Notes
I
1
|
Kinh nghiệm viết văn: Viết và lách
NHQ Blog VOA
N. O. -
Quel est votre conseil aux jeunes écrivains?
J. C. Oates. - Lire beaucoup et avec enthousiasme ; choisir un écrivain singulier et
lire toute son oeuvre ; écouter les autres parler ; être invisible si possible
; voyager, penser, rêver, regarder.
Lời khuyên của bà với những nhà văn trẻ?
Đọc thật nhiều, với đam mê, thích thú, lọc ra một tay, và đọc tất cả
tác phẩm của người đó; nghe người khác nói chuyện; trở nên vô hình,
càng vô hình chừng nào càng tốt chừng nó; du lịch, suy nghĩ, mơ mộng,
và nhìn.
*
Kiếm ra Thầy rồi đọc tất cả những tác phẩm của Thầy [Oates], kiếm ra
Thầy rồi dịch tác phẩm của Thầy [Alain khuyên đệ tử André
Maurois]...
Muốn trở thành nhà văn, là phải có Thầy.
Làm gì có chuyện, như NHQ phán:
Quá
trình làm thơ, viết văn,
từ văn sáng tác đến văn phê bình lý luận, là một quá trình lạng lách
liên tục.
Đừng tin nếu có ai nói họ chỉ phóng bút ào ào và không thấy gợn trong
đầu bất
cứ nỗi lo lắng nào về ảnh hưởng cả. Hãy nhìn xuống dưới chân họ đi: chỉ
có lối
mòn. Toàn là lối mòn. Những cú lách ngoạn mục nhất là những cú lách ra
khỏi lối
mòn. Ra khỏi vùng ảnh hưởng của cả những người đi trước lẫn những người
cùng
thời.
*
Kiếm ra Thầy. Học Thầy, rồi vượt
Thầy.
Làm gì có chuyện lạng lách.
Nhà
đại phê bình có bao giờ tập viết văn đâu, thành thử cứ phán nhảm, phán
ẩu, phán
như thánh như tướng!
Gấu đã
từng kể ra là, vào cái
hồi đầu tập viết, mỗi lần bí quá, là lôi Thầy Faulkner ra tụng, bất
thình lình
vớ được một câu, như tia chớp loé lên, thế là ’ơ ra kìa’ một tiếng, và…
viết!
Lạng lách cái con khỉ!
*
Trong
tự vựng của những nhà phê bình, từ "tiền thân"
(precursor) không thể thiếu được, nhưng nên tháo gỡ mọi trò luận chiến
hoặc
ganh đua. Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của
riêng người
đó. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá khứ, như
là nó sẽ
sửa đổi tương lai.
Borges: Kafka và những người
đi trước ông
Đừng có nóng. Tiền thân, lối
mòn, kệ cha nó!
Sự thể là, mỗi người viết sáng
tạo ra những tiền thân của riêng mình.
Khủng khiếp nhất, của cả bản văn của Borgres, là câu trên.
Nôm na nó như vầy:
Đệ tử khám phá ra Thầy.
Không phải: Thầy khám phá ra trò.
Chính vì thế mà ông anh nhà thơ
khuyên Gấu: Đọc. Đọc thật nhiều. Đọc bất cứ một tác giả.
Rồi sẽ có một ngày, mày khám phá ra ông Thầy của mày.
Thầy, nghĩa là gì?
Ông anh giải thích:
Trong thiên hạ, hằng hà sa số những nhà văn, làm sao đọc hết. Nhưng
dòng văn, thì không nhiều, độc thoại nội tâm, dòng ý thức, khẩu văn,
thoại văn...
Khi mày tìm ra ông thầy, thực ra là mày tìm ra cái dòng
văn hợp với tạng của mày.
Và nhẩy xuống đó, tập bơi, với những bước đầu của
ông Thầy, theo vết để lại của ông Thầy…
*
Gấu áp dụng đúng bài học trên, của TTT, để
viết về Ông Thầy TTT:
Trong một vài
trường hợp, chính học trò khám phá ra những tay thầy.
Phải chăng đó cũng là trường hợp của "bậc thầy" Thanh Tâm Tuyền?
Nên nhớ, bài viết của Borges, Gấu chỉ ra ngoài này mới được đọc!
Quái thế!
Rushdie
kể, cái ngày ông tìm
ra giọng nói của Saleem, ông biết, ông trở thành nhà văn, và còn biết
thêm, giọng
nói của Saleem sẽ chinh phục cả thế giới... là cũng ý trên, của
ông thầy
TTT!
Car
je
me
souviens du jour où jaillit de moi la voix de Saleem, de la joie et du
sentiment de libération que j'éprouvai alors et je suis fier que cette
voix
jeune ait pu aussitôt attirer - et attire encore - tant de jeunes
lecteurs. Je
me dis qu'en définitive, c'est cela qui compte.
Nguồn
Dọn
Kinh nghiệm viết văn: Viết và lách
NHQ Blog VOA
Mới thoát
khỏi ảnh hưởng của Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng lại đụng phải Tolstoi;
thoát khỏi ông Tolstoi, lại đụng phải ông Dostoievski; thoát khỏi ông
Dostoievski, lại đụng phải ông Kafka; thoát khỏi ông Kafka, lại đụng
phải ông Marquez; thoát
khỏi ông Marquez, (1)
lại đụng phải ông Borges.
(1) Tên của
ông này là Garcia Marquez, tên kép, gồm hai chữ. Như Văn Cao, Hồng
Nhung, Bích Khê... thí dụ.
Gọi Cao không, thì bố ai biết Cao nào! [Văn Cao & Nam Cao]
Mới thoát khỏi
ảnh hưởng của Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng lại đụng phải Tolstoi; thoát
khỏi ông
Tolstoi, lại đụng phải ông Dostoievski; thoát khỏi ông Dostoievski, lại
đụng
phải ông Kafka; thoát khỏi ông Kafka, lại đụng phải ông García
Márquez; thoát
khỏi ông García Márquez, lại đụng phải ông Borges.
NHQ Tiền Vệ
Như vậy là đã sửa lại tên Ga Bò [Gabo].
Vậy mà 'đết' cám ơn Gấu!
Đã sửa, sao không sửa
luôn trật
tự, phả hệ đúng hơn, hay đúng hơn nữa, sư phụ/đệ tử, giữa mấy ông này.
Thí dụ:
Thoát ông Kafka, gặp ông
Borges, thoát ông Borges gặp ông Gabo, thoát ông Gabo, gặp ông… Hồ Anh Thái [Rung chuông tận thế]!
*
C'est
votre
illusion
Sunday, October
25, 2009 6:51 AM
Ông Trụ ơi,
Càng ngày ông càng tự huyễn hoặc đến mức đáng ngại. Ông tự khen ông,
rồi ông
phàn nàn về bốn phương tám hướng. Một mình ông ngồi trong cái web của
ông, ông
biến thành cái rốn của ông. Ông tưởng người ta viết bài về chó là để
nói xéo
ông, nhưng ông đâu ngờ người ta đã viết bài về chó từ năm 2003 trên
talawas,
bây giờ người ta rút lại thành bài blog chơi vui thôi. Ông vào xem cho
biết: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=127&rb=06
Ông tưởng ai cũng để ý tới ông. Ông tưởng người này bắt chước ông,
người kia
vay nợ ông, người nọ gièm pha ông. Kỳ thực, ai cũng lo chuyện của họ,
có ai đọc
web của ông đâu, ngoại trừ bạn già này.
Thôi đi ông Trụ. Tôi đã nhắc ông rồi mà ông không chịu nghe lời. Già
rồi, cựa
quậy làm gì cho khổ thân, tổn trí.
Có buồn thì đọc sách, làm thơ, đánh cờ, uống rượu, chứ sao lại cứ vướng
vô
những chuyện thị phi?
C'est votre illusion. Vous jouez avec les ombres de la nuit, y compris votre propre
ombre.
Je vous ai dit ces choses. C'en est assez maintenant.
NH
Phúc đáp:
Tks.
Chắc là bị
huyễn thật.
Vậy mà cứ nghĩ là
nhà đại phê bình thù ghét Gấu!
Hóa ra không phải!
Sorry abt that.
NQT
*
V/v ảnh hưởng, tờ Văn Học
Pháp,
Le Magazine Littéraire, mở hẳn ra một mục về vụ này, và lấy câu, “Bởi
vì anh
ta, bởi vì tôi”, của Montaigne làm tiêu đề. Gấu hiểu sai câu này, nghĩ
là liên
hệ sư phụ, đệ tử, nhưng một độc giả mail cho biết, không hẳn như vậy.
Sau đó, đọc
Alberto Manguel, trong The City of Words, ông dành hẳn một bài viết, về
câu trên.
Steiner cũng dành nhiều bài viết,
và cả một cuốn sách về đề tài sư phụ/ đệ tử [Những bài học của Sư Phụ].
Ông nhận
ra, trong liên hệ đó, hàm trong nó, đam mê sex. Đúng là một đề tài
‘hot’. Bữa nào
rảnh, giới thiệu tiếp hầu quí vị. NQT
*
Càng ngày ông
càng tự huyễn hoặc đến mức đáng ngại. Ông tự khen ông, rồi ông phàn nàn
về bốn
phương tám hướng. Một mình ông ngồi trong cái web của ông, ông biến
thành cái
rốn của ông.
Bạn già chắc là lầm
đấy. Có thể giọng văn ‘anh chị’ của Gấu, những ngày sau này, khiến bạn
nghĩ như
vậy chăng?
Gấu chẳng hề coi
mình là cái chó gì cả. Đó là sự thực. Nhiều khi tự khen, phàn nàn gì gì
đó, chỉ
để làm giảm xì trét, cho cả Gấu, lẫn độc giả, như có lần một độc giả
nhận xét,
đọc Tin Văn có khi chỉ vài hàng mà bần thần cả tuần, cả tháng! Hay,
ngoài những
trang về BHD ra, còn thì đen thui!
V/v thị
phi. Chuyện này xẩy ra từ lâu rồi, từ năm 2002. Gấu đâu hề muốn dính
vô, phải đợi khi có được tí bonus về ‘quĩ thời gian’, mới nhắc tới, để
thanh thản
mà đi
Rốn hay không rốn,
thì cũng chỉ ‘trong một tháng, trong một năm’, là hết.
Sao mà khó với
nhau thế?
Không lẽ bị chúng
lôi cả đời tư ra để mà chửi, đặt vấn đề, "có mấy NQT, cho xin tí
sái...", mà cũng đành bỏ qua, đi luôn?
V/v Cọp và Chó. Gấu
nghĩ, một công đôi ba chuyện, chứ cũng không phải 'người ta rút lại thành bài
blog chơi vui thôi.'.
Thí dụ: Suốt mấy tuần nay cứ nghe lùng bùng bên
tai những
tiếng gâu gâu mãi....
Vả chăng, đâu chỉ chuyện thị
phi, mà còn chuyện văn chương. Nhà đại phê bình phán quá nhảm về nhiều
đề tài,
thí dụ "lạng lách", ngứa miệng quá, lại phải sủa.
Chán thế!
*
Ông tưởng
ai cũng để ý tới ông. Ông tưởng người này bắt chước ông,
người kia
vay nợ ông, người nọ gièm pha ông. Kỳ thực, ai cũng lo chuyện của họ,
có ai đọc
web của ông đâu, ngoại trừ bạn già này.
Không
đúng như thế. Tin Văn bây giờ khá nhiều người đọc, server cho biết hàng
giờ, hàng ngày, và Gấu đang lo, xin độc giả tha lỗi, Tin Văn cũng đông
khách như... Chợ Cá!
Đừng đọc Tin Văn nhiều quá! Please! NQT
*
Có buồn thì đọc sách, làm
thơ, đánh cờ, uống rượu, chứ sao lại cứ vướng vô những chuyện thị phi?
Đọc sách, đánh cờ, thì vẫn
thường xuyên, trừ uống rượu, chỉ lâu lâu, khi đi giang hồ vặt, qua Mẽo gặp bạn, thì mới dám đụng trận, một cách
hăm hở, cho bõ những ngày nhịn uống!
Gấu
tính, sau cái vụ thị phi,
là bèn viết văn!
Trước giờ, chỉ lo ‘cao ngạo
phê phán dân Mít với dân Yankee mũi tẹt…’ (1), bây giờ chán rồi, bèn lo
viết
vài ba tác phẩm văn học!
Cũng chưa muộn!
Hà, hà!
Kính
NQT
(1)
Midway said...
Chính ra hồi xửa hồi xưa
nhưng cũng chưa xưa lắm bác TV viết cũng cân nhắc phết nhé, như talawas
bộ cũ
chẳng hạn.
Thế rồi bỗng dưng bác ý thoái
lui ở ẩn, một mình tung hoành một cõi. Đọc những gì bác TV cao ngạo phê
phán
dân Mít với dân Yankee mũi tẹt mình thấy không phải đều vô vị cả!
Blog NL
*
Cái ý nghĩ của Gấu -
liệu Tô
Hoài cũng cảm thấy đau, khi miễn cưỡng đóng vai đao phủ, chuyên đùn
việc cho kẻ
khác, cho tên sau này trở thành một tên chiêu hồi, cốt làm sao làm trọn
vai trò
nhà văn, người chép sử, hay là câu chuyện về Lò Đấu Tố ở Miền Bắc Việt
Nam - sở
dĩ có được, là do đọc W.G. Sebald, nhà văn Đức quá cố, trong cuốn di
cảo của
ông, “Về lịch sử tự nhiên về huỷ diệt”. Bài viết về Peter Weiss: “Sự
Hối Hận
Của Con Tim”.
Ông
Weiss này, gốc gác xa xưa
của gia đình, vừa là Đức vừa là Do Thái, cho nên cứ nằng nặc, phải làm
sao, vừa
đóng vai kẻ tra tấn, vừa đóng vai kẻ bị tra tấn.
Chính vì lý do đó, ông quyết
định tham dự phiên tòa xử án Lò Thiêu, the Auschwitz trial, tại Frankfurt.
Nhưng
trên hết, ở trong ông,
luôn luôn là một hy vọng, chẳng bao giờ tàn lụi, rằng, “mọi vết thương
thì đều
có phần tương đương của nó, ở đâu đó, và nhờ thế mà đều có thể được bồi
hoàn,
kể cả bồi hoàn này là qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào đã gây ra vết
thương”. (1)
Ý tưởng trên, theo W.G.
Sebald, là từ Nietzsche.
Nietzsche tin rằng, đây là
nền móng của cảm quan của chúng ta, về công lý, và, ông nói, “[nó] hệ
tại ở sự
liên hệ có tính khế ước, the contractual relationship, giữa kẻ cho vay
và người
vay, và nó cũng xa xưa, cổ lỗ, như là quan niệm tự thân, về luật pháp.”
(1) Có
thể mơ hồ cảm nhận ra
điều này, Nguyễn Mạnh Côn viết câu chuyện, một anh Tây mũi lõ, một y
sĩ, hình
như vậy, hăm he đòi, một thân một mình, đứng ra trả món nợ thực dân
thuộc địa,
mà cả lũ mũi lõ gây ra tại Việt Nam.
Tô
Hoài: Ba người khác
*
Trang
Tin Văn, có thể, cũng là... về một anh Bắc Kít, hăm he đòi, một
thân một mình đứng ra trả nợ cho cả một lũ ăn cướp Yanke mũi tẹt!
Đúng là bố chó xồm!
Nhưng
trên hết, ở trong Gấu, luôn luôn là một hy vọng, chẳng bao giờ tàn lụi,
rằng, “mọi vết thương
thì đều
có phần tương đương của nó, ở đâu đó, và nhờ thế mà đều có thể được bồi
hoàn,
kể cả bồi hoàn này là qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào đã gây ra vết
thương”.
Được,
được!
Ngư ông và Biển cả!
Gấu đi biển, kiếm con K của Gấu.
Nhưng
trên hết, ở trong Gấu,
luôn luôn là một hy vọng, chẳng bao giờ tàn lụi, rằng, “mọi vết thương
thì đều
có phần tương đương của nó, ở đâu đó, và nhờ thế mà đều có thể được bồi
hoàn,
kể cả bồi hoàn này là qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào đã gây ra vết
thương”.
Được, được! [Thuổng Mai Thảo]
*
C'est
votre
illusion
Sunday, October
25, 2009 6:51 AM
Ông Trụ ơi,
Càng ngày ông càng tự
huyễn hoặc đến mức đáng ngại. Ông tự khen ông,
rồi ông
phàn nàn về bốn phương tám hướng. Một mình ông ngồi trong cái web của
ông, ông
biến thành cái rốn của ông.
Huyễn
hoặc lớn nhất của Gấu, là, khi đám Yankee mũi tẹt xuất hiện trên văn
học hải ngoại, Gấu đã nghĩ rằng, đây
là lúc móc nối lại với cái Đất Bắc mà Gấu đã từng bỏ chạy.
Cái web
của Gấu xuất hiện đã trên 10 năm, nếu kể cả thời gian ăn nhờ ở
đậu trên VHNT do PCL chủ trương. Chuyện thị phi xẩy ra khi Gấu chưa có
trang web riêng. Mặc dù Gấu có thể trả lời trên VHNT, vì PCL cho Gấu
hẳn một account, tự mình post bài. Nhưng Gấu tự nhủ, nếu lúc
này mà vướng vào chuyện... thị phi, là hư hết.
Chỉ đến khi vượt quá cái
tuổi năm tuổi, 73, và trong khi đi câu cá, tại... Vũng Tầu, Gấu
có
gặp con K, và nó biểu Gấu, bây giờ mày muốn viết cái gì thì viết, thì
Gấu mới dám đụng tới nhà đại phê bình!
Nói
rõ hơn, mọi chuyện kể như xong với Gấu, thời gian còn lại, là của Ông
Trời ban
riêng cho Gấu.
Sau giấc mơ, thấy xác mình trôi lều
bều trên sông Mekong, thì Gấu ngộ ra là, phải thanh toán tất cả,
bằng cách, viết tất cả, không bỏ qua một chuyện thị phi nào hết,
nhưng phải viết không một chút thù hằn, giận dữ, thì mới OK!
"Bạn
già" đọc những gì Gấu viết về nhà đại phê bình, đâu có gì là nặng
nề, cũng chỉ là một cách "dậy dỗ" đàn em, của người đi trước mà thôi!
Xoa đầu đấy, tuy hơi mạnh tay một chút!
Thuốc đắng rã tật!
Vậy thôi!
Nhà đại phê bình đâu có vừa!
Ông ta đã từng xoa đầu không biết bao nhiêu là nhà văn, nhà thơ?
Mạnh tay hơn Gấu nhiều!
Không lẽ viết như... năn nỉ, kẻ muốn lôi cả đời tư của Gấu ra để
mà sỉ vả, chỉ vì cái lỗi, là dám đụng tới một cái "note" của ông ta, về
Võ Phiến?
NQT
Thành
thực mà nói, nhờ gặp con K, và được nó huỷ bỏ cái tên của Gấu ở trong
lịch sử văn học Mít, nói theo ông thầy Faulkner (1), hay nói theo
Nguyễn Du, "đoạn trường đã rút tên ra", bây giờ mày muốn
viết cái gì thì viết, những gì mày viết, kể từ lúc này, sẽ "ở
bên ngoài lịch sử", "ngoài thời", time-out, (2) [láo lếu thật!] nên
Gấu mới có thì giờ để mắt
tới
những gì nhà đại phê bình viết, và sự nghiệp "xoa đầu kẻ khác" của ông,
thì
mới hỡi ơi, sao mà ông này liều lĩnh vô cùng, viết "đại, đại" nhảm, về
đủ thứ vấn đề.
Chán thế!
Thế là tha hồ mà dọn!
(2) Thuật ngữ của
dân Cớm, bảnh hơn nhiều: Off-record: Tắt mẹ cái máy ghi âm đi
cho tao nhờ!
V/v Time-out:
Cuốn La Tregua xuất bản tại Mỹ có cái tên "lạc quan" Lại Tỉnh Thức
(The Reawakening), trong khi nhan đề tiếng Ý đề nghị hoặc từ Truce (Hưu
chiến),
hay Respite (Giải lao), cuốn sách chấm dứt rõ ràng như vậy, bởi vì
những ngày
tháng lang thang vùng Đông Đức của Levi là một
"ngoài-thời" (a kind of "time out"), giữa Auschwitz-như-kinh nghiệm và
Auschwitz-như-hồi
nhớ. Cuốn sách khép lại với tiếng kẻng báo thức, đúng ra là tiếng hô
buổi sáng
của trưởng trại Auschwitz: Thức dậy!
(Wstawach!).
Đây có phải một
người
(1)
Thi sĩ
Joseph Brodsky, đứa
con của St. Petersburg, khi được hỏi, ông cảm thấy thế nào, khi biết
tin thành
phố trở lại với cái tên lịch sử của nó; ông trả lời: tôi hạnh phúc quá
chừng,
quá đỗi! Tôi nói điều này với tất cả hân hoan, và không cần một chút dè
dặt,
mặc dù hoàn cảnh trớ trêu, có một thành phố St.
Petersburg
ở trong một Leningrad
Region... Nhưng đừng nghĩ tới chúng ta, mà hãy nghĩ tới những cư dân
hiện thời,
tới những người sẽ sinh ra tại đó. Họ sống trong một thành phố mang tên
thánh,
như vậy chẳng hơn là với một cái tên của quỉ. (Better they live in a
city that
bears the name of a saint than a devil.)
Khi được tin nhà thơ Nguyên
Sa mất, tôi bỗng nhớ đến câu thơ trên:
Sài-gòn phóng solex như
bay.
Nhớ đến
J. Brodsky, và câu
thơ của ông:
Neither country nor
churchyard will I choose
I’ll come to Vasilevsky
Island
to die.
Xứ sở làm chi, phần mộ làm
gì,
Ta sẽ tới đảo kia để chết.
*
Nhớ đến thành phố mất tên.
Và tôi tự nhủ, câu thơ, và
tác giả của nó, đã nhập vào thiên tài của nơi chốn. Đã vĩnh viễn thuộc
về
Sài-gòn rồi.
Ở đây,
chúng ta hãy vượt lên
mọi oan khiên nhất thời, hoặc cuộc đối đầu quốc- cộng, và để ý đến một
điều:
cái tên gọi Sài-gòn, theo như người viết hiểu, không phải là một từ
tiếng Việt,
mà là gốc Miên, hoặc Chàm. Tổ tiên của chúng ta, những người mở nước,
đã biết
kính trọng điều gọi là thiên tài của nơi chốn, genius loci, và đã không
đặt tên
lại cho một vùng đất đã cưu mang họ, bằng một cái tên mang sẵn từ nhà,
từ một
vùng đất họ đã bắt buộc rời bỏ. Những Los Angeles, Mississauga,
Canada... những
địa danh ở Bắc Mỹ là một an ủi cho những người Âu châu, so với tất cả
những tội
ác đối với thổ dân da đỏ.
Tôi thích câu thơ trên, vì
Sài-gòn (lẽ dĩ nhiên). Và, vì còn là một Sài-gòn của riêng tôi. Sài-gòn
của tôi
chẳng bao giờ phóng solex như bay, nhưng mỗi lần nhớ đến, câu thơ của
Nguyên Sa
lại mới nguyên trong tôi, như một vài kỷ niệm còn sót lại, về cô bạn.
Về Nguyên Sa, còn một câu thơ nữa, mà tôi vẫn
rì rầm hát theo, cùng với nó, và mỗi lần như vậy, lại tự nhủ, nếu có
dịp gặp
ông, tôi sẽ hỏi, đâu là nguyên bản của nó. Câu thơ được phổ nhạc:
Trời chợt mưa, chợt nắng,
chẳng vì đâu.
Câu thơ nguyên bản, như sau
này tôi được biết:
Trời chợt mưa, chợt nắng,
bởi vì đâu.
Nhưng tôi cứ rì rầm như vầy:
Trời chợt mưa, chợt nắng,
chợt vì
đâu.
Và tôi cứ cố tình thích chữ “chợt” sau cùng.
Bởi vì, cứ khơi khơi, trời chợt mưa, chợt
nắng, cô bạn chợt phóng solex vào đời mình:
Chợt vì đâu, solex mãi
trong
tôi...
Hoặc:
Chợt vì đâu xô lệch mãi
đời
tôi...
*
Oan khiên nhất thời: so với
chiều dài lịch sử, cuộc chiến quả thật chỉ là oan khiên nhất thời. Giữa
thời
gian và những ký hiệu là những con chữ, hay như ở đây, một câu thơ, lại
là một
vấn đề lớn lao khác nữa:
Khi thành phố mà tôi vinh
danh, đã lụi tàn, mai một,
khi những con người bài thơ
tôi ca ngợi, đã chìm vào quên lãng,
những con chữ sẽ vẫn còn hoài
(Pindar)...
Câu thơ
cứ còn mãi, dù
Sài-gòn không còn phóng solex như bay....
*
Sài-gòn không còn phóng solex
như bay, thi sĩ càng biết rõ điều này hơn chúng ta.
Hãy đọc thơ ông, thay cho một
lời tưởng niệm:
Em gói câu thơ trong áo
bay,
Ba phần gió thổi, một
phần
mây,
Ngày sau hai đứa mình xa
cách,
Anh vẫn được nhìn mây
trắng
bay.
*
Thi sĩ biết rất rõ, sẽ có một
ngày, người mà câu thơ ca tụng, sẽ cách xa, nhưng không hề chi, câu thơ
sẽ vẫn
còn mãi:
Anh vẫn được nhìn mây
trắng
bay.
*
Không phải chỉ em, mà luôn cả
anh - nhà thơ, sẽ cách xa:
Nghệ sĩ
phải làm cho hậu thế
tin rằng, anh ta đã không sống, Flaubert nói. (L’artiste doit faire
croire à la
postérité qu’il n’a pas vécu). Maupassant ngăn cấm chuyện chân dung ông
có
trong tuyển tập những nhà văn nổi tiếng: Đời riêng của một người, và bộ
mặt của
ông ta không phải là để chường ra cho thiên hạ thấy.
"Tôi ghét chuyện dí mũi
vào đời riêng của mấy ông nhà văn lớn, và chẳng có một cuốn tiểu sử nào
giọi
chiếu được một mẩu đời tư của tôi," Nabokov nói. Italo Calvino giải
thích
thêm: ngu gì mà nói cho bất cứ một ai, dù chỉ một lời, về đời tư của
mình!
Faulkner mong muốn, chỉ là một người bị huỷ bỏ (annulé), được lịch sử
gạch đi
(supprimé par l'histoire), chẳng để lại bất cứ một vết tích, ngoại trừ
những
cuốn sách đã được in. (Milan Kundera khi nhắc lại, đã gạch dưới hai chữ
sách,
in). Theo một ẩn dụ nổi tiếng, nhà văn phá huỷ căn nhà riêng của ông,
để, với
những viên gạch lấy từ đó ra, xây dựng một căn nhà khác: cuốn tiểu
thuyết của
ông ta. Khi mà Kafka được người đời chú ý đến, nhiều hơn là (nhân vật)
Joseph
K., tiến trình hậu - cái chết (mort posthume), của nhà văn bắt đầu.
*
Solomon Volkov, tác giả cuốn
Chuyện trò với J. Brodsky, có kể lại: một lần ông hỏi nhà thơ, về một
lời chỉ
trích ông, của một ký giả lưu vong. Ông này đã buộc tội nhà thơ leo lên
đỉnh
vinh quang, bằng cách đạp lên ngôn ngữ Nga (over the steps of the
Russian
language). J. Brodsky mặt đỏ bừng, tính xổ nho, nhưng đột nhiên ông bật
cười la
lên: Thú quá, Trời ơi! Làm gì có chuyện nào đẹp hơn, phải không? (Lord!
What
could be better, right?).
Trong quá khứ, đã có lần,
người viết gọi ông, nhà thơ Nguyên Sa, là một nhà văn dễ dãi, và sung
sướng.
Bây giờ chỉ xin đổi lại: Nguyên Sa là một con người dễ dãi, và hạnh
phúc.
Xin vĩnh biệt nhà thơ.
NQT
Note:
1998, Nguyên Sa mới mất,
và Gấu lần đầu ghé Tiểu Sài Gòn, đúng thất tuần của ông, và một văn
hữu, chẳng
hề biết chuyện đụng độ giữa NS và Gấu, đã 'nhân danh gia đình' ngỏ lời
mời Gấu
tới thắp một nén nhang cho nhà thơ, và NMG giật mình, nói, đâu có được!
Bài viết trên là nén nhang đó.
NQT
*
Sao
bac ghet talawas...?
Gấu thực sự quá tởm
mấy đấng
Yankee mũi tẹt thì đúng hơn. Khi diễn đàn này mới xuất hiện, Gấu là
người đầu
tiên viết, trong khi những người khác còn nghi ngại, ấy là vì Gấu nghĩ,
đây là
thời điểm để nối lại mối nối bị đứt với Đất Bắc của Gấu.
Liền
sau đó, là thất
vọng, nhưng
vẫn hy vọng, rồi hoàn toàn tuyệt vọng.
Một
khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận
về cái chuyện ăn cướp Miền Nam,
thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính
cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên
tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không
biết đến
bao giờ mới thoát ra được.
Có
vẻ như sự kiện chúng chẳng
thể nói được điều này, còn là do mặc cảm dốt nát. Cả một diễn đàn như
thế,
trong mấy năm trời như thế, đâu có để lại một cái gì cho ra hồn, ngoài
mớ văn học
Miền Nam
được họ sưu tầm?
Cả
một đám làm cho Bi Bi Xèo
như thế, mà dịch “Bán Đảo” Ngục Tù? Khi có người chỉ cho thấy sự dốt
nát, thì cũng
không biết lên tiếng cám ơn? Chúng 'vô học' đến mức như thế thì làm sao
khá cho được?
Cái
sự băng hoại đạo đức, ở
đám chóp bu như đám này, mới đáng sợ, và vô phương cứu chữa.
Kính.
NQT
*
Nhà Phê Bình
Monday, October 26, 2009 1:50
PM
Kính chú Trụ,
Cháu lạc vào rừng Tản Viên
của chú mà mày mò hoài không ra nguyên nhân ban đầu tại sao chú ghét
nhà phê
bình. Cháu có thấy "Sao bác ghét
Talawas?". Tại sao chú ghét nhà phê
bình? Bắt đầu là như thế nào?
Chú có ghét mấy tay phản chiến như Đỗ KH.
không?
Cám ơn chú cái link
VHNT, nhờ
đó cháu mới biết tin tờ báo được để lên web trở lại.
Độc giả nhỏ tuổi,
Hàng xóm ông bác Hiếu
Chân.
Note: Xin lỗi
bạn Đỗ KH nhe!
NQT
Phúc đáp:
Đúng ra là do Gấu ghét cái
thằng cha Gấu phê bình ngày nào, trước 1975, gây ân oán giang hồ, ảnh
hưởng đến
cả gia đình [cái vụ này Gấu sẽ từ từ viết sau].
Nhưng phải đến khi đọc Steiner,
thì mới hiểu ra lý do 'tiềm ẩn':
Khi ngoái
lại, nhà phê bình
thấy cái bóng viên quan hoạn ở sau lưng. Ai chịu làm phê bình gia, nếu
có thể
làm nhà văn? Ai chịu gò vào Dostoevsky để có được trực giác tinh tế
nhất, nếu
có thể hàn một phân bộ tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov; hay tranh luận
về tư
thái của D. H. Lawrence, nếu có thể tạo ra luồng gió đời cuồn cuộn
trong cuốn
Cầu Vồng? Tất cả tác phẩm văn học lớn đều bật ra từ "le dur désir de
durer" (dục vọng cương cứng được trường tồn), bằng lao khổ tâm trí nhằm
chống lại cái chết, bằng hy vọng vượt lên thời gian với sức mạnh sáng
tạo.
"Brightness falls from the air": năm từ và một ngón thanh âm u tịch
(a trick of darkening sound). Vậy mà đã trường tồn cả ba thế kỷ. Ai còn
muốn
chọn làm phê bình gia, nếu có thể đặt bài ca, soạn nhạc, và từ cái con
người
sinh tử lão bịnh là chính mình, tạo ra được một giả tưởng bất tử, một
nhân vật
sống hoài hoài? Hầu hết đều sống sót, như là bụi bặm, trong những cuốn
điện
thoại niên giám cũ mèm (cám ơn Trời, cũng may còn lưu giữ tại Viện Bảo
Tàng Anh
quốc). Dấu vết để lại của họ, qua mớ chữ đó, thì cũng chẳng là bao, nếu
nói về
chân lý và mùa màng gặt hái từ cuộc sống, so với Falstaff hay Madame de
Guermantes. Phải chi mà tưởng tượng ra được những nhân vật như thế nhỉ!
Phê bình gia sống kiểu tầm
gửi. Anh ta viết về. Phải thí cho anh ta một bài thơ, một cuốn tiểu
thuyết hay
một vở kịch; phê bình gia sống, nhờ ân huệ thiên tài, của những kẻ
khác. Bằng
văn phong, phê bình, tự thân, có thể trở thành văn chương. Nhưng chuyện
này
thường chỉ xẩy ra, khi nhà văn xử sự như nhà phê bình, về tác phẩm của
chính
mình; hay như một kẻ dọn đường cho thi pháp của kẻ đó: phê bình ở
Coleridge là
tác phẩm đang tiến diễn; hay tuyên truyền của T. S. Eliot là giây phút
sáng
tạo. Ngoại trừ Sainte-Beuve, ai dám cho rằng, ta thuộc về văn chương,
thuần tuý
như một nhà phê bình? Ngôn ngữ sống, không phải nhờ phê bình.
Nhân
Văn
Gấu không 'ghét' nhà phê bình đại phê bình, nếu đó là ý bạn hỏi.
Cũng phải có người làm cái việc... xoa đầu thiên hạ chứ?
Ngay Steiner, coi phê bình gia là... hoạn quan, mà còn nhận ra vai trò
cần thiết của họ nữa là Gấu!
Kính
Hết thuốc chữa!
Đến lượt Gấu bị sửa lưng, vì
dịch ẩu.
Le dur désir de durer
(dục vọng cương cứng được trường tồn).
Cau nay
ai dich nhu+ vay thi
dung la meo mo' - phai tuy boi ca?nh cua no chu+..
Dai da so se hieu nha va+n
thi thich minh duoc ba^'t tu+? nhung rat kho khan
Nghe khg lot lo^ tai chut
nao!
Une
reflexion sur les raisons
du vieillissement et les différentes possibilités de le ralentir.
Le rêve des hommes depuis
toujours est de vivre le plus longtemps possible, et s'il faut
vieillir, que ce
soit le plus tard et le mieux possible. " Ni décatis, ni séniles ! ",
tel est le défi d'une population comme la nôtre dont la durée de vie ne
cesse
d'augmenter. Quelles sont les découvertes et hypothèses actuelles qui
permettront un jour d'influer sur les processus complexes du
vieillissement,
d'en freiner les effets, voire d'allonger la durée de vie ?
" Le Dur Désir de Durer
" est le récit d'une enquête menée par une femme qui, à l'aube de la
soixantaine, s'interroge avec une note parfois humoristique, sur les
raisons du
vieillissement et les différentes possibilités de le ralentir. Elle
possède un
carnet sur lequel elle consigne ses remarques. Elle rencontre les
chercheurs et
les laboratoires où l'on traque les processus moléculaires liés au
vieillissement.
Tks. NQT
Câu dịch trên, hai người cùng dịch, là Nguyễn Tiến Văn & NQT, đã
gây một sự bực mình ở nơi độc giả báo Hợp Lưu, khi đăng bài
dịch Steiner.
Lúc đó, chưa có Google.
Hiếp
dâm tiếng Việt
Le Dur Désir de Durer
[trong bài dịch Nhân Văn]
Le Dur
Désir De Durer: Ao ước
cương cứng được trường tồn.
Frédéric
Beigbeder truy tìm
nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”, “de” là từ
tiếng
Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước một ngôi
sao đã
mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ tôi với”, nhưng
chẳng bao
giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi không
phải một
cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.
Như tác giả của nó, đã viết
cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je cherche l’amour”
[Tôi tìm
tình yêu].
Tôi tìm Hà Nội
Cái câu tiếng Tây này, thật
khó dịch, vì mấy cái vần D liên tiếp, làm liên tưởng đến những từ tiếng
Việt: Đù Đù Đù [DM,
thí dụ], khổ thế!
Gấu nhớ là nhà thơ Nguyễn Đăng
Thường, để ý đến mấy vần D này, và dịch ra tiếng Việt bằng một câu thú
vị lắm, dùng
toàn vần H.
Hốc hác
ham hố hiện hữu
*
Nhà Phê Bình
Monday, October 26, 2009 1:50
PM
Kính chú Trụ,
Cháu lạc vào rừng Tản Viên
của chú mà mày mò hoài không ra nguyên nhân ban đầu tại sao chú ghét
nhà phê
bình. Cháu có thấy "Sao bác ghét
Talawas?". Tại sao chú ghét nhà phê
bình?
*
TTT, khi còn ở trong nước, có
gửi ra hải ngoại một số bài thơ làm trong tù, ký tên là Trần Kha. Gấu
ra sau
ông, nhưng nhờ đọc nhà đại phê bình mới biết sự kiện này. Ông phán:
Tại sao ông này hồi còn ở trong nước thì gửi thơ ra hải ngoại, bây giờ,
ra
ngoài này rồi, không chịu làm thơ nữa, để cho ông ta... xoa đầu, tiếp?
Bởi vậy, Steiner rất tởm mấy anh phê bình gia không biết viết văn, đám
hoạn
quan sống bám vào thiên tài, không biết cơn hung hãn, "Em đã biết tay
anh chưa?" (1),
tức, "dục vọng cương cứng mong được trường tồn", Le
Dur Désir De Durer [toàn vần
Đ.. thôi à], tức, hành động "hùng
hục sáng tạo".
Tuy nhiên, Steiner, do không phải là độc giả của Kim Dung, nên không
biết
"phép lạ" của Đông Phương. Với những nhà văn, nhà thơ, nhà đại phê
bình…
tầm phào, chỉ có mỗi một cách để trở thành ‘giang hồ đệ nhất nhân’, là,
vung
dao tự thiến!
(1)
Câu
này, của một nhân vật trong Ung Thư thì phải [Thạch?]. Anh ta
hất hàm:
-Em đã biết tay anh chưa? (chửi tục). [nguyên văn]
Nguyễn
Quốc Trụ trả lời độc giả Hợp Lưu
Câu
"le dur désir de durer", theo ý tôi, là câu văn-chìa khóa của bài viết.
Mở bài, G. Steiner "phang" một câu: "Khi nhìn lại, nhà phê bình
thấy cái bóng viên hoạn quan ở ngay sau lưng." Ông như muốn "cảnh
cáo" những phê bình gia: coi chừng bị đại nạn như Tư Mã Thiên! Do đó,
chúng tôi cố gắng dịch câu "le dur désir de durer" như trên. G.
Steiner đã để nguyên câu văn tiếng Pháp, chắc vì ông tin rằng, những
độc giả hiểu
cả hai ngôn ngữ Anh và Pháp, sẽ nhận ra hàm ý của ông.
Dịch là phản, như chúng ta đều biết. Nhưng, không thể không dịch, bởi
vì như G.
Steiner, trong Nhân Văn, đã khẳng định: "… chẳng có tương đương thực sự
giữa
những ngôn ngữ, mà chỉ có bội phản; nhưng toan tính chuyển dịch là một
yêu cầu hoài
hoài, nếu bài thơ [được viết ra là để] sống trọn cuộc đời đầy ứ của
nó."
Phải
chi mà Đoàn Đức Chính đưa ra một câu văn dịch khác, thay cho câu của
chúng tôi,
như vậy là câu văn "le dur désir de durer" lại có thêm một cuộc đời
nữa.
Ông viết, "… hai dịch giả này, qua toàn bài dịch đã trình bầy một thứ
tiếng
Việt tồi tệ, lủng củng chưa từng thấy." Ai bị chê, cũng thấy
"quê", nhưng ngay sau đó, ông viết tiếp, "Hai vị này viết tiếng
Việt như học sinh ngoại quốc đang lấy lớp "Vietnamese 101"; chính câu
này của ông làm chúng tôi "ngộ" ra một điều là: nỗi khó khăn của những
học sinh ngoại quốc khi học tiếng Việt, cũng chính là nỗi khốn khó của
chúng
tôi, khi dịch tiếng nước ngoài.
"Những
cuốn sách lớn được viết bằng một thứ tiếng nước ngoài" (Great books are
written in a kind of foreign language. Proust, Contre Sainte-Beuve,
Daniel W.
Smith và Michael A. Greco dịch qua tiếng Anh). Theo nghĩa đó, bất cứ
một bản dịch
nào cũng có phần "tồi tệ, lủng củng", nhất là khi đụng tới một hệ tư
tưởng khác, thí dụ như hệ tư tưởng Âu Châu, mà G. Steiner là một trong
những
người đại diện đích thực của nó. Trong một bài viết khác, Steiner khẳng
định:
"Chẳng có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức
luận".
Ngôn ngữ ngoại, mà Proust nói, theo triết gia Gilles Deleuze giải
thích, còn là
hiệu quả của văn chương đối với ngôn ngữ. Nó mở ra một thứ ngôn ngữ
ngoại bên
trong một ngôn ngữ… một ‘trở nên-khác’ của ngôn ngữ. G. Deleuze trích
dẫn
Kafka, khi để cho một nhà vô địch bơi lội nói: "Tôi nói cùng một ngôn
ngữ
với ông, vậy mà tôi không hiểu dù chỉ một từ ông nói." (I speak the
same
language as you, and yet I don’t understand a single word you’re
saying).
*
Từ ‘dur’ ở đây có
nghĩa
‘nghiệt ngã’, ‘gay go’, không phải ‘cương cứng’.
Dịch nhảm quá! (1)
(1) Chữ
khó ở đây là dur, ví
dụ :
nghiệt ngã : khi bị bệnh, khi
bị thiếu ăn
gay go : khi bị đau khổ tâm
lý
khắc nghiệt : khi bị sống trong những điều
kiện khổ sở cùng
cực : chính trị, chiến tranh, diệt chủng
vất vã : khi bị thất nghiệp,
kiêm sống khó khăn
khó khăn : khi chán nản không
thiết sống…
Vậy : Mong muốn (quá gay
go...) để được sống lâu.
Còn các nhà văn thì phải viết
đại tác phẩm – quá gay go – mới được tồn tại.
Độc giả Tin Văn
Tks NQT
*
Mới thoát khỏi ảnh hưởng
của
ông Hoài Thanh đã mừng húm, tưởng mình sẽ được tự do phơi phới một đời,
ai ngờ
lại đụng phải ông Roland Barthes; mới né ông Roland Barthes thì lại
đụng ngay
chân của ông Michel Foucault; đang lúc tưởng tượng thoát khỏi cả ông
Barthes
lẫn ông Foucault thì lại đụng cái móng của ông Jacques Derrida và ông
Jacques
Lacan. Ở đâu cũng đầy đại thụ phủ bóng rợp cả một góc trời.
NHQ Blog VOA
Viết sàm thế này, mà vỗ ngực
xưng tên là
phê bình gia, thì quả là quái đản.
Cái lối phê bình của Hoài Thanh, Hoài Chân, nếu có, thực sự mà nói, là
theo cảm
tính, theo khẩu vị của cái lưỡi, của một người quá mê văn chương, đọc
nhiều,
rồi nước chẩy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ, sau cùng tạo riêng cho mình,
một cái
gu thẩm mỹ, thưởng ngoạn, một lối đánh giá, nhận xét tác phẩm văn học,
của một
người sành đọc.
Thoát ông Hoài Thanh, thì thành một nhà đọc sách cừ, thí dụ, chứ đụng
ông
Roland Barthes, thì chắc chắn là cũng… thua!
Barthes, là bậc thầy, mà còn là bậc thiên tài về phê bình, và về nhiều
thứ khác
nữa, liên quan đến khá nhiều môn học nhân văn. Khủng thế. Có thể nói,
đọc
Barthes rất khó, nhất là, Gấu nhấn mạnh, nhất là đối với những người
không rành
các môn học ở bên ngoài văn chương.
Phải một thằng thợ máy Bưu Điện, như Gấu, thí dụ, mới có cơ may đọc
Barthes, ấy
là vì thuật ngữ Barthes sử dụng, dân kỹ thuật rất dễ nắm bắt, thí dụ
những từ code,
décoder, shift, connotation, dénotation...
Vào cái thời Gấu vừa mới lớn, đọc Barthes, và giới thiệu Barthes, qua
mục
thường xuyên Gấu phụ trách trên tờ Vấn Đề, có thể nói, cả một cõi Mít
Nam không
ai biết đến tên ông, đừng nói đọc ông. Bạn bè của Gấu, những đấng triết
gia thì
lại càng không đọc, vì không thể nào nắm bắt được những từ ngữ mà
Barthes sử
dụng. Mấy đấng học trò Nguyễn Văn Trung, sau gần như ông nào cũng chửi
lại
Thầy, thì chỉ quen với ngôn ngữ triết hiện sinh, nào sinh tồn, nào tha
nhân, nào
hữu thể, nào hư vô, nào âu lo, xao xuyến… làm sao hiểu nổi thuật ngữ
gốc gác kỹ
thuật, ký hiệu học, cơ cấu luận...của Barthes.
Cơ cấu luận, là từ toán học mà ra.
Bởi vậy, Gấu nói, nhà đại phê bình mù tịt về Barthes là vậy. Và còn mù
tịt về
rất nhiều thế giá khác nữa.
Có vẻ như ông ta chỉ đọc nổi Harold
Bloom, Mẽo,
tác giả cuốn nổi cộm The Western Canon. Đệ tử Northrop
Frye.
Gấu cũng có gần như đủ những tác phẩm lớn của tay này, có đọc, nhưng
không
khoái.
Cũng một tay đếch biết viết văn!
Nhắc loạn cào cào như trên, chỉ
một đấng
điếc, nên mới không sợ súng!
Thoát Barthes, đụng Foucault,
thì OK, vì
Foucault cũng dân cơ cấu luận, tuy ông chối bai bải. Thoát hai ông
Barthes và
Foucault gặp Derrida, và Lacan thì cũng căng lắm đấy. Derrida, huỷ cấu
trúc,
Lacan, phân tâm học, mỗi ông một kiểu ra đòn, căng thật, nhưng...
gặp để
làm cái chó gì mấy ông này?
Nói rõ hơn, một nhà phê bình,
khi đã chọn
cho mình một ông Thầy, là đếch cần một ông nào khác. Bởi vì bắt buộc là
phải
như thế.
Thử hỏi, mấy ông mê phê bình kiểu Mác Xít coi, có ông nào thoát ra được
chưa?
Cái ông thầy mình chọn… Rất
nhiều trường hợp, bạn không có quyền chọn, mà cái thời của bạn nó chọn
cho bạn.
Hồi Gấu mới lớn, thì Mác Xít
kể như cũng đã qua rồi, nhưng ảnh hưởng còn nặng nề ở một số tác giả,
ngay
cả ở
TTT, với cuốn Bếp Lửa. Gấu
đọc hiện sinh, và viết truyện ngắn đầu tay
của mình Những Con Dã Tràng, là từ nó, bây giờ
đọc lại sửng sốt kêu lên, sao anh chàng Gấu
ở trong đó giống y chang Meursault, cả ở những cơn ho húng hắng vào
buổi chiều!
Bãi biển Điạ Trung Hải?
Bãi biển Nha Trang thì cũng rứa!
Khi viết nó, Gấu chưa từng đọc
Camus. Quái đến thế.
Ông tưởng
ai cũng
để ý tới ông. Ông tưởng người này bắt chước ông, người kia vay nợ ông,
người nọ
gièm pha ông. Kỳ thực, ai cũng lo chuyện của họ, có ai đọc web của ông
đâu,
ngoại trừ bạn già này.
Độc giả Tin Văn
Thống Kế Tin Văn
Chủ
nhân một cái web, nhiều
khách viếng thăm, ai mà chẳng thích, ai mà chẳng mừng, ai mà chẳng khoe
khoang,
bốc phét, "tưởng ai cũng để ý đến mình, ai cũng bắt chước, người này
vay
nợ, người kia gièm pha..."'; những chyện đó, đều có thực hết đấy, duy
có
điều, đếch có đứa nào dám nhắc đến Tin Văn. Coi như hủi. Điều đó, sao
bạn già
không để ý nói ra giùm cho ‘bạn già này’ được tí an ủi ?
Những thuật ngữ "anh hai, cao bồi, không thuộc giới hàn lâm, khoa
bảng" của Gấu, lướt nét, Gấu gặp hoài. Nào phán,
đại gia, mù tịt, tuyệt cú mèo, thần sầu ...
Có mấy từ thuộc đại kỵ, mới gần đây, giới giang hồ cũng mang ra mổ xẻ,
Chợ Cá còn
bệ luôn về, cho đám Bắc Kít xúm vào thêm tí mắm tí muối, thí dụ, Yankee mũi
tẹt, Mít, Cái Ác Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn, Thiên Sứ biến thành Quỉ
Sứ, nữ bồ
tát biến thành đại ma đầu…
Có một số người có vẻ chịu
cách cắt nghĩa lịch sử Mít của Gấu, nhận ra Cái Ác Bắc Kít mới là nguồn
cơn cơ
sự, chứ không phải chủ nghĩa độc hại Mác Xít.
Đó là những điều Gấu này có
quyền hãnh diện, tự hào, huêng hoang, bốc phét chứ?
*'
Khi chưa giành được
chính
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảng CSVN đã dùng tất cả mọi
phương
tiện, dồn tất cả mọi công sức cho việc tuyên truyền trong đó
có việc
xây dựng những thần tượng-chỉ có thật một phần hoặc hoàn
toàn không
có thật! Còn khi đã giành được vị trí độc quyền lãnh đạo
đất nước
như lâu nay thỉ đảng và nhà nước CSVN lại ra sức ngăn chăn, dập
tắt,
khống chế, bôi bẩn, xuyên tạc…mọi cá nhân có thể trở thành
hình ảnh
đẹp trong lòng mọi người bởi sự dấn thân của họ, sự dũng
cảm, lòng
yêu nước, yêu tự do, dân chủ, công lý, sự thật và niềm khát
khao mong
muốn vận mệnh đất nước thay đổi ở họ.
Song Chi talawas
Cái sự
băng hoại ở trong nước
bây giờ nó là nghịch đảo của niềm tin sắt đá của dân Mít, ở chân lý
nước Mít là
một.
Thế mới tiếu lâm.
Chưa có nước nào “buồn cười”
như nước Mít cả.
Trước 30 Tháng Tư 1975, dân
Mít là số 1. [Yankee mũi tẹt, đúng hơn]
Sau 30 Tháng Tư, lưu manh số
1! [Vẫn Yankee mũi tẹt].
Gấu nghĩ vỡ đầu về chuyện
này, sau cùng ngộ độc ra được!
Lịch sử
nước Mít nó có một
nếp gẫy, kể từ khi có Đàng Trong.
Có Đàng Trong một cái thì
Đàng Ngoài bèn nghĩ, Đàng Trong mới là nhà của mình!
Cái ý nghĩ này, nó có hai phần.
Một, thật tốt, và một, thật xấu.
Thật thiện. Thật ác
Chính cái phần thật tốt, thật
thiện, thật đẹp đó, đã khiến cả nước Mít mê điên mê đảo.
Không
phải ông Hồ nói chơi chơi
đâu: Thắng trận này, là xong.
Là trăm cái nhà Mít, mỗi cái
lớn bằng cả nước Mẽo, cả thế giới… Mít
cũng
làm được.
Sỏi đá biến thành cơm, ba cái
chuyện lẻ tẻ.
Ôi chao, đúng ngày 30 Tháng Tư,
là tiêu!
Tiêu cả nước Mít!
Khủng khiếp thật.
Nietzsche tiên tri điều này từ khuya rồi:
Không
phải sự bán tín bán nghi, mà chính cái điều quá tin tưởng [về mình, về
một điều gì],
làm cho
chúng ta trở nên khùng.
["Ce n'est pas l'incertitude qui rend fou, c'est la certitude."]
*
Đừng nói cho ai biết, bạn mua
số báo này.
Tờ Văn học Pháp, Le Magazine
Littéraire, số tháng Bẩy & Tám, 2005, là về một
thứ hạnh phúc quái đản, hạnh phúc thấy mình bị bách hại, bị săn đuổi,
tức chứng
hoang tưởng, la paranoia.
Tờ báo cảnh cáo bạn đọc, như trên, và khuyến cáo, nên lén lút đọc,
tránh những
con mắt tò mò, và giải thích: hoang tưởng sinh sôi, nẩy nở trong im
lặng, trong
bí mật, và trong nghi kỵ.
Và nếu chúng ta đồng ý với quan điểm của Francois Rostang, tác
giả cuốn
"Làm sao cho một tay hoang tưởng cười?", hoang tưởng là dấu hiệu của
một xã hội khép kín, chỉ tin vào chính nó, trop sure d'elle-même, thì
cái chế độ
hiện thực XHCN của nhà nước ta nên đổi tên thành xã hội hoang tưởng.
Ông trích dẫn Nietzsche: Không phải sự bán tín bán nghi, mà chính cái
điều quá
tin tưởng về mình đó, làm cho chúng ta trở nên khùng.
["Ce n'est pas l'incertitude qui rend fou, c'est la certitude."]
Hai Lúa tin rằng, cơn sốt nhật ký thời chiến, là cũng nhằm giải thích
một câu hỏi
nhức nhối: Tại làm sao cả một miền đất lại nhắm mắt nhắm mũi lao vào
cuộc chiến
đó? Tại làm sao mà lại tin tưởng quá như thế, về một "chân lý":
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm"? Và tại làm sao, kết quả của nó, lại
quái đản như thế đó?
Hiện
tượng Trâm Thạc
Phê bình không phải chuyện
'nâng bi' chân lý của quá khứ, hay chân
lý của những kẻ khác. Nó là một công trình làm sao cho thời đại của
chính chúng
ta bớt ngu được chút nào hay chút đó.
[Mô phỏng câu của Roland Barthes, bản tiếng Anh: Criticism is not an
'homage'
to the truth of the past or to the truth of 'others' - it is a
construction of
the intelligibility of our own time. R. Barthes: Phê bình là
gì?, trong Tiểu luận Phê bình,
Critical Essays].
Vương Trí Nhàn, người biên tập, trên BBC, cho biết, trong đời làm xuất
bản, làm
văn nghệ của ông, khoảng 40 năm, chưa có hiện tượng nào như thế này.
Vẫn sử dụng câu của Barthes, chúng ta có thể gà nhà phê bình họ Vương:
Đó là
vì, chưa bao giờ người Việt mong được bớt ngu đi một tị như là bây giờ.
Để hiểu tại làm sao, sau một đêm 30 tháng Tư, ngủ dậy, tưởng nhìn thấy
cái nhà
Việt Nam to lớn hơn, một con người Việt Nam hạnh phúc hơn, thanh thản
hơn, thì
lại thấy một con bọ!
Nhật Ký Tin Văn
Note: Trang TV này, "top 10", liên tiếp mấy tháng liền, có thể vì những
dòng trên chăng?
Dọn
Mới thoát
khỏi ảnh hưởng của ông Hoài Thanh đã mừng húm, tưởng mình sẽ được tự do
phơi phới một đời, ai ngờ lại đụng phải ông Roland Barthes; mới né ông
Roland Barthes thì lại đụng ngay chân của ông Michel Foucault; đang lúc
tưởng tượng thoát khỏi cả ông Barthes lẫn ông Foucault thì lại đụng cái
móng của ông Jacques Derrida và ông Jacques Lacan. Ở đâu cũng đầy đại
thụ phủ bóng rợp cả một góc trời.
NHQ Blog VOA
Câu của Barthes, dưới đây, chứng tỏ, nhà đại phê bình đếch đọc được
Barthes,
nhưng có đọc được, chỉ nội cái tên của ông.
Phê bình không phải là nâng bi sự thực quá khứ, hay sự thực của những
kẻ khác, mà nó là một công trình làm cho thời của chính chúng mình bớt
ngu đi.
[Criticism
is not an
'homage'
to the truth of the past or to the truth of 'others' - it is a
construction of
the intelligibility of our own time. Roland Barthes: Phê bình là
gì?, trong Tiểu luận Phê bình,
Critical Essays].
Mỗi thời đại có riêng cho nó, 'những' phê bình, và phê bình gia.
Đâu có dễ đụng ông này, ông nọ khơi khơi, vô tư, thoải mái?
Không phải tự nhiên mà lớp tuổi trẻ cùng thời với Gấu lại mê hiện sinh.
Ấy là bởi vì cái không khí của một nước Pháp thời hậu chiến, nó thật
giống cái không khí của đám trẻ Sài Gòn, Miền Nam, với cuộc chiến mà họ
phải đối mặt.
*
Vào mỗi thời đại,
con người nhận ra mình khi đối diện với tha nhân, tình yêu, và cái chết.
A chaque époque l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour et de
la mort.
Sartre, Situations.
Câu văn trên, ngay lần đầu đọc, là nó đã gắn chặt vào trong đầu Hai
Lúa, không
làm sao gỡ ra được nữa.
Câu đó, và một câu nữa, của Camus.
Tôi lớn lên cùng với những người cùng tuổi, cùng với những tiếng trống
inh ỏi
của cuộc thế chiến thứ nhất, và lịch sử, từ đó, chỉ là không ngừng
những sát
nhân, bất công, và bạo động.
(1) Gấu dùng "những", là theo nghĩa của Claude Lévi-Strauss.
*
Claude-Lévi Strauss phân chia
lịch sử ra
những thời kỳ nóng, thời kỳ lạnh. Vào những thời kỳ lạnh, có khi kéo
dài nhiều
thế kỷ, nó chẳng đẻ ra được một ý thức, một tư tưởng, một ý thức hệ,
một triết
lý lớn lao nào.
“Thời của chúng tôi” nóng. Nóng
lắm. Bên
trời Tây, đó là lúc cơ cấu luận đang ở đỉnh cao, với rất nhiều triết
gia, nhiều
tác phẩm: Viết của Lacan, Chữ và Vật, của Michel
Foucault, Phê
Bình và Chân Lý của Roland Barthes, Lý thuyết Văn chương,
của
Todorov… cùng xuất hiện vào năm 1966. Năm sau 1967, là những cuốn tiếp
theo của
bộ Huyền Thoại Học của Claude Lévi - Strauss: Từ mật ong tới
tàn thuốc, Nguồn gốc của những trò lẩm cẩm muỗng nĩa, dao kéo..
ở bàn ăn
[L’origine des manières de table],1968, Con người trần trụi,
L’Homme nu,
1971.
Nhưng Ấu châu có
ở trong đó ? Chính họ tự hỏi. Và tuổi trẻ của Tây trả lời, bằng biến cố
Tháng
Năm 1968: Hãy mạnh dạn đòi hỏi những điều không thể được, không thể đòi
hỏi.
Càng làm tình bao nhiêu, càng cách mạng bấy nhiêu.
Octavio Paz, Nobel văn chương, có lần đưa ra một nhận xét thật độc đáo,
về biến
cố Tháng Năm 1968: Văn minh Tây Phương độc đáo ở chỗ, đã biến dục tình
thành
một vũ khí chính trị.
Nhưng 1968 cũng là năm pháo đài bay B.52 vào trận tại cuộc chiến Việt Nam.
Cùng với
276 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ.
1965: Cuộc Đổ Bộ Normandie Á Châu, tại bãi biển Đà Nẵng.
1968: Cú Mậu Thân. Mồ Chôn Tập Thể Huế.
Cần phải xác định thời của chúng tôi, Chữ Thời, bằng những sự kiện như
thế, mới
nhận ra vóc dáng khổng lồ của những bậc thầy tư tưởng Đông Phương như
Kim Định,
khi họ cố tìm cho ra một giải pháp, và cùng với nó, một thực hành, thí
dụ như
Cú Tháng Năm 1968, như của nước Pháp, cho một “thời khốn khổ của chúng
tôi”.
Tưởng
niệm Thầy Kim Định
Lưu vong thường được mở đầu
bằng một bi
kịch chính trị hoặc một bi kịch kinh tế và kết thúc bằng một bi kịch
văn hoá.
Càng ngày tôi càng thấm thía một điều: sống và viết ở hải ngoại không
phải chỉ
là sống và viết ở hải ngoại.
Khi một nhà văn rời quê hương ra định cư và sáng tác ở nước ngoài, hắn
không
phải chỉ thay đổi một chỗ ở và một bàn viết mà còn thay đổi hẳn một thế
giới
với những mối quan hệ chằng chịt, phức tạp, để rồi, một cách tự giác
hay không,
dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm, từ đó, cách viết và cuối cùng,
không
chóng thì chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư
cách là
một nhà văn nữa.
Thoát ra khỏi ngục tù ở quê hương, tuyệt đại đa số người lưu vong, đặc
biệt là
giới cầm bút, thường rớt ngay vào nhà tù của trí nhớ. Ngoái về quá khứ,
các cây
bút lưu vong ít khi đóng được vai trò tiên phong.
NHQ, Blog VOA
Bài viết này, xưa rồi Diễm ơi,
nhà
đại phê bình, bí đề tài, lại lôi ra, và hình như không có thêm thắt
được ý tưởng nào mới mẻ.
Đúng ra, khi lôi ra, ông ta phải nhận ra một số ý kiến cần phải hoặc mở
rộng,
hoặc bổ túc, hoặc bỏ đi.
Gấu lấy thí dụ: Ngay câu phán mở ra bài viết, nghe thật kêu, nhưng vì
không có
một thí dụ, một minh họa, thành ra độc giả nghe thì khoái lỗ tai, nhưng
vẫn
thấy “lại đâm bực” thế nào ấy!
Lưu vong nào, hay là mọi lưu vong, thường mở đầu bằng bi kịch chính trị
?
Thế nào là bi kịch, như được sử dụng ở đây, theo ông? Bi kịch như bi
kịch Hy
lạp? Hay như là một tai ương, thảm họa có tính cá nhân, gia đình, hay
chung cho
một xứ sở?
Và thế nào là bi kịch chính trị?
Bi kịch chính trị với một nhà
văn lưu
vong, có, nhưng Mít ta không có. Có một vài trường hợp, có thể coi là
nhà văn lưu
vong, như của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, nhưng bi kịch của họ lại không phải
là bi kịch,
theo nghĩa mà nhà đại phê bình ngụ ý trong bài viết của ông.
Gấu không nghĩ,
khi họ bỏ đi, là... bi kịch, mà là giải thoát, là hoan kịch, đúng hơn!
Trường hợp
tiêu biểu trình ra ở
đây, là của
nhà thơ Nobel, Czeslaw Milosz, khi ông đang là một nhà
ngoại giao của nhà
nước CS Ba Lan, đào thoát, xin tị nạn tại Pháp, và bị tam tứ phương tấn
công, tứ
bề thọ địch.
Thoát ra khỏi
ngục tù ở quê hương, tuyệt đại đa số người lưu vong, đặc biệt là giới
cầm bút,
thường rớt ngay vào nhà tù của trí nhớ. Ngoái về quá khứ, các cây bút
lưu vong
ít khi đóng được vai trò tiên phong.
NHQ
Không hiểu nhà đại
phê bình có bao giờ viết văn không, bởi vì cái mà ông gọi là nhà tù của
trí nhớ
đó, rất ư là cần thiết đối với bất cứ một người cầm viết. Nhờ cái nhà
tù của trí
nhớ đó, mà cuộc chiến chống lại quyền lực tại quê nhà vẫn tiếp tục, ở
đám lưu
vong hải ngoại. Ông chắc biết mà, câu của Kundera:
Cuộc chiến của
con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của trí nhớ chống lại
lãng quên.
Và ông chắc cũng
biết câu của Brodsky:
Được tự do rồi mà thất
bại, thì đừng có ăn vạ ai!
Vậy thì, nếu không đóng được vai trò tiên phong, thì nhớ là, đừng có ăn
vạ ai,
và, quá lắm, thì đành len lén về vậy!
Lưu
vong, chấp nhận như một căn bịnh vô phương chữa trị,
sẽ giúp chúng ta nhìn thấu mọi ảo vọng, hoang tưởng, vĩ cuồng… về mình
Czeslaw Milosz: Ghi chú về lưu vong
A free man, when he
fails, blames nobody.
(Được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai)
(J. Brodsky, Phận lưu vong, The
Condition We Call
Exile)
-ÐQAThái:
Nhiều người quan niệm rằng, khi một người
cầm bút không còn sống gắn liền với đất nước họ nữa thì cảm xúc sáng
tác dường
như cạn đi, bởi vì quê hương là một cái nhau nuôi sống đứa bé trong
bụng của
người mẹ; rứt lìa cái nhau, dứt lìa đất nước, đi qua một vùng đất mới,
liệu
người viết còn sáng tác được không?
-Nhà văn Phạm Xuân Ðài: Tôi thấy nhận xét đó đúng đối với những người
đã thành
danh trước khi người đó rời khỏi đất nước của họ.
Gần đây, trên trang mạng của mình, Nguyễn Hưng Quốc có viết, đối với
người Việt
ở hải ngoại, “viết văn trở thành một hành lạc đau đớn của những người
bất lực.”
Nói cách khác, nhà văn bị bứng ra khỏi đất nước của mình thì đó là một
tai họa
cho anh ta.
'Chiếc cây bị bứng khỏi đất
cũ, nhưng không héo úa'
Gấu
đọc lời phán của nhà đại phê bình, “viết văn trở thành một hành lạc đau đớn của
những người bất lực”, được
trong nước hỉ hả lập đi lập lại rất
nhiều lần, và cứ tìm xem trong đám nhà văn Mít hải ngoại, đám sau
chưa
nói, đám đã thành danh trước khi lưu vong, có người nào rớt vào
trường
hợp hành lạc đau đớn bất lực, nhưng tìm hoài không ra một người!
Võ
Phiến, chăng?
Võ Phiến, ra ngoài này, nhận tiền của Mẽo, viết như điên, [cho đám Sáng
Tạo mút mùa lệ thuỷ ở trong nhà tù VC, cho mấy tên đàn em vô hết Văn
Học Sử Mít... ], đâu có
hành lạc
đau đớn bất lực?
Hay Nguyễn Mộng Giác?
Ông này, ra ngoài này mới nổi đình nổi đám, chơi một lèo hai cuốn
trường thiên
tiểu thuyết, bệ hết cả những khuôn mặt thân quen cũng như kẻ thù vô,
nào HPNT, nào
Nguỵ Ngữ [nghe nói một nhân vật nữ số 1 ở trong đó, là từ nguyên mẫu
ngoài đời
rất thân quen với NMG?], cho chúng mày bất tử hết cùng với tác phẩm của
tao. Hành lạc, đau đớn bất lực mà như vậy ư?
Gấu cứ nghĩ đến cảnh HPNT làm thịt một em ở trong đó mà nhỏ nước miếng!
Nguyễn Xuân Hoàng, cũng đâu chịu thua:
Người đi trên mây, Bụi và Rác...
Giá
mà nhà đại phê bình nêu cho một thí dụ minh hoạ
câu phán của mình, thì đỡ khổ biết mấy.
Gấu
đành đoán mò, đây là tình cảnh của chính nhà đại
phê bình, trong những lúc quá chán cái nghề xoa đầu thiên hạ, quá chán
ăn bám thiên tài,
bèn cố.. viết văn, và thấy mình như đang hành lạc, đau đớn bất
lực!
Bởi vì, nhà đại phê bình cũng
là ‘nhà văn’ lưu vong, như bất cứ ai, thì cái kinh nghiệm đó, ở đâu ra,
nếu không
phải kinh nghiệm bản thân?
Vẫn đòn gậy ông đập lưng ông
của Mộ Dung Công Tử, đất Yến Ku Ru?
Phán gì thì phán, phải chừa lại... một phương chứ?
Sống và
viết lách bên lề,
những cây bút lưu vong tìm vui trong cái cộng đồng nhỏ bé, càng ngày
càng nhỏ
bé của mình. Đã nhỏ bé, lại còn lạnh lẽo nữa. Ở hải ngoại, đăng một bài
viết
trên báo hay in một cuốn sách, nhiều lúc ngỡ chừng như nói vào ống điện
thoại
chưa nối đường dây. Lặng ngắt. Không nghe gì cả, kể cả một lời chê, một
tiếng
chửi, cũng không có. Hoàn toàn lặng ngắt.
Viết văn, ngày xưa, là một
danh phận; sau này, vừa là một danh phận vừa là một nghề nghiệp. Ở hải
ngoại,
viết văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không còn
là một
danh phận.
Viết văn trở thành một cách
hành lạc đau đớn của những người bị bất lực.
NHQ
Cuộc
đời của tôi [Milosz] có lẽ
là một trong những cuộc đời quái dị
nhất. Đúng như thế. Nó thiếu cái sự trong sáng của một câu chuyện mang
tính đạo
đức, như chuyện đời của Joseph Brodsky. Đang đầm mình trong "con kinh
ta
đào chưa có nước chảy qua", tại một nông trường tập thể ở gần
Arkhangelsk,
chỉ vài năm sau, ông lượm được đủ thứ vinh quang, kể cả giải thưởng
Nobel văn
chương. Thật chẳng khác chuyện thằng khờ được vợ đẹp trong dân gian.
Tuy nhiên,
phải thậm ngu, chí ngu, mới làm việc này, ấy là với trường hợp của tôi:
Hành động
khác hẳn đám đồng nghiệp, những bạn văn trong Hội Nhà Văn, và bỏ chạy
qua Tây
Phương. Chỉ nội chuyện này không thôi, là đã quá khốn nạn rồi, dưới con
mắt của
họ.
Bị coi
như là một con chó ghẻ, chạy trốn quê hương, bạn bè, kiếm
miếng bơ thừa canh cặn của đế quốc, rồi sau đó, vinh quang, thành đạt,
tất cả
những chuyện đó xẩy ra trong giản dị chỉ một cuộc đời. Nhìn đám bạn cũ
từng tỏ
ra ghê tởm về mình, phát điên lên, và làm chuyện ngu xuẩn cho chính
chúng...
Thú vị nhất, trong tất cả, là sự khác biệt hình ảnh của chính mình, về
mình, và
cũng hình ảnh đó, ở trong mắt những kẻ khác.
Một
thằng gặp may. Một thằng chỉ mê tiền. Một thằng dửng dưng với
quê cha đất tổ. Một thằng đổi cả quê hương lấy cái bị. Một thằng mê văn
không
mê người....
Milosz
Những dòng Milosz viết về ông,
khi phải nhìn lại cái quyết định bỏ chạy
quê
hương Ba Lan, nếu làm một tí biên tập lại, có gì tương tự Gấu, nhất là
những
câu ông phán, về mấy ông bạn quí của ông, đã từng coi ông như một thứ
cùi hủi,
và sau đó, phát điên lên, khi ông ẵm Nobel văn chương.
Lẽ dĩ nhiên, có khác nhiều, các ông bạn quí của Gấu, sẽ vẫn còn dẻ bỉu,
mày mà
dám ví với... Milosz?
Nhưng, nghĩ đến cái cảnh ngồi bờ sông [sông ảo, trên net] nhìn xác bạn
bè trôi
qua, mà chẳng... sướng sao?
*
Lại nói
chuyện, nhìn thấy Gấu
chưa chết, mấy đấng bạn quí của Gấu không được dzui, Gấu bỗng nhớ khi
mục Tạp
Ghi do Gấu phụ trách làm cho báo Văn Học "bán chạy như tôm tươi", ông
chủ nở nụ cười mỉm Chi, [chữ Chi này là phải viết hoa!], trong thư tòa
soạn,
Người loan tin mừng tới độc giả, tờ Văn Học đứng vững được rồi, nhân đó
nói cái
nhục phải năn nỉ xin quảng cáo của mấy thằng có tiền, và, nhân đó, bèn
đi một
đường xoa đầu tên làm công:
“Tôi không viết được như anh”!
Bảnh thật, bảnh thật!
Rồi Gấu bỗng lại nhớ đến một
ông thi sĩ,
có tài, cũng phụ trách một tạp chí văn học, và lần gửi biếu ông tập
Nơi
người chết mỉm cười, ông phúc đáp, cám ơn hai cuốn sách của anh [Lần
cuối Sài Gòn, và Nơi người chết mỉm cười], đi đâu tôi cũng
để chúng
trong túi xách, rảnh một tí, buồn một tí, vui một tí, nản một tí, là
bèn lôi
chúng ra đọc.
Ơ hơ, hóa ra chỉ những tay có thực tài, thì mới dám khen Gấu!
Mấy tên có tài, chúng tự tin vào tài của chúng, vào cái hách xì xằng
được làm
nhà văn nhà thơ, dù nổi tiếng hay không nổi tiếng, dù mới viết hay sắp
ngỏm củ
tỏi, chúng đều dám.. khen người khác!
Còn những thằng vô tài, thì tức điên lên!
Chỉ những thằng có tài, mới dám khen người khác, mới dám nhận lỗi, khi
có sai
sót, lầm lẫn, khi lỡ làm điều gì không phải, thí dụ như khi, vì kẹt
quá, chôm
của người khác.
Và chỉ khi nào ăn cắp, ăn trộm, giết người... dám nói ra, [thí dụ như
Văn Cao
chẳng hạn], thì mới mong có được một cái gì đó!
"One of thieves, [Calvary],
was saved. It's a reasonable percentage".
"Một trong những tên trộm được cứu vớt. Vậy là được rồi."
Beckett: Trong khi chờ Godot
*
"Si l’Holocauste a créé une culture – ce qui est incontestablement le
cas
–, le but de celle-ci peut être seulement que la réalité irréparable
enfante
spirituellement la réparation, c’est-à-dire la catharsis. Ce désir a
inspiré
tout ce que j’ai jamais réalisé"
Nếu Lò Thiêu đẻ ra văn hóa, làm sao không?, thì mục đích của nó là, chỉ
cái
thực tại vô phương sửa chữa đó mới đẻ ra được sự cứu rỗi, và đây là
tinh thần
thanh tẩy, mà tất cả những cái gì tôi viết ra đều được gợi hứng từ đó.
Kertesz
*
Nhà văn Mít ở hải
ngoại bây
giờ là nguồn hy vọng của trong nước. Nói giùm họ, viết giùm họ, đọc
giùm họ, những gì họ thiếu phương tiện, không cơ may, hay bị cấm đoán,
không thể nào có được. Vào thời đại net như
bây giờ,
làm gì còn trong ngoài, làm gì còn lưu vong, theo cái nghĩa hạn hẹp như
trước.
Trang Tin Văn, 4 nước đứng đầu
về con số độc giả, trong Top 25 countries, là Mỹ, Canada, Úc, Việt Nam
[thứ tự
thay đổi].
Đó là sự thực, và Gấu này rất "hãnh diện" vì thấy mình vẫn có ích đối
với trong nước.
Làm gì có chuyện hành lạc bất
lực đau đớn?
Viết không nổi một câu văn, bài
viết thì từ 10 năm về trước mang ra Vũ Như Cẩn, vậy mà dám tuyên bố
khơi khơi
cả nước mù chữ ư?
Trần Gia Phụng – Giáo dục
Việt Nam
và Viện IDS
Anh Dũng nói:
Chính sách giáo dục là một
phần quan trọng của đời sống chính trị ở bất cứ quốc gia nào. Việc đưa
giáo dục
lên bàn nghị sự, việc xây dựng Luật giáo dục chẳng phải đã mang tính
chất chính
trị rõ ràng đó sao?
Do đó, quan điểm cho rằng “chính
sách giáo dục phục vụ chính trị” là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Xin
nhắc lại
rằng: bản thân chính sách giáo dục đã là một phần quan trọng trong phạm
trù
“chính trị”. Không có quan hệ “phục vụ” ở đây.
Cả một bài viết dài ngoằng
của ông Trần Gia Phụng hóa ra là con số 0 tròn trĩnh!
*
Cái tay ‘còm’ này, bảo đảm là… VC
từ... kít lên đến đầu! Chắc chắn, khi
còn là cháu ngoan Bác Hồ, tay này đã từng được vinh dự, như Sến Cô
Nương đã từng,
cắm cờ lên... Nam Cực!
Gấu đã từng có kinh nghiệm cay đắng về ‘vụ
việc’
này, đã kể lại trong bài viết tưởng niệm Ngọc Dũng, trên, để bà con cô
bác coi
chơi, và hiểu ra tại sao mất Miền Nam!
Miền Nam
có thể mất, nhưng con người Miền Nam muôn đời không thể mất!
Chính
đám Yankee mũi tẹt mà còn phải thú nhận, con nít Miền Nam ngoan hơn con
nít Miền Bắc.
Sở dĩ mà
người Miền Nam
bây giờ hoài nhớ một thời đại hoàng kim, ấy là vì khi đó, con người
sống ra
con người, sống thoải mái như con người, chứ thực sự, không phải họ
hoài nhớ chế
độ
VNCH!
Cái chế độ đó, nó đếch dám đụng tới văn hóa, giáo dục!
Nền giáo dục của Miền Nam ngày trước theo mẫu mực của Pháp.
Đại Học
tự trị, nhà nước coi đám sinh viên đều là kẻ sĩ, đếch dám đụng tới.
Đông
Phương coi Sĩ đứng đầu thiên hạ, là vậy!
Theo nấc thang đó, thì, văn chương chỉ là… kít đái so với chính trị, và
chính
trị lại chỉ là kít đái, so với văn hóa giáo dục!
Làm
gì có cái nước nào, trừ nước VC đưa giáo dục lên bàn nghị sự?
Nền giáo dục
của VC, nó hỏng, chính là vì bị coi là tà lọt của chính trị. Đây là cái
chết
trong tâm hồn của VC. Vô phương cứu chữa.
Vừa mới thỏ thẻ, tôi xin nói thẳng, là
nó bịt mẹ miệng lại rồi!
Vả chăng nhờ thứ giáo dục đó mà lấy được Miền Nam, sao bỏ ?
Trong
phần Mở đầu, người chủ
trương Tủ Sách Di Sản Miền Nam
– nhà văn Trần Hoài Thư cho biết:
Những
bài văn được
chọn
trong sách này, giá trị của chúng đã một lần được chọn lọc, đánh giá.
Và bây
giờ được chúng tôi tuyển lại thêm một lần nữa. Tuyển không phải dựa vào
tên
tuổi, mà bằng từng giờ đánh máy, từng buổi nghiền ngẩm, để thấy rằng,
nếu mà
chúng (bài văn) bị bỏ qua, thì cả một mất mát lớn. Cho người muốn tìm
hiểu về
nền văn chương miền Nam, và cho di sản văn chương miền Nam.
Kinh
thật!
Đếch có tên Gấu nhà văn!
Có nhiều đấng, Gấu chưa từng
nghe tên, nói chi đọc.
Chắc cũng bạn hữu của THT?
Hay cũng cùng ca-líp, cũng mắm xốt...?
NQT
*
Koestler, trong Kẻ lạ tại Quảng trường, viết: Một nhà
văn
76 tuổi, chỉ có hai viễn tượng, prospects, trước mặt:
Được quên trước khi chết,
hay, chết trước khi được quên.
To be forgotten before he
dies, or to die before he is forgotten.
Gấu nhà văn, ngay từ khi nổi
danh với cái nick tên "sa đích văn nghệ", là đã chỉ mong được đời quên
trước khi
chết rồi!
Xạo tổ cha!
Có
lần Gấu kể, là, khi ở trại chuyển tiếp, Transit, Thái Lan, chờ phái
đoàn phỏng vấn, cho
đi tái định
cư một nước thứ ba, Gấu có gặp một tay bộ đội, Bắc Kít, như Gấu. Có khá
nhiều
những tay như thế cùng ở khu trại Chuyển Tiếp, nhưng không thuộc diện
đậu thanh lọc. Họ được nhà nước đưa đi đánh Khờ Me Đỏ, hình như
vậy, Gấu không
nhớ rõ, và bỏ ngũ, qua Thái, vô Trại tị nạn. Ít người qua được thanh
lọc.
Anh ta đang chờ dịp trốn ra Bangkok,
kiếm một công việc gì đó làm, như di dân lậu.
Tay này
đúng là Kỳ Vương của Kỳ Vương, King
of the Kings! Anh ta chỉ dậy
Gấu vài đuờng, toàn tuyệt chiêu, Gấu trở thành "Đả biến thiên hạ vô
địch thủ": Đánh khắp thiên hạ không địch thủ!
Một bữa, anh ta cầm tay Gấu,
coi chỉ tay. Coi một hồi, anh ta phán, ông, về già, nổi tiếng khủng
khiếp lắm, đến
quỉ thần cũng phải giật mình!
Anh
ta nói đúng như thế. Có
thể không đúng từng lời, từng chữ, mà đúng như thế, nếu nói về cái
chuyện quỉ
thần giật mình: Đúng là chữ của anh ta!
I swear!
Gấu
nhớ, là, lúc đó, Gấu buồn
cười quá, bật cười khá lớn; anh ta cũng cười, ông không tin đâu, nhưng
để rồi
xem coi có đúng không.
Bây
giờ thì Gấu tin, và hơi
ngạc nhiên: Chẳng lẽ Gấu có nhiệm vụ, ra đời, là để tố cáo... Con Quỉ
Bắc Kít?
Hà, hà!
[Cái này mô phỏng trường hợp
Solz. vs Lenin. Lenin ra đời là để thành lập Xô Viết. Solz, huỷ diệt
nó].
*
Virginia Woolf là một trong
những tác giả mà Gấu tự mình khám phá ra, chưa từng nghe đến bà trước
đó, đúng
vào lúc Sài Gòn còn đang mê mẩn với những Camus, Sartre… tức là những
nhà văn hiện
sinh, với ý thức nhập cuộc, chứ không phải như đám ngu si Bắc Kít cứ
nghe đến
hiện sinh là nôn mửa vào cuộc đời. Quái đản nhất, là một bà phê bình,
cũng dân
tay ngang, nửa đời nửa đoạn không biết từ đâu nhẩy dù xuống khu vuờn
phê bình văn
học, và thế là viết vung vít, về đủ thứ tác giả, từ tiền chiến tới hậu
chiến, từ
VC qua tới không VC, trừ một điều, không bao giờ nhắc đến tên thằng cha
Gấu,
cho dù chỉ là tình cờ, nhân tiện, một bà như thế mà cũng dám cho rằng
có mùi hiện
sinh, buồn nôn trong VP!
Bất giác Gấu lại nhớ đến cái
tay sinh viên Luật, người Thái, trong lần thanh lọc, để quyết định số
phận của
Gấu, trả nó về với VC, hay là cho nó đi tái định cư một nước thứ ba,
kiếm một
quê hương thứ nhì.
-Này, tao cho mày nói lại. Mày
nổ với tao, mày làm thơ, mày viết văn, OK, mày nói mày viết phê bình,
là mày bịp
tao. Đây nè, hồ sơ ghi mày có cái bằng tú tài, làm sao mày dám viết phê
bình?
Ở nước người, muốn là một nhà phê
bình, thật khó, và cũng thật dễ, nhưng điều kiện tối thiểu, là anh phải
kinh
qua đại học, hoặc lăn lộn trong ngành báo chí, văn học,
thí dụ.
Gấu để ý, đám phê bình gia hải
ngoại đều là tay ngang, thí dụ bà TK, như trên vừa nói, hay nhà đại phê
bình mà
chúng ta thường hay nhắc tới, nhưng cũng ngại nêu tên Người ra ở đây.
Ông này,
Gấu cũng sợ tay ngang. Trước 1975, thì ông còn là con nít. Cách Mạng
thành công,
có được cái bằng của VC, rồi cũng dậy học dậy hiệc, rồi cũng vượt biên
vượt biếc,
qua Tây, đọc vội vàng một tí Barthes tí biếc, rồi sống không nổi, bỏ
chạy qua xứ
Kăng Gu Ru, kiếm được chân dậy tiếng Mít tại một Đại học Úc, và thế là
thành nhà
phê bình!
Khủng nhất, là ông ta dám phán, cả nước Mít mù chữ!
*
Cái khốn nạn nhất của mấy nhà
phê bình Mít, là tật đố kỵ, trong khi nhà văn, và độc giả rất cần đến
họ, nhất
là vào những giai đoạn giao thời, dầu sôi lửa bỏng… Ngay Steiner, tởm
phê bình
gia là thế, mà có dám coi thường vai trò của họ đâu. Chúng ta thử đọc
một đoạn
trong bài viết mở ra tập tiểu luận bảnh nhất của ông Ngôn ngữ và Câm lặng, để
thấy rằng, nhà phê bình cần thiết là dường nào:
Chính
trong cái nội dung thiếu thốn, bất định này mà phê bình nhìn ra chỗ
đứng tuy
khiêm tốn nhưng thật sống còn của nó. Theo tôi, chức năng của nó được
gấp ba.
Thứ
nhất, nó có thể chỉ cho chúng ta cái gì [cần phải] đọc lại, và bằng
cách nào. Tổng
số văn chương rõ ràng là bao la, và sức ép của cái mới thì lại thường
hằng. Người
ta phải chọn, và chính do sự chọn lựa này, mà phê bình tỏ ra hữu dụng.
Điều này
không có nghĩa nó đóng vai trò [phó mặc cho] số mệnh và lọc ra một dúm
tác giả
hay tác phẩm như chỉ có dúm này là truyền thống có giá trị, loại bỏ
những người
khác (dấu hiệu chỉ ra phê bình tốt: nó mở ra nhiều cuốn sách, hơn là
đóng lại).
Điều đó có nghĩa, từ cái di sản rộng lớn, chằng chịt của quá khứ, phê
bình sẽ
mang ra ánh sáng và nhấn mạnh những gì nói với hiện tại, bằng cách nói
thẳng đặc
biệt hay riết róng.
Đây
là khác biệt rõ rệt giữa nhà phê bình và nhà sử văn hay ngữ văn. Với
nhà ngữ
văn, giá trị một bản văn mang tính nội tại, nó có cái mê hoặc về ngôn
ngữ hay
theo kiểu biên niên, độc lập theo một liên quan rộng lớn hơn. Nhà phê
bình, khi
giành phần cho mình thuộc loại uyên bác, về ý nghĩa và sự vẹn toàn của
tác phẩm:
anh ta phải chọn. Và anh ta sẽ nghiêng về những tác phẩm có thể tạo ra
cuộc thoại
với những người đang sống, là chúng ta.
Mỗi
thế hệ có chọn lựa của nó. Có thi ca trường tồn, vĩnh cửu nhưng thật
khó mà có
phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ có "ngày của ông
ta", và Donne, "buổi nhật thực". Hay là, để đưa ra một thí dụ chẳng
liên quan gì tới thói ham mốt này mốt nọ: trước chiến tranh, tại những
trường
Pháp nơi tôi theo học, nói chung là ai cũng coi Virgil như là một kẻ
bắt chước
Homer một cách ngây ngô, bắng nhắng. Tất cả học sinh đều khẳng định với
bạn bằng
một thái độ rất ư là tự tin như thế. Cùng với thảm họa, chuyện thường
ngày về
"cuộc tháo chạy tán loạn", và lưu vong, cách nhìn trên đã thay đổi một
cách triệt để. Bây giờ, Virgil trở nên một chứng nhân thật chín mùi,
thật cần
thiết. Simone Weil và cách đọc ngang bướng sử thi "Iliad", hay
"Death of Virgil" ("Cái Chết của Virgil") của Hermann
Broch, cả hai đều góp phần trong việc tái thẩm định. Thời gian, theo
dòng lịch
sử và với cuộc sống cá nhân của từng con người, đã làm thay đổi cái
nhìn của
chúng ta đối với một tác phẩm, hay là phần chủ yếu của nghệ thuật. Có
thi ca của
những người trẻ, có văn xuôi dành cho những ông già. Bởi vì tiếng kèn
rộn rã của
họ về một tương lai huy hoàng, tương phản trớ trêu làm sao, với kinh
nghiệm
hàng ngày của chúng ta. Những kẻ lãng mạn đâu còn là trung tâm của vấn
đề? Thế
kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, mặc dù ngôn ngữ thường mơ hồ và rắc rối, lại có
vẻ gần
gụi với lời nói chúng ta. Phê bình có thể làm cho những thay đổi do yêu
cầu này
trở thành có ích, loại bỏ những gì không cần thiết. Nó có thể chiêu tập
từ quá
khứ, những gì thiên tài của hiện tại, nhờ vả (đằng sau cái đẹp nhất của
văn
xuôi ở Pháp vào lúc này, là sợi gân của Diderot). Và nó có thể nhắc nhở
chúng
ta rằng, những phán đoán trước sau, này nọ của chúng ta chẳng tuyệt đối
chẳng
vĩnh cửu. Nhà phê bình sẽ "tiên cảm" (feel ahead); anh ta sẽ ngả người
về phía chân trời, và sửa soạn mảnh đất cho những mùa gặt tương lai.
Đôi khi,
anh ta nghe tiếng vọng, khi tiếng nói đã chìm vào quên lãng; hay là
trước khi
nó cất lên. Vào những năm 1920, có một số người đã cảm thấy thời của
Blake và
Kierkegaard đang ở trong tầm tay; hay là 10 năm sau, một số đã nhận ra
sự thực
phổ cập, trong cơn ác mộng riêng tư của Kafka. Đây không phải vấn đề
chọn kẻ thắng,
nó có nghĩa: biết, rằng tác phẩm nghệ thuật tự khẳng định qua một tương
quan phức
tạp, theo nhu cầu, so với thời gian.
Thứ
hai, phê bình có thể kết nối. Vào một thời đại mà sự mau lẹ của truyền
thông kỹ
thuật, nó thực sự che giấu những rào cản chính trị, ý thức hệ thuộc
loại bướng
bỉnh; nhà phê bình có thể xử sự như một kẻ trung gian, và người bảo
quản. Đây
là một phần của công việc của anh ta, để thấy rằng một chế độ chính trị
không
thể giáng yểm một tác phẩm của một nhà văn vào cõi quên lãng và bóp méo
nó, rằng
những cuốn sách [dù có bị] thiêu huỷ, tro than được vun vén, và được
giải mã.
Ngay
cả khi tìm cách tạo cuộc thoại, giữa quá khứ và hiện tại, nhà phê bình
sẽ cố gắng,
giữ cho thênh thang những con đường giao tiếp, giữa những ngôn ngữ. Phê
bình mở
rộng, làm rắc rối đa đoan, bức bản đồ cảm tính. Nó nhấn mạnh, rằng văn
chương
không thể sống, trong cách biệt, trơ trọi, mà trong một môi trường
nhiều ngôn
ngữ, nhiều quốc gia. Phê bình nở rộ, trong tương đồng, theo bước nhẩy
xa, của
giả dụ. Nó biết rằng, những kích động của một tài năng lớn hay một thể
loại thi
ca, trải dài theo những mẫu mã phức tạp của sự phổ biến, truyền đạt. Nó
làm việc
"à l'insigne de Saint-Jérôme" ("dưới huy hiệu của
Saint-Jérôme") (4), biết chẳng có tương đương thực sự, giữa những ngôn
ngữ,
mà chỉ có bội phản; nhưng toan tính chuyển dịch là một yêu cầu hoài
hoài, nếu
bài thơ [được viết ra là để] sống trọn cuộc đời đầy ứ của nó. Cả hai,
nhà phê
bình và nhà dịch thuật, cố làm điều: truyền đạt khám phá.
Trong
thực hành, điều này có nghĩa, rằng văn chương được giảng dậy, và dẫn
giải theo
con đường so sánh. Không làm quen trực tiếp với hùng ca Ý Đại Lợi, khi
phán
đoán Spenser, không nắm bắt được Boileau khi đánh giá Pope, không gần
gụi với
Balzac, Stendhal, Flaubert khi "xem xét" sự thành công của tiểu thuyết
thời Victoria hay của Henry James: như vậy là đọc một cách hời hợt, giả
tạo. Chỉ
có chủ nghĩa phong kiến của những đại học mới chia rẽ thẳng thừng giữa
nghiên cứu
tiếng Anh và Những Ngôn Ngữ Hiện Đại. Thế ra là tiếng Anh không phải là
một
ngôn ngữ hiện đại, có thể tổn thương, và có khả năng hồi phục, tại bất
cứ một
thời điểm nào trong lịch sử của nó, trước sức ép của những thổ ngữ Âu
Châu, của
truyền thống lục địa về phép tu từ và thể loại? Nhưng câu hỏi sắc bén,
chém sâu
hơn là cái kỷ luật mang tính hàn lâm kể trên. Nhà phê bình nào tuyên bố
rằng,
con người có thể biết một ngôn ngữ cho tới nơi tới chốn, rằng việc thừa
kế gia
tài thi ca hay truyền thống quốc gia về tiểu thuyết, vậy là có giá trị,
hay cao
cả rồi; người đó đang đóng mọi cánh cửa, khi đúng ra chúng phải được mở
rộng;
người đó đang làm hẹp cái đầu, khi đúng ra, nó phải được mở ra cho một
thành tựu
rộng lớn, đồng đều hơn. Trong chính trị, chủ nghĩa Sô-vanh [chủ nghĩa
ái quốc cực
đoan] đã rống lên cuộc tàn phá, trận huỷ diệt; nó không có chỗ, trong
văn
chương. Nhà phê bình - lại ở đây, anh ta khác với nhà văn - không phải
là người
đóng trụ trong khoảnh vườn của riêng mình.
Chức
năng thứ ba của nhà phê bình mới thật tối quan trọng. Nó liên quan tới
sự phán
đoán văn chương đương thời. Có một sự khác biệt giữa đương
thời và tức thời.
Tức thời tóm lấy những nhà điểm sách. Nhưng rõ ràng nhà phê bình còn có
những
trách nhiệm đặc biệt với nghệ thuật chính thời đại của mình. Anh ta
phải tra hỏi,
không chỉ chuyện, hoặc là nó trình bầy một tiến bộ kỹ thuật hay một
tinh luyện,
hoặc là nó thêm vô một cú xoắn về văn phong hay chơi một đòn vụng về
lên cân
não thời điểm; nhưng còn về những gì nó đóng góp, hay lấy đi, từ những
tài
nguyên nghèo nàn của đạo đức trí tuệ. Tác phẩm này đề nghị chi, nếu nói
về chuyện
cân đo đong đếm vóc dáng, hình ảnh con người? Đây không phải là một câu
hỏi dễ
nói ra, nó còn dễ bị coi là thiếu tế nhị. Nhưng thời đại chúng ta là
một thời đại
không bình thường. Nó "lao động" dưới sức ép (stress) của phi nhân,
được kinh nghiệm theo một qui mô khổng lồ, đặc thù, và ghê rợn; và khả
năng của
một điêu tàn thì lấp ló chẳng đỗi xa. Người ta thích ban cho mình trò
xa xỉ, là
chùm chăn, đợi thời, nhưng vô phương.
Nhân
Văn
Nhà đại
phê bình, ngoài hai
tuyệt tác, nâng bi ông tiên chỉ và ông Trùm Sáng Tạo ra, là hết!
Buồn
buồn, ông
đọc chơi vài bài ca dao, viết bậy mấy bài giảng về viết là lách, là tự
huỷ, là
với cái búa… là hành lạc trong đau đớn, bất lực.. Trong 10 năm nay, từ
lúc Gấu
ra được ngoài này, ông hình như không đọc gì thêm, chẳng dịch thuật
giới thiệu
nhà văn ngoại quốc nào, có vẻ như ông… mù chữ?
Cũng ra sách này nọ, nhưng toàn
đồ dởm.
|
|