*
Notes

I


1
















Dọn

Tiếng Việt: Cọp và Chó
NHQ VOA
Nhà đại phê bình gọi Gấu là chó, và nhân đó, chửi chó.
Hoá ra là chính Gấu này, cũng tự nhận mình là… chó, như dưới đây cho thấy. Tếu thế.

Chào Mừng Năm Con Chó
Chó Bên Đường

Tôi làm một chuyến đi, để tự mình làm quen với xứ sở của tôi, trên một chiếc xe hai ngựa, với rất nhiều cỏ khô, và một xô nước uống cho ngựa, ở phiá sau xe. Tôi đi qua một vùng đồi, hai bên đường là những nhóm cây thông, con đường dẫn tới một vùng rừng, với những mái rạ lấp ló, ẩn hiện sau lùm cây, và từ mái rạ, những tụm khói bốc lên khiến có cảm tưởng đó là những căn nhà đang cháy. Tôi đi qua những vùng đồng, vùng ao hồ. Thật là thú vị khi cứ đi như thế, mặc tình cho ngựa rong ruổi, và chờ đợi, khi, vượt thung lũng tới, và lại nhìn một làng quê từ từ xuất hiện, hay một công viên, với một điểm trắng của một trang viện ở trong nó. Và đi tới đâu, bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng nghe tiếng chó sủa. Con vật tỏ ra hết sức trung thành, hết sức mẫn cán, với nhiệm vụ của nó. Đó là khởi đầu của thế kỷ. Đó là chấm dứt của thế kỷ.
Tôi không chỉ nghĩ đến những con người sống ở đó, bao nhiêu thế hệ con người, mà còn nghĩ tới bao nhiêu thế hệ chó, đời đời kiếp kiếp chó, cùng rong ruổi với con người, trong cái cuộc đời một ngày như mọi ngày. Và thế là một cái tên bật ra, vào lúc tảng sáng, trước khi lại ngủ trở lại, tự nó gói ghém hết ý nghĩa của nó: Chó Bên Đường. (1)
(1) Czeslaw Milosz: Chó Bên Đường [Road-side Dog, bản dịch tiếng Anh của tác giả và Robert Hass, nhà xb Farrar, Strauss and Giroux, New York]
Đọc, tôi cứ tưởng tượng ra, không chỉ một, mà tới hai con chó bên đường, ở khu miền ngược.
Một, là Nguyễn Chí Thiện, và những tiếng chó sủa có tên là Hoa Địa Ngục.
Và một, Nguyễn Huy Thiệp và những tiếng chó sủa mà Những Ngọn Gió từ đỉnh Hua Tát, mang đi xa mãi xuống miền xuôi.
Ở đây, trên trang Tin Văn, này, cũng chỉ là lập lại những tiếng chó sủa, ở vào lúc tận cùng thế kỷ, và ở đầu thiên niên kỷ...
(1) Bản tiếng Anh
ROAD-SIDE DOG
I went on a journey in order to acquaint myself with my province, in a two-horse wagon with a lot of fodder and a tin bucket rattling in the back. The bucket was required for the horses to drink from. I traveled through a country of hills and pine groves that gave way to woodlands, where swirls of smoke hovered over the roofs of houses, as if they were on fire, for they were chimneyless cabins; I crossed districts of fields and lakes. It was so interesting to be moving, to give the horses their rein, and wait until, in the next valley, a village slowly appeared, or a park with the white spot of a manor in it. And always we were barked at by a dog, assiduous in its duty. That was the beginning of the century; this is its end. I have been thinking not only of the people who lived there once but also of the generations of dogs accompanying them in their everyday bustle, and one night—I don't know where it came from—in a pre-dawn sleep, that funny and tender phrase composed itself: a road-side dog.
Nguồn
*
Muốn dịch cho ra hồn, thì phải có... hồn, mà hồn ở đây, là hồn Việt, nghĩa là phải rành tiếng Việt.
Đã có lần Hai Lúa nói ra cái ý đó, bị một ông phạng, mày đâu có hồn Việt, bởi vì mày không rành văn hóa Việt, chứng cớ là mày chưa từng đọc.. Kinh Dịch!
Ý trên, theo HL, là một điều kiện tối cần thiết, cho bất cứ một người nào làm dịch thuật. Không phải Hai Lúa khẳng định, tao là thằng rành tiếng Việt, văn hóa "nước mình".
Tại sao ông ta lại hiểu "sái" đi một chút? Ấy là vì ông ta đã có sẵn một ý nghĩ nào đó, chắc hẳn là cũng chẳng hay ho gì, về Hai Lúa.
Không phải chỉ ông ta, mà còn rất nhiều "bạn văn" khác nữa.
Lần ra lò cuốn sách "đầu tay" ở hải ngoại, ân cần gửi tặng bạn bè, mấy ông chủ báo, bị ngay một ông phạng. Lúc đầu, HL còn mừng, mình ra sách, thiên hạ đọc, cho vài ý kiến, tốt quá rồi còn muốn gì nữa! Nhưng sau, đọc bài viết, đọc ra cái "tiểu tâm" của ông.
Ông này cay, không phải mới đây, từ thập niên 1960 lận. Y chang ông Mít học trường Tây, nghĩa là cay, không chỉ HL, mà luôn cả đám thuờng được gọi là "nhóm tiểu thuyết mới ở Việt Nam". Trong mục giới thiệu sách báo ở cuối tạp chí ông là "giáo chủ", ông phạng cả đám, về lối viết lảm nhảm, láp nháp, bạ đâu viết đấy, chẳng hiểu thế nào là tiểu luận. Rồi nhân gặp, ông lên lớp Hai Lúa: anh không được đi học một trường dậy viết tiểu luận của Mẽo, như tôi đây. Viết tiểu luận nó phải như thế này này.
Hai Lúa cứ ngớ người ra. Mình đã cẩn thận ghi ở bìa sách là 'tạp luận", vậy mà ông ta cứ bắt phải ghi là... "tiểu luận"!
Cuốn "đầu tay" đó, có tên là Lần Cuối Sài Gòn. Như thế, đây là một tập truyện ngắn. Do mỏng quá, đành phải nhét thêm mấy "tạp ghi văn học" cho nó dầy dầy một chút. Ông không thèm đọc truyện ngắn, lo đọc ba đồ làm xàm, bá láp. Đọc, xong, rồi chửi! Mối thù mấy chục niên, từ hồi còn trẻ, bây giờ tao làm chủ báo, làm giáo chủ một trường thơ, tao mới có dịp phạng cả lũ chúng mày!
Bởi vậy, một khi đã có chút tiểu tâm, là... vứt đi!
Nhìn rộng ra, có thể nói, các nhà văn của chúng ta, hình như người nào cũng có một chút "tiểu tâm", nào đó, khi viết, khi chọn đề tài, khi.... đặt tên cho một nhân vật....
Là nhà văn, là có một cái bệnh, "nào đó", theo Hai Lúa, nói theo kiểu Freud, con người là một sinh vật có bịnh.
Và viết, là một cố gắng làm lành bịnh.
Thay vì viết ra để cho hết tiểu tâm, hết bịnh, mấy ông nhà văn Mít của chúng ta làm cho bịnh nặng thêm lên!
Bởi vậy, Hai Lúa rất nể cái ông bạn văn VC, ở trong nước [lẽ tất nhiên!], bị Hai Lúa "đánh, đau ra trò", mà không giận, năm hết Tết đến, còn viết mail chúc mừng "đại ca"!
Bảnh thật! (1)
VC mà như thế, thà là VC cho...  rồi!
(1) Cám ơn "tiểu đệ", "hiền đệ", "tiểu muội", "xí muội"..., và bằng hữu.
Giá mà không sợ "Không được nhập cảnh vào Việt Nam!", bị đuổi về xứ lạnh, hoặc tệ hại hơn thế, Tết này Hai Lúa đã "xin" về Hà Nội, làm một vài ly,...  thăm "em" đôi câu, mi em một [?] cái, rồi "anh"... đi, [nhại bài hát Hoa Soan Bên Thềm Cũ của Tuấn Khanh].
Được vậy thì còn gì sướng bằng.
Nếu có phải... hồi chánh, cũng đành!
Thân, HL

Tin Văn Cũ

Suốt mấy tuần nay cứ nghe lùng bùng bên tai những tiếng gâu gâu mãi, tôi sực nhớ chuyện ở nông thôn ngày trước.
NHQ Blog VOA

Ui chao, NHQ đọc Tin Văn, ‘nghe lùng bùng bên tai...’  biết đâu lại thành thi sĩ, ‘như Milosz’, thực hiện được giấc mơ thời mới lớn, như có lần Người than thở, giá mà đừng ham cái ghế ngự sử văn đàn, biết đâu đã trở thành một nhà thơ có hạng!
*

Michel Foucault, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, khi được hỏi, tại sao không dính vô (engage) mấy vụ bút chiến (polemics), ông trả lời: Tôi thích bàn luận (discussion), và khi được hỏi, tôi cố gắng trả lời. Nhưng đúng là tôi không khoái dính tới mấy vụ bút chiến. Nếu tôi mở một cuốn sách mà thấy tác giả của nó buộc tội địch thủ, một kẻ tả phái ấu trĩ, tôi đóng liền nó lại. Đó không phải là cách làm việc của tôi. Tôi không thuộc về thế giới những người làm việc kiểu đó. Đây là điều thiết yếu đối với tôi. Toàn thể vấn đề đạo đức được đặt ra. Đạo đức liên can đến việc truy tìm sự thực, và liên hệ với tha nhân. Những câu hỏi và trả lời tùy thuộc cuộc chơi - vừa thích thú vừa khó khăn - trong đó mỗi bên chỉ được dùng quyền của mình do đối phương ban cho, dưới hình thức đã được chấp nhận của cuộc đối thoại. Người bút chiến, ngược lại, tự cho mình quyền ưu tiên. Anh ta chẳng bao giờ bằng lòng hỏi. Đối phương không phải là bạn, partner, trong cuộc truy tìm sự thực, mà là một kẻ thù, một kẻ sai, gây hại, một mối đe dọa. Và anh ta có bổn phận phải tiêu diệt, không cho phép đối phương được quyền thảo luận. Mục đích tối hậu của anh ta không là tiếp cận sự thực khó khăn, được chừng nào tốt chừng đó, mà là chiến thắng sau cùng, của công lý (just cause) anh ta đeo đuổi từ đầu. Kẻ bút chiến tự cho mình cái quyền hợp tình hợp pháp, điều mà đối phương của anh bị từ chối ngay từ đầu cuộc chơi. Theo M. Foucault, bút chiến là hình nhiễu (parasite figure) của bàn luận.
Bút Chiến

Bài viết này, (1), bây giờ đọc lại, Gấu mới nhớ ra là một bài Tạp Ghi viết cho tờ Văn Học, về một Số Tết của tờ báo, và về một bài viết của NHQ, về ca dao, nói về chuyện Vân Tiên núp lùm, chờ trăng lặn để sờ Nguyệt Nga.
Bài viết có vẻ như tiên đoán trận đụng độ sau đó, vào năm 2002, và bây giờ.
Đúng là tránh không khỏi số!
(1) Server cho biết, bài này đang "top", như vậy là độc giả Tin Văn cũng bị dính vô cái chuyện làm xàm này rồi! Đúng như một tay độc giả của Blog NL phán:

Mimi said...

Tớ cũng hay đọc TV của chiến sĩ Trụ. Nói chung vui là chính, vì chửi nhau đấm đá nhau là mình thú. Trụ đọc nhiều, chửi cũng hay, cũng ác. Nhưng với tư cách nhà văn thì các tác phẩm của Trụ đều phò, đọc chả có mẹ gì hay ho.

September 9, 2009 7:12 PM

Lời phán của Bạn, ngược hẳn lại của một ông "bạn cũ" của Gấu, vẫn còn ở Sài Gòn.
Nhà thơ Vương Tân, còn viết dưới cái tên Hồ Nam.

 *

*

Bài viết, có nhiều sai sót về sự kiện.
Nhưng chuyện này "dài" lắm. Để bữa nào rảnh, hầu tiếp. NQT


Dọn
Trường hợp Võ Phiến và cuốn Văn Học Tổng Quan.
Trước 1975, bài viết, có thể độc nhất của tôi, về Võ Phiến, là bài đăng trên trang VHNT của nhật báo Tiền Tuyến, do tôi phụ trách. Vì là một trang báo VHNT cuối tuần, của một tờ nhật báo, cho nên sau đó, tôi quên luôn, và không hề biết, bài sau được tờ Văn moi ra đăng lại. (1)
(1) Có mấy NQT
VP là một trong nhà văn của thời mới lớn của tôi. Cho đến khi tôi tập tễnh làm nhà văn nhà điểm sách, nhà phê bình... thì ông đã ở đằng sau lưng tôi, cùng với thời mới lớn đó rồi.
Ra tới hải ngoại, ông lại trở thành một vấn đề lớn, đối với tôi, khi phải nhìn lại những ngày tháng cũ, người cũ, cuộc chiến chẳng bao giờ cũ.
Trong bài viết Nhà văn Bình Định, tôi đã nêu ra một phần của vấn đề.
Nay xin viết rõ ràng hơn.
Bài viết này sẽ cùng nằm trong mạch viết về Mai Thảo..
Hồng 3
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một phần là nhờ ông anh rể, Nguyễn Hoạt.
*
Trước 1975, tôi chưa viết về Mai Thảo, điều này chắc chắn, và tôi tin rằng MT cũng biết như vậy. Có thời gian tôi thường xuyên phải gặp ông, ít ra mỗi tháng một lần, khi phụ trách mục Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề. Nhưng, như có một mật ước giữa ông và tôi, đừng nói chuyện văn chương khi gặp và, nhất là, đừng bao giờ viết về Mai Thảo!
Bài viết đầu tiên về Mai Thảo ở hải ngoại, trên mục Tạp Ghi của NMG, được viết, khi tôi nghe tin ông nằm nhà thương, chờ chuyến đi xa, và tôi nghĩ, bây giờ viết về MT được rồi.
NMG đã đem bài viết vô nhà thương, cho ông đọc, và ông gửi lời cám ơn tôi, qua NMG, kèm nhận xét, bây giờ NQT viết khác hẳn ngày trước. Khác, theo nghĩa đọc được. Trước 1975, tôi nghe qua người khác, ông không chịu nổi thứ văn làm mới văn chương của tôi.
Sau khi ông mất, tôi viết thêm một bài tưởng niệm về ông, nhân biết được, ông còn làm thơ, và ký bút hiệu Nhị.
Chắc là từ Nhị Hà.
Nhị
*
Hận thù gì cũng có thể xóa bỏ, trừ hận thù đám chống cộng điên cuồng hải ngoại, chân lý 'sông có thể cạn' của đám Miền Nam bỏ chạy làm Gấu nhớ tới lời cầu nguyện của Wiesel, sống sót Lò Thiêu, Nobel hòa bình, khi ông trở lại nơi chốn cũ, lần tưởng niệm thứ 50: Thượng Đế đầy yêu thương và nhân từ, xin Ngài đừng tha thứ cho những kẻ đã gây tội ác ở đây. (1)
(1) Chi tiết này Gấu đọc trên tờ Time, tưởng niệm 50 năm Lò Thiêu.
Hai trường hợp chẳng mắc mớ gì đến nhau, không hiểu sao lại quàng lấy nhau, Gấu cứ tự hỏi mãi, và sau cùng ngộ ra rằng thì là, có vẻ như Gấu này cũng muốn cầu xin Thượng Đế một điều, xin Ngài đừng bao giờ  mở lòng nhân từ, và 'cho phép' cái đám bỏ chạy khốn kiếp đó, xóa đi lòng hận thù của chúng, đối với đám Ngụy, và chế độ VNCH!



NHQ Blog VOA
Nhà đại phê bình, viết một bài thật công phu, lôi hết từ điển này từ điển nọ ra, để tỏ ra là mình uyên bác, chỉ để gài một câu chửi xỏ xiên thằng cha Gấu, thì thật...  chó quá. Ông làm nhục không phải chỉ mình ông, với cái tít 'lại' [lại bị đuổi ra khỏi nước], mà còn làm nhục chính bài viết thật công phu của ông.
Chán thiệt.
Đây là đòn "gậy ông đập lưng ông", nức tiếng giang hồ của dòng họ Mộ Dung đất Cô Tô.
Hay ông cũng là một hậu duệ của Mộ Dung Công Tử?
Nhiệm vụ của nhà phê bình: Ông muốn độc giả đọc, bài viết công phu, hay câu chửi xỏ của ông?
Bởi vì một độc giả, nếu tấm tắc với bài phê bình, biên khảo công phu, thì phải tởm câu chửi xỏ; và ngược lại.
Căng thật!

 

Nạn nhân bắt cóc Dugard lên tiếng
Jaycee Dugard, nạn nhân người Mỹ bị cóc, lần đầu tiên phát biểu công khai kể từ khi người ta tìm thấy cô sống cùng với những người bị cho là đã bắt cóc cô cách đây 18 năm.
BBC

Câu trên, bị thiến chữ 'bị".
Câu dưới, "bắt".
Đây là do coi thường độc giả, không chịu coi lại bài viết, trước khi post.
*
Khi một ông vua Hùng vương nào đó muốn truyền ngôi lại cho con thì ông lựa chọn ra sao? Chọn đứa nấu ăn ngon nhất! Kết quả là cái kẻ nhờ tiên hay Bụt gi đó chỉ cách nấu bánh dày và bánh chưng đã chiến thắng và dành (1) được ngai vàng
NHQ Blog VOA.
(1)
Giành, mới đúng chính tả.
Giành ở đây là giành giựt, khác dành dụm, để dành, dành cho [ai đó, cái gì đó...].
Nhà đại phê bình, giáo sư Đại Học Úc, thành ra không ‘rành’ tiếng Việt.
Thảo nào ông chê, cả nước Mít mù chữ.
Tụi nó mù chữ, đâu có đọc được tên ông đại phê bình trên visa, thành ra nó đuổi, là đúng rồi!
*
Văn hóa Mít, bị ám ảnh bởi cái đói, chứ không phải miếng ăn.
Văn hóa Bắc Kít, đúng hơn.
Đàng Trong không hề bị ám ảnh bởi cái đói, thành ra có hai thứ văn hóa, “món ngon Hà Nội”, Miền Bắc, và ,“món lạ Miền Nam”.
Đói quá, có tí gì ăn, thì bầy đủ kiểu, đủ cách nấu nướng, vừa ngon miệng, vừa no con mắt.

Cái Ác Bắc Kít là do Cái Đói Bắc Kít mà ra.  
Anh Tẫu, sứ Tầu, nhìn bướm cô lái đò, nhìn ra cả một vấn nạn, của cả một miền đất:
An Nam nhất thốn thổ - [đồng bằng sông Hồng, cái delta, cái số ta, nhỏ xíu, 'bờ khe hạ' [chữ của nhà thơ Trần Hoài Thư], nhiều hơn ruộng - biết bao con người cầy!
*
Cái vụ Hùng Vương truyền ngôi này, chưa chắc đã liên quan tới "ăn nhậu" mà tới trời đất, càn khôn, công cha nghĩa mẹ….
Có lẽ cũng nên trích dẫn mấy dòng sau đây, để ông đại phê bình thưởng lãm, bởi vì có thể ông quên mất lịch sử Mít rồi cũng nên!

Sự tích bánh chưng, bánh dầy
Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành."
Nguồn net
Như vậy, truyền thuyết này cũng liên quan đến cái sự sợ đói của Mít, chứ không phải cái sự ham ăn:
"Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người..."
Nên nhớ, cái câu chào hỏi của Mít Bắc, là, "Ăn cơm chưa?", thay vì "Hi, Good Morning, Hw R U, Bonjour.... "
Ngày đẹp, buổi sáng đẹp cách mấy, mà bụng đói, thì cũng đếch đẹp!

 

Cả nhân loại, chứ không riêng gì Mít, mê ăn, và đưa nó lên thành một nghệ thuật, hay dùng chữ của nhà đại phê bình, đưa nó vào văn hóa. Khi còn mê Chợ Cá và tự nguyện hầu dưới trướng Sến Cô Nương, Gấu có đi một đường lèm bèm về chuyện này và được Sến Cô Nương, không những gật gù, mà còn ban cho nó một cái tên thật tuyệt vời.
Bài viết sau được Sến cô nương để chung vào một bộ, bộ ba, đó là lần đầu tiên, tên của Gấu được ở kế bên tên của ông tiên chỉ.

12.5.2002
Lê Minh Hà, Nguyễn Quốc Trụ, Võ Phiến
Mùa này rau cỏ... | Miếng cơm, manh chữ | Ăn... mùi | Cách ẩm thực
[Note: Cái link bấm, chỉ bật ra có bài viết của LMH]


Trả lời phỏng vấn, về chuyện phải từ bỏ đất nước, và quan trọng hơn, phải từ bỏ tiếng mẹ đẻ, nhà văn Romania, Cioran cho biết: phải viết văn bằng tiếng “ngoại” là một tai nạn lớn lao đối với một nhà văn. Ông kể hai kinh nghiệm, tưởng như chẳng liên hệ, về chữ viết “ngoại”, và về miếng ăn “ngoại”.
Cho tới năm 1947, ông vẫn viết văn bằng tiếng Romania. Tới bữa đó, ông tính dịch Mallarmé sang tiếng Romania. Bất thình lình, ông tự hỏi chính mình: “Thậm vô lý! Ích chi đâu, khi dịch Mallarmé sang một thứ tiếng mà chẳng ai biết?” Thế là, tôi từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Tôi bắt đầu viết văn bằng tiếng Tây. Thật trần ai khoai củ. Viết văn bằng một ngôn ngữ khác là một kinh nghiệm đáng sợ. Người ta phải mầy mò với từng chữ. Khi viết bằng tiếng mẹ đẻ, tôi cứ thế mà viết, giản dị như vậy đó. Chữ viết không có quyền độc lập, đối với tôi (Les mots n’étaient pas ‘indépendants’ de moi). Khi viết văn bằng tiếng Tây, mấy con chữ như thách đố tôi: chúng như ở trong những xà lim (cellules), và tôi phải nhặt ra từng con: nào tên này, nào tên kia, ra đây biểu!
Kinh nghiệm đó, theo ông, y hệt kinh nghiệm về miếng ăn, cũng ngày đầu tới Paris. Lần đó, ông trọ tại một khách sạn nhỏ, khu ‘người em xóm học’ (khu Latinh). Bữa đó, ông xuống nhà gọi điện thoại, và thấy nhân viên coi khách sạn, bà vợ, và ông con trai: cả ba đang sửa soạn bữa ăn, họ như đang sửa soạn kế hoạch cho một trận đánh! Tôi sững người: ở Romania, tôi luôn luôn được nuôi ăn như một con vật, chẳng thèm để ý tới “ăn nghĩa là gì”. Ở Paris, tôi mới nhận ra ăn là một nghi lễ, một hành động văn minh, gần như xác định một thái độ chính trị.


Anthropologists have a fatal tendency to decide, without much evidence, what made us human – we have been the upright ape, the grasping, the naked (or, in one recent volume, the well-dressed) one; the handy, the thinking, the babbling, the dishonest, the co-operative and more – and now we are the ape that bakes, barbecues, blanches, boils, broils, braises and browns (Nigella Lawson, quoted on the cover, finds it "absolutely fascinating").
Chúng ta, bây giờ là một thứ khỉ, gấu, vượn biết.. nấu ăn!
Chính là do nấu ăn mà chúng ta biết chúng ta là con người.
Nhưng phải một ông "nhân chủng học"
(anthropologist), như Lévi-Strauss, thì mới nhìn ra nổi cái tam giác được ông gọi là tam giác bếp núc.

Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss.
Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.


Mít Bắc không chỉ bị ám ảnh bởi miếng ăn, mà còn bởi miếng thịt kẻ thù nữa. Chính là do thèm thịt kẻ thù, mà họ rất mê món mì gói. Thảo Hảo đã từng đi một đường về cái vụ đam mê ăn mì gói này, trên talawas, và, đọc, thú quá, Gấu bèn đi một đường tụng ca vừa mì gói, vừa tác giả bài viết về mì gói. Bèn gửi cho Sến Cô Nương. Sến gật đầu, cho đi trên Chợ Cá, nhưng sau đó, giận dữ gửi mail, ra lệnh, lần sau, đừng có làm như thế nữa.
Ấy là vì, Gấu sau khi gửi cho Chợ Cá, bèn post trên Tin Văn, và đúng vào lúc, Sến tính đi trên Chợ Cá, thì thấy nó đã chình ình nằm trên Tin Văn.
Note: Policy của Chợ Cá, là, không bao giờ đăng bài đã đăng ở nơi khác. Khác hẳn Tin Văn, thấy bài hay ở đâu là bệ về, sợ, độc giả Tin Văn bỏ lỡ một cơ hội đọc.
Hình như nhà đại biên khảo, cũng đã từng 'dính trấu', một cú tương tự, nhưng 'nặng đô' hơn?
 


Trên Talawas mới đây có bài viết của Thảo Hảo, về mì gói. Không biết tác giả "mết" mì gói, hoặc "mết" viết về mì gói, từ hồi nào, nhưng không thể trước 1975 được, tôi đoan chắc như vậy. Và chuyện, nó trở thành một món "quốc hồn quốc tuý, vực dậy cả một dân tộc", lại càng là chuyện "về sau này".
Nhân đây, cũng xin được vun xới thêm chút tình cảm, xung quanh gói mì, và cùng với nó, là nỗi băn khoăn "bạn hay thù", không phải "với" mì gói, nhưng mà là "giữa" những người đã từng xơi mì gói.
Khi mì gói lần đầu tiên xuất hiện tại miền nam, vào những năm chiến tranh, tôi còn nhớ, một "bạn văn", ký giả LR, khen "um" lên, "đả biến thiên hạ vô địch thủ", "số một", và ký giả Ba Tê lắc đầu, "thua phở xa"! Ông giải thích, lẽ dĩ nhiên thua phở, đủ mọi thứ thua, nhưng "nhất là ở chỗ này: với phở, bánh và nước quyện vào nhau; với mì gói, mì và nước không làm sao làm được chuyện, nói theo ngôn ngữ bi giờ, "giao lưu hòa giải".
Ký giả LR vốn có thời ở trong đơn vị tác chiến. Có lần, ngồi ăn sáng tại Quán Chùa, đường Tự Do Sài Gòn (trước 1975), nhân nói chuyện sách, ông kể trong một chuyến hành quân tại miền bắc, ông "lạc" vào một căn nhà thật nhiều sách, và khi ông kể thêm, về vị trí, khu vực hành quân, căn nhà, cách bầy biện... một "bạn văn" ngồi cùng bàn vỗ đùi đánh đét, "Mày vô đúng nhà tao rồi!"
Hoá ra là "căn nhà vùng nước mặn"!
Với người lính tác chiến, mì gói là "số một", so với ba thứ lương khô khác. Cứ thử tưởng tượng, ngồi bên mì gói, trong một khung cảnh đầy sách như trên, thì "ai bảo hành quân là khổ, hành quân sướng lắm chứ!"
Người thứ nhì nức nở ngợi ca mì gói, với tôi, là ông xếp "bất đắc dĩ", và cũng thật ngắn ngày, thời gian mới tiếp quản thành phố Sài Gòn. Quá ngắn ngày, nhưng tôi cũng có quá đủ thời gian để thông cảm với những ngày tác chiến, những ngày ở rừng của ông.
Tôi không hiểu "hiện thực" cả nước mết mì gói đó, có liên can tới hiện thực cả nước "mết" chiến tranh, như nhận định của một tác giả nước ngoài (nhà văn, triết gia người Pháp, André Glucksmann), khi ông cho rằng, "họ" (ông muốn nói Cộng Sản Miền Bắc) bị kết án phải gây chiến tranh, như là "yếu tính" của họ [của một miền đất?].
Càng nữa, có khi chỉ vì được nuôi ăn "như heo", nên có mì gói thì quí quá cũng nên?...
Nguyễn Tuấn Anh (1)
Ghi chú:
1. Từ "mết", tôi mượn của PXN, lần ghé Hà Nội. Ông bảo tôi: Thế là bạn "mết" em rồi!
2. Ý nghĩ "nuôi như heo", tôi mượn của Cioran, trong bài "Miếng Cơm Manh Chữ", đã đăng trên Talawas.
3. André Glucksmann, thuộc trào lưu "triết học mới", trong những năm 1970; tác giả cuốn "La Cuisinière et le mangeur d’hommes, Essai sur l'État, le marxisme, et les camps de concentration" ("Bếp ăn và kẻ ăn thịt người, Luận về Nhà nước, chủ nghĩa Marx, và những trại tập trung", nhà xb Seuil, 1975). Ông còn là một trong những thành viên của Ủy Ban kêu gọi "Một Chiếc Tầu Cho Việt Nam", thời gian 1979, gồm Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, Raymon Aron, và một số thành viên khác như Bernard Kouchner, người sáng lập tổ chức "Y Sĩ Không Biên Giới".

(1) Nick của Gấu, khi viết cho Vấn Đề, là, Tuấn Anh.
Cũng là một cách tưởng nhớ tác giả Căn nhà vùng nước mặn


Hoặc như năm ngoái, tôi được vài thân hữu cho biết Talawas có chuyển nguyên một tập truyện của tôi, Lập Đông (Văn, Saigon, 1972), sang dạng digital và đưa lên Web. Tôi nghe, cảm động, vào xem, nhận thấy có vài chi tiết người đánh máy tự ý thêm vào; tôi có viết thư cho người chủ trương, sau khi cám ơn (mặc dù chẳng ai hỏi xin phép mình để sử dụng tác phẩm của mình), có đề nghị xin sửa lại cho đúng với bản in. Thư đi, đã lâu rồi, không nghe hồi âm.
Trùng Dương. Nguồn: Tiền Vệ
Lại đâm bực bà chị Sến!
Nhưng, cũng...  chiến lợi phẩm, đâu còn là của bà TD?
V/v tìm tài liệu nghiên cứu văn học Miền Nam trước 1975. Đâu cần thư viện Mẽo. Đến nhà mấy ông như Đỗ Lai Thúi, hay bất cứ ông VC nào đã từng vô Sài Gòn những ngày sau 30 Tháng Tư là có đủ hết.
NQT
Note: Từ "cảm động", "đắt" quá! Chỉ nội từ đó, đủ "cứu tử" cả một nền văn học Miền Nam. Cái còn lại, thí cô hồn!
*
Mặc dù Cộng sản Việt Nam hô hào đốt sách để thanh tẩy “tàn dư Mỹ Nguỵ” từ ngay sau khi chiếm miền Nam, kho tàng văn hoá phẩm của miền Nam thực ra đã được “tẩu tán” ra nước ngoài, đặc biệt tại Mỹ, từ lâu rồi. Trước thời Internet, những văn hoá phẩm này nằm trong hai thư viện lớn bên Mỹ, đó là Thư Viện Quốc Hội ở Washington, D.C. và thư viện Kroch Asia thuộc hệ thống thư viện của Đại học Cornell ở Ithaca, New York. Muốn tham khảo những tài liệu này ta phải tới tận nơi.
TD
*
Làm gì có chuyện tẩu tán. Thư viện Mẽo sưu tầm, thu gom văn học Miền Nam Việt Nam là việc của họ đối với bất cứ một nền văn học, đề phòng chuyện, vì một lý do nào đó, nó đột nhiên biến mất.
Không ai có thể ngờ trước được vụ phần thư 30 Tháng Tư của VC. Vụ Kinh Tế Mới, đánh tư sản mại bản, và Lò Cải Tạo.
Đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, đâu phải chuyện ăn cướp?
Đâu phải chuyện huỷ diệt cả một nền văn minh, văn hóa?  
Về cái vụ vô thư viện Mẽo này, Gấu đã từng đi một đường trên Việt Mẹc, do ông bạn quí làm phó tướng, dưới quyền thượng tướng Trần Độ [ấy chết xin lỗi Trần Đệ]. Nhớ, khi đó, chắc là lệnh trên, ông bạn quí của Gấu yêu cầu, cố kiếm được nguyên bản tiếng Anh bài Phượng Hoàng thì thật tuyệt. 
Nhật Ký Tin Văn

(**) Sau khi bài viết trên được phổ biến, tôi có nhận được điện thư của một người trong nhóm Talawas, xin lỗi về sự sơ sót, và hai bản điện tử truyện ngắn nhờ tôi xem lại. Tôi xin ghi nhận thiện chí của Talawas.
Trùng Dương: Blog NXH & Bạn hữu VOA

Note:
1. "Điện thư của một người..." là do đọc bài viết của TD, hay là đọc mẩu trên, của Tin Văn?
2. Cái phần văn học miền nam trên talawas, là cũng được tự ý post, vì mục đích "cứu tử một nền văn học", không cần xin phép các tác giả?

… cũng chẳng muốn được tái sinh thành người đàn ông da trắng giàu sang quyền lực như Bush cha/Bush con hoặc như mẹ Teresa suốt đời cần nhiều người bất hạnh để săn sóc, mục đích sau khi chết được vào nước Chúa sống đời đời.
Lê Thị Thấm Vân, Talawas

Note: Bà này, bài này, nhảm quá!
Làm sao bà biết
"mẹ Teresa suốt đời cần nhiều người bất hạnh để săn sóc, mục đích sau khi chết được vào nước Chúa sống đời đời"?
*
dẫu môi còn ngọt, đầu vú còn hồng thắm,

"Cái này", thì Gấu làm sao biết?
*
Cũng một thứ "Vượt quá...", chăng? NQT

*
*

Mother Teresa in a Calcutta orphanage, 1979.

Mother Teresa's Crisis of Faith

By David Van Biema
Thursday, Aug. 23, 2007
Jesus has a very special love for you. As for me, the silence and the emptiness is so great that I look and do not see, listen and do not hear.
— Mother Teresa to the Rev. Michael Van Der Peet, September 1979
Chúa Giê Su có một tình yêu đặc biệt cho bà Thấm Vân.
Còn với tôi, sự im lặng và trống rỗng thì quá lớn lao đến nỗi tôi nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe.
*
Phùng Tường Vân nói:
19/10/2009 lúc 1:20 sáng
@ bài thơ đang đẹp…
sao bỗng dưng lại có “bush lớn, bush nhỏ…” mọc chen vào, tiếc quá!
talawas

Note: Khóm lớn, khóm nhỏ, Bush cha, Bush con tranh nhau chen vào... mà.. tiếc quá ư?
Hay chỉ mê thứ... bạch bản? NQT


Dọn

Đi và viết

Lại nhớ, một lần ngồi nói chuyện phiếm ở Paris, nhà văn Mai Thảo khoe là, sống ở California, nhưng ông thường bay đến các tiểu bang khác ở Hoa Kỳ để thăm viếng bạn bè, thỉnh thoảng được một số ca sĩ và nhạc sĩ thân quen cho tháp tùng sang Úc, Tân Tây Lan hay một nước nào đó ở châu Á để rong chơi; riêng vào mùa thu, ông thường bay sang Pháp và châu Âu để ngắm lá vàng và nhớ lại những trang thơ văn thật đẹp ông đọc và yêu thích thời thơ ấu.
NHQ Blog VOA.

Mai Thảo “đi”, và “viết”, theo như Gấu được nghe lại, thường là do được mời, khỏi phải trả tiền vé, thường là khứ hồi. VL từng “nói đùa”, Mai Thảo, do không biết lái xe, và do cần người mời uống rượu, cho nên đã từng ban cho rất nhiều ông tài xế, và những vị trả tiền rượu cho ông, một chân trong chiếu văn.
Tất nhiên, những người này, cũng phải biết viết một tí ti, theo cái kiểu những nhà văn tài tử, “amateur”, ngày xưa, khi ta còn bé, ta mê văn chương, nhưng ta còn mê mải sống, lo sống, cho đến khi mất nước, bỏ chạy ra nước ngoài, công chuyện làm ăn đã ổn định, bèn viết văn, và uống rượu, nhất là, uống rượu có một ông bạn ngồi cùng bàn là nhà văn Mai Thảo thì còn gì hãnh diện bằng!
Gấu đã từng kể là, suốt thời gian những ngày ở Sài Gòn, gặp Mai Thảo cũng đâu có ít, vậy mà chưa từng hầu chuyện văn chương với Người một lần nào. Cũng có chạy qua cửa hàng văn chương đôi ba lần, nhưng “thực sự lâm trận”, never!
*
Cái vụ "đi và viết" này, nguồn gốc của nó, liên quan tới... một vì thiên sứ, như của… Sến Cô Nương, [hình như không phải?], chứ không phải cái kiểu "đi và viết", như được mô tả trong bài blog, với những câu phán rất ư là khinh thế ngạo vật, của ông tiên chỉ, về Tản Đà, [‘Mới từ Hà Nội vào Nam cụ đã khớp!’] hay của ông Mai Thảo về Nguyễn Tuân [“Đi như vậy mới gọi là đi, chứ đi như ông Nguyễn Tuân ngày trước thì ra cái đếch gì!]

Post sau đây, một đoạn của Steiner [lại Steiner, lại Faulkner!], để chúng ta nhân đó, lèm bèm về những chuyến đi.

Tờ Granta cũng đi một số đặc biệt về Đi và Viết, trong, có viết về những cuộc bỏ phiếu bằng chân của thế kỷ hung bạo: Đi, để sống sót.

History has seen the unending application of reciprocal loathing to motives often trivial and irrational. At a lunatic spark, communities, such as in the Balkans or throughout Africa, after having lived together over centuries or decades, can explode into apartheid and genocide. Trees have roots, men and women have legs. With which to traverse the barbed-wire idiocy of frontiers, with which to visit, to dwell among the rest of mankind as guests. There is a fundamental implication to the legends, numerous in the Bible, but also in Greek and other mythologies, of the stranger at the door, of the visitor who knocks at the gate at sundown after his or her journey. In fables, this knock is often that of a concealed god or divine emissary testing our welcome. I would want to think of these visitors as the truly human beings we must try to become if we are to survive at all.
It may be that the Jew in the Diaspora survives in order to be a guest - so terribly unwelcome still at so many shut doors. Intrusion may be our calling, so as to suggest to our fellow men and women at large that all human beings must learn how to live as each other's 'guests-in-life'. There is no society, no region, no city, no village not worth improving. By the same token, there is none not worth leaving when injustice or barbarism take charge. Morality must always have its bags packed. This has been the universalist precept of the prophets, of Isaiah, Deutero-Isaiah and Jeremiah in their ancient quarrel with the kings and priests of the fixed nation, of the fortress-state. Today, this polemic underlies the tensions between Israel and the Diaspora. Though the thought must, like the ritual name of God, be unspeakable, the greater verity is that Judaism would survive the ruin of the state of Israel would do so if its 'election' is indeed one of wandering, of the teaching of welcome among men, without which we shall extinguish ourselves on this minor planet. Concepts, ideas, which exceed in strength any weapons, any imperium, need no passports. It is hatred and fear which issue or deny visas. I have felt more or less at home - the Jew is often a polyglot almost unawares - wherever I have been allowed a table to work at. Nihil alienum, said the Roman playwright. 'Nothing human is alien to me.' Or to put it another way: what other human presence can be stranger to myself than, at times, I am?
G. Steiner: Errata
Một đoạn ngắn, trên, có thể đọc song song suốt chiều dài lịch sử cuộc dựng nước Mít!
Đoạn đầu, nêu lên vấn nạn:
thù ghét đưa đến chém giết lẫn nhau, thường rất...  khơi khơi. Các nước vùng Balkans hay toàn xứ Phi Châu sống bên nhau hàng ngàn đời, bỗng một bữa ngủ dậy, bèn làm thịt lẫn nhau!
Cái đoạn sau là nói đến những vì thiên sứ mang "tin lành" từ Miền Bắc, tới Miền Nam, nước nhà độc lập thống nhất rồi, và, bất thình lình, bỗng làm thịt thằng em Nam Bộ!


Dọn

Kinh nghiệm viết văn: Viết và lách
NHQ Blog VOA

NHQ, thường vẫn vỗ ngực xưng tên là nhà phê bình, chưa từng viết văn bao giờ, theo nghĩa sáng tác, [làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài], thành thử ông khó, có thể nói, "vô phương", hiểu được cái sự ảnh hưởng giữa các nhà văn, giữa viết và lách.

Viết văn là phải có thầy, không có thầy là không thể nào viết văn được. Đây là một trong ba búa TGK mà nhà thơ TTT truyền lại cho Gấu.
Muốn “lách”, cũng khó lắm, chứ không dễ đâu, và đây là hạnh phúc, niềm tự hào, lòng biết ơn của một nhà văn, khi tìm ra được vị thầy của mình. Không phải như ông viết:

Mới thoát khỏi ảnh hưởng của Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng lại đụng phải Tolstoi; thoát khỏi ông Tolstoi, lại đụng phải ông Dostoievski; thoát khỏi ông Dostoievski, lại đụng phải ông Kafka; thoát khỏi ông Kafka, lại đụng phải ông Marquez; thoát khỏi ông Marquez, (1) lại đụng phải ông Borges.
Viết phê bình cũng thế.

Mới thoát khỏi ảnh hưởng của ông Hoài Thanh đã mừng húm, tưởng mình sẽ được tự do phơi phới một đời, ai ngờ lại đụng phải ông Roland Barthes; mới né ông Roland Barthes thì lại đụng ngay chân của ông Michel Foucault; đang lúc tưởng tượng thoát khỏi cả ông Barthes lẫn ông Foucault thì lại đụng cái móng của ông Jacques Derrida và ông Jacques Lacan. Ở đâu cũng đầy đại thụ phủ bóng rợp cả một góc trời.
Không có nhiều ảo tưởng, nhưng cũng không thể bỏ cuộc. Bỏ cuộc là tự sát. Còn viết là còn phải lách. Lách được chút nào là mừng chút ấy.

Bởi vì ông không sáng tác, nên mới dám viết ẩu, theo kiểu "xóa sạch truyền thống": Thoát khỏi ông Marquez (1) lại đụng phải ông Borges!

(1) Tên của ông này là Garcia Marquez, tên kép, gồm hai chữ. Như Văn Cao, Hồng Nhung, Bích Khê... thí dụ.
Gọi Cao không, thì bố ai biết Cao nào! [Văn Cao & Nam Cao]

Ấy là vì, “lách”, mượn chữ của NHQ, chính là “viết bậc hai”, nhờ “viết bậc một” mà có được.
Trên Tin Văn có vài bài viết, liên quan tới vấn đề này.

Kafka và những người đi trước ông
Borges
Nước Cờ Hư Trúc
NQT
Ảnh hưởng
Rushdie

Viết & lách, trong chính trị, và trong văn chương, khác hẳn nhau. NHQ "đọc lộn", "misreading", thành ra mới ghép thành một!
Viết & lách trong chính trị liên quan tới kiểm duyệt, và, nếu kiểm duyệt có ảnh hưởng gì tới văn chương, là theo nghĩa của Borges:
Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ
.
["Censorship is the mother of metaphor."]
Nhờ nó mà văn chương đẹp thêm lên!
Nhà văn nói được điều mình muốn nói, mà không sợ bị VC đem ra làm thịt, thí dụ!
Còn chuyện nhà văn "lách" ông thầy, là phải hiểu theo nghĩa, vượt thầy, làm thịt ông thầy của mình!
Phùng Phật Sát Phật, là vậy!
Trong văn chương, không hề có chuyện,
"Mới thoát khỏi ảnh hưởng của Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng lại đụng phải Tolstoi". Bởi vì, một nhà văn đệ tử, nếu nhận Nam Cao là thầy, [theo nghĩa, cái mình viết ra, có mùi Nam Cao], thì anh ta, chị ả phải cố mà vượt Nam Cao, tìm ra, trong Nam Cao, những cái mỏ, những vùng đất mà Nam Cao chưa từng để mắt tới, chưa từng khai phá...
Bởi vậy mới có câu, "Những tuyệt tác văn chương mà người đời chưa biết tới, đếch có."

Ông đại phê bình, viết kiểu này, chỉ bịp được dân nghiệp dư, tài tử!
Gặp dân nhà nghề, là họ biết tỏng, bụng ông lỏng chữ! NQT
*
Có lẽ bởi vì ‘văn chương hạng nhì’ là thứ thường rất dễ bị xào, luộc, đánh cắp nhãn, và bởi vì có rất nhiều tác phẩm chỉ vươn tới đỉnh cao của chúng, là ‘hạng nhì’, thành thử người đời thường dùng nó - ý tưởng về ảnh hưởng - để buộc tội, hoặc chê bai tác phẩm của nhà văn. Vả chăng, biên giới giữa ảnh hưởng và bắt chước, mô phỏng [imitation], và ngay cả giữa ảnh hưởng và đạo văn, càng về những ngày sau này càng trở nên mờ nhạt. Cách đây hai năm, nhà văn nổi tiếng người Anh, Graham Swift đã bị một nhà khoa bảng hắc ám [obcure] người Úc ban cho cái tội  rất gần với tội đạo văn, rằng cấu trúc đa giọng trong cuốn được giải Booker của ông là “The Last Orders” [nghĩa đen: những mệnh lệnh chót; “order” thường được sử dụng khi gọi món ăn, bản tiếng Pháp dịch là Chầu Đãi Chót, La Dernière Tournée, Gấu tôi chưa đọc cuốn sách nên không dám dịch ẩu cái tựa], “chủ yếu mà nói, là đã vay mượn” từ “Khi tôi hấp hối”, “As I Lay Dying”, của William Faulkner. Báo chí Anh bèn mượn gió bẻ măng, biến câu chuyện thành một xì-căng-đan văn học, biến Swift thành một tay đạo văn chính hiệu con nai vàng, biến những người chống đỡ  bảo vệ ông thành những kẻ đã tỏ ra “nhân nhượng” đối với ông, mặc dù, và có lẽ, chính Swift đã nói ra, ông ảnh hưởng Faulkner, luôn cả chuyện, giọng kể ở trong hai cuốn, tuy không hoàn toàn giống nhau y chang, nhưng đọc cuốn này là gợi nhớ tới cuốn kia. Sau cùng, những sự thực đơn giản như thế khiến vụ xì-căng-đan xì hơi, nhưng cũng chỉ sau khi Swift đã phải chịu đựng những cú đòn hội chợ của đám báo chí.
Thú vị là, khi cho xuất bản cuốn Khi tôi hấp hối, Faulkner, chính ông, cũng bị buộc tội vay mượn cấu trúc từ một cuốn tiểu thuyết xuất hiện trước đó, The Scarlet Letter, [Lá Thư Đỏ] của Nathaniel Hawthorne.
Cú quật ngược lại của ông, đúng là một câu trả lời đẹp nhất mà người ta có thể nghĩ ra được, vào trường hợp này: rằng, khi tớ đang ở trong tình trạng thật dễ dàng bị tẩu hỏa nhập ma, cố nặn ra cho được, đứa con mang nặng đẻ đau, tớ vớ bất cứ thứ gì tớ cần, từ bất cứ xó xỉnh nào mà tớ có thể kiếm thấy, và tớ tin rằng, một hành động vay mượn như vậy là hoàn toàn được phép đối với bất cứ một nhà văn nào.
Rushdie
: Ảnh hưởng
*

Trường hợp trò vượt thầy, rõ nhất, là giữa
Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez, và Absalon, Absalon! của Faulkner
Cuốn của trò, hiện đang được ca ngợi, ‘tạo vóc dáng thế giới’, với hàng triệu triệu độc giả, còn cuốn của Thầy, mấy ai đọc, và nếu có, thì cũng chỉ giữa đám nhà văn.
Trong đám này, và trong số độc giả của Faulkner, thể nào cũng lại có tay, chôm nữa, tạo ra những tác phẩm của riêng mình!

Giới phê bình gọi Faulkner là nhà văn của nhà văn, là vậy.

*
Trường hợp ảnh hưởng, hay dùng ‘thuật ngữ’ của NHQ, "viết và lách", ở cõi văn Mít, Miền Nam, ít người nhận ra, là giữa ba tác giả Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, và Nguyễn Đình Toàn. Võ Phiến, tuy Trùm đấy, nhưng rõ ràng không nhận ra liên hệ thầy trò giữa ba ông nhà văn trên, nên đã coi DNM thuộc môn phái "tiểu thuyết mới"!

Nói một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh Tâm Tuyền "khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau.
Dương Nghiễm Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động..

Nhìn từ quan điểm đó, chúng ta không thể nào coi Nguyễn Đình Toàn và Dương Nghiễm Mậu là những nhà văn tiểu thuyết mới. Nhân vật của Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến chua xót về sự cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan rã, cuối cùng lao vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ đạo đức bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông thường. Thế giới, khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối", trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân vật hầu hết là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam, trong khi chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả.

Tiểu Thuyết Mới ở Việt Nam