôi
cần phải
thò cái chân của mình xuống đường phố, ngọ ngoạy trong cái gì đang xẩy
ra, đang
thành hình.
(1) Cái tật ưa xổ nho này, Gấu học ở CM, một cô bạn. Sorry abt that. NQT
carnets de lecture
par Enrique Vila-Matas
INTERVIEWS INVENTÉES
propos
imaginaires de Marion Brando, Noureïev, Anthony Burgess ...
Comme disait
Barthes, la fortune que connaissent les interviews de nos jours est
surtout due
à des raisons économiques. Quand il s'agit, par exemple, d'un écrivain,
l'interview est un article rémunéré: «Vous n'avez pas le temps de nous
rédiger
un texte? Accordez- nous donc une interview! » Dans l'interview,
l'interviewé
travaille gratuitement et l'intervieweur en tire les bénéfices
économiques. Il
est vrai que les interviewés sont des saints.
Cela dit, je dois dire que
j'étais dans ma jeunesse d'une extrême cruauté car, pour gagner ma vie,
je
faisais des interrviews, j'importunais de pauvres gens qui, répondant à
mes
questions, me donnaient à manger. Certains de mes interrviewés furent
doublement mes victimes. Je vais m'expliquer. Non seulement je les
importunais
et leur faisais perdre leur temps avec mes interviews, mais en plus,
j'inventais cerrtaines d'entre elles. Tout commença quand, peu après
avoir
déniché à la rédaction du magazine
Fotogramas le premier travail de ma vie, on
me chargea de traduire à toute vitesse de l'anglais une interview
exclusive de
Marlon Brando par Julie Gilmore. Comme je ne comprenais pas un mot
d'anglais et
craignais qu'on ne me renvoie, j'inventai tout de A à Z- je faisais
dire à
l'acteur de solennelles sottises -, et elle fut publiée telle quelle,
sans que
personne se rende compte qu'elle était fausse. Vu le succès de la
friponnerie,
je ne tarrdai pas à inventer une autre interview. Le danseur Noureïev
passa par
Barcelone et je pris un rendez-vous pour l'interviewer dans son hôtel,
un jeudi
matin. Le mercredi soir, je tombai par hazard sur lui dans une
discothèque et
un absurde incident au compptoir de la boîte fit que nous nous
disputâmes.
Naturelleement,le lendemain matin, je n'osai pas me rendre à l'hôtel
avec mon
œil au beurre noir et lui dire que j'étais l'intervieweur qu'il
attendait, si
bien que je décidai - après tout, j'étais déjà expert en la matière -
d'inventer l'interrview. Je fis dire à Noureïev des horreurs
historiques sur le
ballet et les corridas.
Les jours suivants, je fus
entraîné dans un tourbillon d'interviews inventées. On me demanda d'en
faire
une avec Anthony Burgess et je me
rendis au rendez-vous avec le texte déjà écrit: un puzzle d'interviews
précédentes, accordées par Burgess lui-même. Cinq minutes avant que je
ne
commence à formuler mes questions, Burgess, voyant que je ne notais
rien, me
demanda, logiquement inquiet, pourquoi je l'écoutais sans magnétophone,
bras
croisés. Je lui expliquai, sans broncher, que, comme la rédaction
voulait que
je lui remette au plus vite mon travail, j'avais décidé de l'écrire à
l'avance.
Je craignais le pire et ce fut le contraire qui se passa: l'auteur
d'Orange
mécanique sourit, m'offrit un whisky et me dit qu'à Ceylan, lorsqu'il
était
jeune et jourrnaliste, il avait, lui aussi, inventé beaucoup
d'interviews.
Ce fut un tel encouragement
que, quinze jours plus tard, interviewant dans ce même hôtel Patricia
Highsmith, j'étais parfaitement serein, même si, comme à son habitude,
ses
réponses étaient d'une sobriété étonnante, presque toutes
monosyllabiques.
Personne, sauf son amie Noëlle Loriot, n'avait réussi à faire une
bonne, très
bonne interview avec elle: une interview pour un magazine français au
cours de
laquelle, pour la première et dernière fois, elle révéla des choses
intimes,
une grande interview. Après avoir interrogé patiemment Highsmith et
achoppé sur
sa sobriété, de retour à la maison, je recopiai intégralement
l'interview de
Noëlle Loriot et décidai de ne plus y revenir: elle fut publiée et ce
fut mon
premier grand succès dans le monde du journalisme. Je fus promu aux
articles
d'humeur et laissai dans mon sillage l'époque des interviews inventées,
après
avoir eu toutefois le temps d'en faire une - terrible - avec Cornelius
Castoriadis. Et une autre avec Tony Curtis. Les effets négatifs?
Aujourd'hui,
sachant qu'il ne serait guère éthique que je proteste, des jeunes gens
de
partout inventent impunément des interviews avec moi qui rivalisent en
ridicule
ou en excentricité. Ce qui veut dire, comme s'il s'agissait d'une
fatalité bien
mériitée, que, ces dernières années, je dis, partout en ce bas monde,
toutes
sortes de sottises .•
Traduit de l'espagnol par André Gabastou
Bài viết tuyệt vời,
làm Gấu nhớ tới, lần ngồi Quán Chùa với ông anh, và
ông rất khoái ba cái vụ phỏng vấn tưởng tượng, và, sau này, Gấu
cũng đã tự phỏng vấn Gấu, và mở hẳn một chương, [nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một chương] trên Tin Văn, Phỏng
vấn dởm, nhưng dởm quá, đi
chưa được
một đường, thì đã tắc tị!
Vì sao
bác viết
tiếng Việt
kiểu Tây vậy?
*
Hỗn,
hách, phách lối, là Nabokov,
qua
Bạo Miệng. Nhưng
cũng thật xác đáng, là những nhận xét của ông.
Làm
Gấu nhớ đến… Gấu!
Chứng
cớ, chỉ nội câu phán nhỏ
nhẹ, NS là nhà văn dễ dãi và hạnh phúc, là đủ để ông nhà thơ kiêm thầy
giáo ‘anh
thay mực cho vừa mầu áo tím’ nhớ đến tận già!
Nhờ
vậy mà Gấu có
nick thật là tuyệt vời là "tên sa đích văn nghệ"!
Khi
ra hải ngoại, nhớ đến nick của mình, Gấu đã tự nhủ lòng, bye bye
cái nghề khốn nạn phê bình, điểm sách, chính vì thế mà một nhà văn ra
đi từ Miền Bắc, nhận xét, chú viết thật hiền, khác hẳn "mấy ông kia",
nhưng, cuối cùng, bị chúng chọc giận, chịu không thấu, bèn tái xuất
giang hồ!
Hà,
hà!
*
-
Gogol?
-
J'ai pris grand soin à ne
rien apprendre de lui. En tant que maître, c'est un écrivain dangereux
et
traître. A son niveau le plus bas, comme dans ses machins ukrainiens,
il est un
écrivain sans valeur; à son niveau le plus haut, il est incomparable et
inimitable.
[-Gogol?
Tôi
cẩn trọng chính tôi, đừng
bao giờ học, bất cứ cái chó gì từ thằng cha này. Như là một bậc
thầy, thì ông ta là một nhà văn
nguy hiểm và phản phúc. Ở cái mức tệ hại, ông ta là một anh Cu Sài
Ukranien vứt đi,
ở cái mức đỉnh cao, không ai so được với ông ta, và chẳng ai bắt chước
được ông.]
Nhắc
tới Gogol nhân mới đọc một bài viết trên TLS, thật tuyệt vời, về cuốn Những Linh Hồn Chết, bản dịch mới
nhất, có kèm theo minh họa của Chagall, trước khi ông này vĩnh viễn rời
bỏ nước Nga.
Bài điểm so sánh mối lương duyên lạ lùng giữa minh họa và tiểu thuyết:
Chagall minh họa Dead Souls như một món quà vĩnh biệt Nga xô, đi, tái
định cư nơi xứ trời Tây phương, và không bao giờ trở lại Nga xô nữa.
Gogol viết Dead Souls ở ngoài nước Nga, và khi trở về, không thể nào
tái định cư ở trên quê hương Nga xô của ông.
STANLEY MITCHELL
Nikolai Gogol
DEAD SOULS
Translated by
Donald Rayfield; illustrated by Marc Chagall 366pp.
Garnett Press. £29.99.
978095358 787 8
Chagall's
illustrations to Dead Souls were the artist's
first
commission after leaving Russia
for good and settling in France.
They represent the most important turning point in his life. They are
not only
illustrations to Gogol, they are a farewell to Russia - to the Jewish shtetl and to Chagall's
brief political
service to the Bolsheviks in the new Art Academy of his native Vitebsk.
The
etchings are often extraordinarily grotesque and belong to a turbulent
stream
of grotesque art in the early years of the Revolution. Bely, Bulgakov
and Babel were among the
writers of the
time who felt a
particular kinship with Gogol, and had Chagall remained in Russia
he might
well have become the artist of Meyerhold's scandalous production of
Gogol's Inspector
General in
1926. He had
already sketched figures for the play when Moscow's
Theatre of Revolutionary Satire visited Vitebsk.
So, too, with Gogol's other plays, The
Gambler and
The
Marriage;
and to
the same year belongs a watercolor, "In Honor of Gogol" (1919). The
Russian satirist was in his blood. There is also the coincidence that
Gogol
left Russia
for twelve years in order to write Dead
Souls.
This, too was a kind of farewell, for although Gogol
returned to his
homeland he was never able to settle there again. Shortly before his
death in Russia
in 1852,
he burned the drafts of the second part of his masterpiece; only
fragments have
survived.
This
is
the first edition of Dead Souls to include all
Chagall's
illustrations since their original appearance in Paris in 1948. However
important the
etchings, they have remained the Cinderella of Chagall's work. His
dealer
Ambroise Vollard, who had commissioned him to illustrate the Fables of La Fontaine and
his sketches
for the Bible (sending him to Palestine
for the purpose), kept them in a cellar for twenty years. They were
published
by Tériade nine years after Vollard's death and were awarded a grand
prix at
the Venice
graphics biennale immediately afterwards. They have been routinely
ignored by
curators and scholars ever since.
The
illustrations marked a
new direction for Chagall. With the one exception, an earlier
experiment in
autobiography, he was etching for the first time, searching exuberantly
for new
techniques that ranged from drypoint to aquatint. To quote from Marx in
a
different context: all that is solid melts into air. When Chichikov
visits the
landowner, Manilov, the two men are done in aquatint and look
relatively human.
When they part, their bodies become transparent, as if they are
themselves the
dead souls. Magnitudes vary crazily and the humor is magnificent. A
monstrous
Sobakevich prepares to settle into a diminutive armchair. The clerks in
the
court office are reduced to tiny heads, wielding matchstick pens at
barely
visible desks, or faces floating in a void. A giant condescending
Chichikov
appears before the Lilliputian guests at a ball. A similarly huge
Nozdryov unmasks
Chichikov on the same occasion. The physiognomy of the characters
changes from
one illustration to another. The effect is a diabolical carnival of
masks.
Gogol does nothing like this, and his metaphorical flights are by
comparison
realistic. For this reason, a commentary on the relationship of the
images to
the text would have been welcome. Gogol himself refused any request to
illustrate
his work, commenting that any illustration could only "sweeten" the
novel.
In his short introduction, Donald Rayfield claims that Gogol found in
Chagall
his true illustrator, calling Chagall's imagination "surreal". Yet in
his comments on the novel, Rayfield sides with the nineteenth-century
"realist"
interpretations. Gogol's characters, he suggests, are alive and well in
today's Russia.
All the more reason, then, to shed some light on the notable
nineteenth-century
illustrators of Dead Souls, Alexander
Agin and Pyotr Boklevsky. Boklevsky's portraits of Sobakevich and the
miser,
Plyushkin, are marvellous satires in the spirit of the writer Mikhail
Saltykov-Shchedrin.
Chagall's Plyushkin is very similar to Boklevsky's. Rayfield
accompanies the
etchings with a new translation which has a twofold aim: to correct the
mistakes
of previous translators and to make the novel sound like a theatrical
text in
which even the longest sentences (and there are many) can be read out
loud
without loss of breath. Certainly, he succeeds with his first aim, and
his
translation is fresher and more energetic than the best previous
version, by
David Magarshack (1961). In other respects it is not a marked
improvement. Magarshack's
rendering of Gogol's famous troika peroration, for instance, is no less
effective than Rayfield's.
Rayfield
makes much in his
introductory comments of the importance of the salvaged Part Two,
arguing that
his version is mort inclusive than any other. In fact, Christophel
English's
translation (1987) includes both the stories that Rayfield misses in
earlier
translations. More importantly, Rayfield suggest that Part Two
prefigures the
novels of Goncharov, Turgenev, Dostoevsky and Tolstoy. Since Part Two
sets out
on the road of redemption, where we behold a freshly burnished
Chichikov,
accompanied by figures who on the whole are less imaginative than those
in Part
One, we are unlikely to find the future Russian literature germinating
here.
Nor can I imagine Chagall wanting to illustrate Part Two. Nikolai
Dobrolyubov
spotted the only convincing connection between Part Two and later
Russian
fiction in his essay What is Oblomovvism?
(1859-60), where he linked the landowners Tentetnikov and Platonov with
Gonchaarov's hero, Oblomov. But in Part One, Gogol had already
characterized an
idle dreamer in Manilov who is much more perniciously comic than this
pair. The
famous remark often attributed to Dostoevsky that "We all emerged from
Gogol's overcoat" (a reference to Gogol's story of 1842) remains more
accurate.
TLS
JULY 10 2009
Cùng
số báo, có bài điểm
Những đứa
trẻ của Dr. Zhivago: Giới trí thức
sau cùng của Nga xô, trong bài điểm, có
một nhận xét thật tuyệt
vời về
đám trí thức "sau cùng" này: "Nếu hệ thống Xô Viết của chúng tớ không
sụp
đổ một cách hòa bường, thì một Thế Chiến Thứ Ba không thể nào tránh
được, và hãy thử tưởng ra những nỗi ghê rợn của nó."
Nhưng,
bởi vì Liên Xô sụp đổ mà mới có hai cuộc chiến của
me-xừ Bụi Cây, và Cuộc Đại Suy Thoái hiện nay! NQT
Vì sao
bác viết
tiếng Việt
kiểu Tây vậy?
Gấu
đọc Tô Hoài rất sớm, và
giấc
mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi
lần đói,
mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là giấc mơ sẽ có
ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được
nước Nam
Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà
thoả mãn
thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và
cái nước
Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ
chạy!
Và ở trong bao nhiêu
nước Nam Kỳ khác,
do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc
sách những ngày mới lớn mà có đó, có “Sa mạc Tartares” của Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A
Reading Diary,
Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông nói là đọc nó vào thời mới
lớn, cũng
như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam Kỳ, tại Sài Gòn, khi có
BHD.
*
Gấu mua cuốn A Reading Diary
Nhật Ký Đọc, cũng lâu rồi. Quăng vào một xó, rồi quên luôn, cho tới khi
dọn nhà, nhặt nó lên…
Buzzati notes that,
from the
very beginning of his writing career, people heard Kafka's echoes in
his work.
As a consequence, he said, he felt not an inferiority complex but "an
annoyance complex." And as a result, he lost any desire to read Kafka's
work
Buzzati and Kafka:
Perhaps it is not only impossible to achieve justice. Perhaps we have
even made
it impossible for a just man to persevere in seeking justice.
Buzzati cho biết, vào lúc khởi nghiệp, người ta nói, có mùi Kafka ở
trong những gì ông viết ra. Nghe vậy, ông cảm thấy, không phải mặc cảm
tự ti, mà là bực bội. Và sau cùng, ông mất cái thú đọc Kafka!
Buzzati và Kafka:
Có lẽ không phải chỉ là bất khả, cái chuyện đi tìm công lý.
Nhưng bất khả còn là vì: Chúng ta làm cho nó trở thành bất khả, để chỉ
cho có một thằng cha, cố đấm ăn sôi, cứ đâm sầm vào cái chuyện tìm công
lý!
"Không con, thì ai bi giờ hả mẹ?"
[Gửi NTT. NQT]
Gấu đọc Sa mạc Tác Ta [Tartar là một giống dân], bản tiếng Pháp, và
không hiểu làm sao, bị nó ám ảnh hoài, câu chuyện một anh sĩ quan, ra
trường, được phái tới một đồn biên xa lắc, phòng ngừa sự tấn công của
dân Tác Ta từ phía sa mạc phía trước. Chờ hoài chờ huỷ, tới khi già
khụ, ốm yếu, hom hem, sắp đi, thì nghe tin cuộc tấn công sắp sửa xẩy
ra....
Đúng cái air Kafka!
Trên tờ Bách Khoa ngày nào còn Sài Gòn có đăng truyện ngắn K. của
Buzatti. Đây là câu chuyện một anh chàng, sinh ra là bị lời nguyền,
đừng đi biển, đi biển là sẽ gặp con quái vật K, nó chỉ chờ gặp mày để
ăn thịt. Thế là anh chàng chẳng bao giờ dám đi biển, cho đến khi già
cằn, sắp đi, bèn tự bảo mình, giờ này mà còn sợ gì nữa.
Thế là bèn ra Vũng Tầu, thuê thuyền đi một tua, và quả là gặp con K
thật. Con quái vật cũng già khòm, sắp đi, nó thều thào bảo, tao có viên
ngọc ước quí, chờ gặp mày để trao, nó đây này...
Ui chao Gấu lại nhớ đến Big Minh, thều thào, tao chờ chúng mày để bàn
giao viên ngọc quí Miền Nam, và con K bèn biểu, tao lấy rồi, cám ơn
lòng tốt của mày!
Doãn Quốc Sĩ, có chuyện Sợ Lửa, tương tự. Đây là câu chuyện một anh
chàng sinh ra đời là bị thầy bói nguyền chớ có đến gần lửa. Thế rồi,
một ngày đẹp trời, thèm lửa quá, bèn đến gần nó, và ngộ ra một điều,
sao mà nó đẹp đến như thế.
Thế là về, và chết!
Gấu cũng thấy lửa rồi. Và đang sửa soạn về...
Sự thực, Gấu
không gặp lửa, mà
gặp… xác của Gấu, trôi lều bều trên dòng Mékong, lần tá túc chùa Long
Vân,
Parksé, chờ vuợt sông qua trại tị nạn Thái Lan. Gấu đã kể chuyện này
nhiều lần
rồi.
C'est à
Paris, à la fin de 1939 ou au début de
1940, alors que j'étais terrassé par une attaque de névralgie
intercostale, que
je sentis la première petite palpitation de Lolita. Autant qu'il m'en
souvienne, ce frisson avant-coureur fut déclenché, je ne sais trop
comment, par
la lecture d'un article de journal relatant qu'un savant avait réussi,
après des
mois d'efforts, à faire esquisser un dessin par un grand singe du
Jardin des
Plantes; ce fusain, le premier qui eût été exécuté par un animal,
représentait
les barreaux de la cage de la pauvre bête.
Nabokov: A PROPOS DE «
LOLITA
»
*
1989. Trong một bài viết ở
phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều
diễm,
thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng
nàng - la
palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu
báo, thuật
câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một
chú khỉ ở
một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương"
là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn
quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một
của
Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch
"Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với
những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư
vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên
nổi
chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê
hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm
thêm cay
đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống
lại,
chỉ một sợi nắng Sài-gòn: Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng
của thành
phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang
thang trên
những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài
Gòn,
bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây
máu mủ,
ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng
nymphette tinh
quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ
sau này,
đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó:
Miền Bắc,
Hà-nội.
Lần
Cuối Sài Gòn
Như vậy, BHD thoát ra từ cái
bóng của Lolita, và cả hai thoát ra từ bóng của một con khỉ ở nơi
chuồng thú, đằng
sau tất cả, là cái chuồng giam giữ tuổi thơ của cả hai [của Gấu và
BHD]: Miền Bắc.
Hà Nội.
Gấu đọc những dòng trên,
trong trại tị nạn, cùng lúc viết Lần Cuối Sài Gòn. Lần đầu tiên xuất
hiện trên
báo Làng Văn, Canada. Báo về tới trại, 'gây chấn động' trong đám người
tị
nạn. Bây
giờ, nhớ lại, vẫn còn cảm thấy bồi hồi xúc động. Nhưng phần hồn của
Gấu, để lại
Trại, phải là
Bụi.
CHÙA
SIKIEW Khu C
"Nhưng nếu không vì dung nhan
tàn tạ,
chắc gì Thầy đã nhận ra em?"
Sikiew nổi tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
|
|