Cách
đây ít năm, tiểu thuyết gia người Anh, Will Self cho ra
lò một cái truyện ngắn tếu "Lý Thuyết Lượng Tử Về Khùng Điên", trong
đó giả dụ, con số khỏe mạnh của nhân loại đã được ấn định, hoặc có thể
là một
hằng số; nếu như vậy, toan tính chữa bịnh khùng cho loài người là vô
ích, bởi
vì một anh này ở Việt Nam, thí dụ vậy, được chữa khỏi, thì một ả kia ở
Mẽo
chẳng hạn, dính trấu. Cứ thử tưởng tượng tất cả chúng ta cùng ngủ chung
một
giường, chỉ có một cái mền, và cái mền này - tức sự khỏe mạnh - nhỏ quá, không đủ che cho tất cả. Một người
kéo chiếc mền, lập tức mấy ngón chân một người khác ló ra. Đúng là quá
tức
cười, nhưng lạ lùng thay, nó làm chúng ta liên tưởng tới lập luận "cà
chớn" [zaniest] của Giáo sư Steiner, nhưng thay vì cà chớn thì giáo sư
trình bầy bằng một giọng rất ư là nghiêm túc: rằng, tại bất cứ một thời
điểm
nào đã cho, đều hiện hữu một tổng số xác định những tài năng sáng tạo,
và vào
lúc này, mấy thằng chả kia , tôi muốn nói, ba cái trò điện ảnh, truyền
hình, và
ngay cả quảng cáo, kéo cái mền về phiá chúng nó, thế là cô tiểu thư
tiểu thuyết
bị hở banh ra, nằm co ro run rẩy trong cái lạnh khủng khiếp của mùa
đông văn
hóa của chúng ta [our cultural winter].
Khổ
một nỗi, lý thuyết trên đây "nhảm" ở chỗ, nó
giả dụ mọi tài năng sáng tạo thì giống nhau y chang, nghĩa là cùng một
loại. Áp
dụng ý niệm trên vào môn điền kinh là thấy ngay sự phi lý tổ bố của nó.
Con số
những cao thủ marathon không hề giảm đi, một khi môn thể thao này phổ
thông mãi
ra. Phẩm chất vận động viên nhảy cao không
mắc mớ gì tới con số cao thủ nhảy sào.
Có
vẻ như sự xuất hiện những thể loại, những hình thức mới
mẻ của nghệ thuật đã cho phép nhiều nhóm người mới mẻ nhập vào cuộc
chơi sáng
tạo. Tôi biết rất ít, những đạo diễn bậc thầy kiêm luôn tiểu thuyết gia
bậc
thầy: Satyajit Ray, Ingmar Bergman, Woody Allen, Jean Renoir, và chỉ có
thế. Nụ
hôn tuyệt vời mà ông tài tử lừng danh gốc
Hy Lạp dành cho nàng Lara ở trong phim Vĩnh Biệt Tình
Em, theo bạn, liệu thay thể nổi [và đích xác là] mấy trang, Bác sĩ Zhivago? (1). Những cao thủ viết kịch bản
phim, họ là những cao thủ, chắc chắn rồi, nhưng họ không suy nghĩ theo
kiểu văn
chương mà theo kiểu điện ảnh.
Nói
ngắn gọn, sự đe dọa của những môn chơi đòi hỏi kỹ thuật
cao không làm tôi lo âu nhiều, so với Giáo sư Steiner. Có lẽ chính sự
kiện quá
đơn giản, nếu nói về kỹ thuật viết [chỉ cần cây viết mẩu giấy], chính
cái đó,
đã làm cho văn chương sống sót, và cứ sống sót hoài. Những phương tiện
biểu tỏ
nghệ thuật đòi hỏi con số lớn lao nguồn tài chánh, kỹ thuật tân kỳ, rắc
rối,
tinh vi - tôi muốn nói,
những trò chơi như điện ảnh, kịch, diã -
chính vì chúng như thế, nên bị tuỳ thuộc, và do đó, bị kiềm chế, kiểm
duyệt,
trong khi, làm sao nhà nước toàn trị có
thể huỷ diệt đuợc điều mà nhà văn lặng lẽ làm, trong cô đơn của một
gian phòng?
(1)
Nguyên văn: Bạn có thể đọc bao nhiêu trang sách đầy
những chất liệu nóng bỏng của Quentin Tarenrino, bao nhiêu lần những
tên găng
tơ của ông ta nói chuyện đợp Big Macs tại Paris, hay là thay vì đọc,
hãy nhờ
mấy tay tài tử Samuel Jackson hay John Travolta nói giùm cho những
trang sách
đó?
Tôi "chịu" Giáo sư
Steiner,
khi ông ca ngợi khoa học hiện đại, 'nơi nào có vui chơi hưởng thụ, ăn
nhậu đớp
hít, là nơi đó có hy vọng, có nhiệt
tình, có ý nghĩa lớn lao về một thế giới cứ thế mà nối vòng tay lớn mí
nhau',
nhưng sự bùng nổ sáng tạo mang tính khoa học này, tức cười thay, là một
cú đá
giò lái cho "lượng thuyết sáng tạo" [quantity theory of creativity]
của ông. Ý tưởng những nhà văn lớn đầy tiềm năng sáng tạo bị mất đi,
nhường chỗ
cho sự nghiên cứu khoa học tiềm-nguyên tử [sub-atomic], cho lỗ đen, là
một
chuyện khó tin, và nếu bạn có nghĩ ngược lại, thì cũng khó tin chẳng
kém. Chẳng
lẽ những tác giả nổi tiếng, thí dụ như Jane Austen, James Joyce, thay
vì viết
văn, lại chọn một "thiên hướng" khác, thế là có một Newton, hay một
Einstein, của thời họ?
Trong
khi tra hỏi luợng tính sáng tạo trong tiểu thuyết hiện
đại, Giáo sư Steiner đã chỉ lộn hướng cho chúng ta. Nếu có cái gọi là
khủng
hoảng tiểu thuyết ở trong văn chương những ngày như thế này, thì nó
thuộc vào
một dạng khác, không như giáo sư la hoảng.
Tiểu
thuyết gia Paul Auster mới đây có nói với tôi, tất cả
những nhà văn Mẽo đều nghĩ rằng, cái việc viết lách của họ đó chẳng qua
là nhảm
nhí, chẳng đi đến đâu, ở cái đất nước Mẽo của họ, nó giống như đá banh,
người
Mẽo không thích môn chơi thể thao đại chúng, ít tốn tiền, dành cho nhà
nghèo
này. Nhận xét này giống như một hồi âm cho nhận xét của Milan Kundera,
trong
tác phẩm tiểu luận mới nhất của ông, Những Di Chúc Bị Phản Bội, trong đó, ông phàn nàn, "Âu Châu đã bất
lực trong việc chống đỡ và giải thích [giải thích một cách kiên trì cho
chính
nó và cho những người khác], rằng đệ nhất đẳng nghệ thuật của Âu Châu,
là nghệ
thuật tiểu thuyết; nói một cách khác, Âu Châu đã bất lực trong việc bảo
vệ và
giải thích, văn hóa của chính nó. "Những đứa con của tiểu thuyết đã bỏ
mặc
nghệ thuật tạo nên hình dáng của họ. Âu Châu, xã hội của tiểu thuyết,
đã bỏ rơi
cái tôi của chính nó".
Auster
đang nói tới cái chết, nghĩa là sự hững hờ của người
Mẽo, đối với việc đọc tiểu thuyết; còn Kundera, cảm quan về một cái
chết ,
nghĩa là sự cắt đứt liên hệ văn hóa giữa người đọc Âu Châu, với sản
phẩm văn
hóa - ở đây, là tiểu thuyết. Cộng thêm
vào đây, đứa trẻ ngày mai của ngài Steiner, một đứa trẻ mù chữ, mê máy
điện
toán đến phát khùng, thế là chúng ta có thể có được cái chết của việc
đọc,
chính nó.
Mà
có lẽ, không phải như vậy. Bởi vì văn chương, nhất là thứ
bảnh, thứ hảo hạng, không phải là món hàng ai ai cũng quan tâm, ai ai
cũng vồ
vập. Quan trọng văn hóa của nó không phải ở chuyện đánh đấm xếp hạng,
mà là, nó
bảo cho chúng ta biết, về chính chúng ta, và chúng ta không thể kiếm
thấy những
lời chỉ bảo đó, ở những môn nghệ thuật khác. Và thiểu số - thiểu số
những con
người được sửa soạn và sẵn sàng bỏ tiền ra mua sách tốt để đọc - thiểu
số này
lạ lùng sao, chưa từng nhiều như vậy, so với trước đây. Vấn đề phải
quan tâm,
là vấn đề này. Đừng lo lắng đến cái chết của độc giả, mà hãy để ý đến
sự hoang
mang, sững sờ của họ.
Tại
Mẽo, trong năm 1999, hơn năm ngàn tiểu thuyết mới đã
được xuất bản. Năm ngàn! Chỉ cần năm trăm cuốn tiểu thuyết có thể xuất
bản
được, và được viết ra trong một năm, như vậy đã là một phép lạ! Phép lạ
biến
thành "phép lạ của phép lạ", nếu trong số năm trăm cuốn có thể xuất
bản được đó, có năm chục cuốn thuộc loại tốt. Và cả nhân loại chúng ta
sẽ mừng
rú lên, nếu trong số năm chục cuốn tốt đó, có một cuốn, một và chỉ một
mà thôi,
là "một" đại tác phẩm!
Đám
xuất bản, nhà nào nhà nấy, in sách ào ào, là bởi vì
những biên tập viên tốt bị cho về vườn và không cần người thay thế, và
ám ảnh
về con số doanh thu khiến không còn phân biệt nổi tác phẩm xấu và tốt.
Hãy để
cho thị trường sách vở quyết định, hình như đa số các nhà xuất bản đều
nghĩ như
vậy. Cứ tống hàng ra, thế nào cũng có
cuốn dính! Thế là năm ngàn cuốn bầy ê hề trên quầy, và sau đó, từ trên
quầy rớt
xuống "lò thiêu", bao thứ lửa quảng cáo cũng chẳng làm sao cứu nổi.
Đúng là một cuộc hành trình tự huỷ. Như Orwell đã nói từ năm 1936 - Bạn
thấy
đấy, làm có gì mới ở dưới ánh mặt trời - 'quảng
cáo giết tiểu thuyết' [nguyên văn: the novel is being shouted out of
existence: Tiểu thuyết đang được la lối đến nỗi ngỏm củ tỏi]. Độc giả,
thất lạc giữa
khu rừng nhiệt đới,
gồm toàn là những tiểu thuyết rác rưởi, và thấy mình trở thành thô bỉ,
vì thứ
ngôn ngữ quảng cáo ngoa dụ chẳng còn có chút giá trị mà cuốn nào cuốn
nấy tự
khoác cho nó, bèn dơ cả hai tay lên trời
than, tớ chịu thua, tớ bỏ cuộc! Mỗi năm, tớ mua chừng vài cuốn được
giải này
giải nọ, có thể, một hai cuốn của những tác giả mà tớ biết tên, và sau
đó, tớ
bỏ chạy! In ào ào, và ngoa dụ quảng cáo khiến người đọc đếch thèm đọc
sách nữa!
Vấn đề không phải là, quá nhiều những cuốn tiểu thuyết
câu một số quá ít độc giả, mà là, quá nhiều
cuốn tiểu thuyết xua đuổi một số quá ít đọc giả chạy vãi linh hồn [1]
ra quần!
Chú
thích: Chữ "vãi linh hồn" này, mượn của nữ văn
sĩ Phạm Hải Anh.
Nếu
in một cuốn tiểu thuyết đầu tay là "đánh bạc chống
lại thực tại", như Giáo sư Steiner đề nghị, thì vấn đề này phần lớn là
do
in ào ào, cứ nhắm mắt in cầu may, mà ra. Vào những ngày này, người ta
nói tới
một tinh thần làm ăn
mới, tàn nhẫn về tiền bạc trong xuất bản. Nhưng cái mà
người ta cần, là một sự tàn nhẫn trong biên tập, thứ tuyệt hảo. Chúng
ta cần
một cái nhìn khác, một cái nhìn trở lại, trong nhận định, đánh giá.
Và
còn một thứ nguy hiểm khác nữa mà vị Giáo sư Steiner này
quên không nhắc tới, đó là, sự tấn công vào tự do trí thức, chính nó;
tự do trí
thức, không có nó, không có văn chương. Vả chăng, đây đâu phải là nguy
hiểm
mới. Một lần nữa,George Orwell, vào năm 1945, đã dâng tặng cho chúng ta
một lời
khuyên thật khôn ngoan, rất ư là có giá trị đương thời, và xin bạn tha
lỗi cho
tôi, về câu trích dẫn hơi dài dòng, sau đây:
"Vào
thời đại của chúng ta, tư tưởng tự do trí thức bị
tấn công ở cả hai phiá. Một phiá, là những kẻ thù lý thuyết, nhũng tên
ca tụng
chế độ toàn trị, [hay, những tên cuồng tín, nói như vậy hợp thời hơn,
vào những
ngày như thế này],; và ở phiá kia, những kẻ thù sờ sờ, đó là quốc
doanh, độc
quyền và thư lại. Trong quá khứ [.....], những ý niệm về nổi loạn và sự
vẹn
toàn về trí thức, chúng trùng khớp với nhau, có thể nói, là một. Một
tay dị
giáo, theo tà thuyết - về chính trị, đạo đức, tôn giáo, hay về cái đẹp
- là một
con người nào đó, người này từ chối hiếp đáp, chính luơng tâm của mình,
từ chối
vứt lương tâm của mình vào thùng rác.
[Vào
những ngày như thế này], có một đề nghị rất ư là nguy
hiểm [đó là], tự do là thứ đếch xài được, chẳng ai thèm [undesirable] ,
rằng,
lương thiện trí thức là một hình thức ích kỷ chống lại xã hội,
anti-social
selfishness. Những
kẻ thù của tự do trí thức luôn luôn cố làm cho người
ta tin rằng, nếu chúng chống tự do trí thức, vì đây là một điều rất cần
làm,
một thứ kỷ luật đề ra, vì đám đông, vì tập thể, một cá nhân là cái
thống chế
gì, so với nhân dân! Nhà văn nào mà từ chối bán ngòi bút của mình,
chúng bèn
gán cho họ là những tên vị kỷ, thứ đồ chỉ biết có mình nó, đâu cần biết
đến
người khác. Nhà văn như thế, bị buộc tội, hoặc là, tự nhốt mình vào
trong tháp
ngà, hoặc, coi mình như là một nơi trình diễn, của chính cá nhân mình,
hoặc một
kẻ đi ngược lại trào lưu của đất nước, ngược lại ba
ngọn trào cách mạng, chỉ để nhằm bấu víu,
bảo vệ những đặc quyền không làm sao biện minh được nữa của giới viết
lách.
[Nhưng], muốn viết không cần luồn lách, là phải suy nghĩ không sợ hãi,
và nếu
người nào suy nghĩ không sợ hãi, thì người đó không thể nào chấp nhận
một đường
lối chính trị chính thống."
Sức
ép của quốc doanh độc quyền và của chế độ thư lại, chủ
nghĩa tổ hợp cá lớn nuốt cá bé, bảo thủ, hạn chế và thu hẹp phạm vi và
phẩm
chất của xuất bản, những chuyện đó, bất cứ một nhà văn hiện đang viết,
đều
biết. Về sức ép của điều không thể chấp nhận được, và của kiểm duyệt ,
bản thân
tôi, mấy năm gần đây, được biết khá nhiều, phải nói là bội thu hiểu
biết. Có
rất nhiều những cuộc chiến đấu như thế đang xẩy ra trên thế giới: Tại
Trung
Quốc, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Nigeria, những nhà văn bị kiểm duyệt,
phiền
nhiễu, làm khó dễ, bỏ tù, và bị giết nữa. Ngay cả ở Âu Châu, ở Hoa Kỳ,
những
"đội quân dông bão" [ám chỉ những những tên Nazi], những tên
"biệt kích" [commandos] , của đủ thứ máu nóng, lạnh, đủ thứ "cảm
tính", chúng tìm cách hạn chế tự do ăn nói của chúng ta. Chưa bao giờ
quan
trọng bằng lúc này, tiếp tục bảo vệ những giá trị nhờ chúng mà có nghệ
thuật
tiểu thuyết . Cái chết của tiểu thuyết thì có thể còn xa, nhưng cái
chết dữ dội
của nhiều tiểu thuyết gia đương thời, than ôi, là một sự kiện không làm
sao
tránh được. Mặc dù vậy, tôi không tin rằng những nhà văn lại từ bỏ giấc
đại mộng, tác phẩm của ta sẽ trường tồn cùng với hậu thế, sau khi ta đã
ngỏm củ tỏi rồi. Điều mà George Steiner gọi một cách thật đáng yêu "vô
thường
thôi, nhưng thật là cao ngạo", của văn chương, vẫn luôn luôn nóng bỏng
ở
trong chúng ta, cho dù, như ngài giáo sư nói, chúng ta tỏ ra bối rối,
khi phải nói ra công khai. [Trong mỗi chúng ta
đều có một Sài
Gòn âm ỉ cháy. Tôi đốt lên ngọn nến của tôi, để cho Sài Gòn của bạn
sáng ngời.
NQT: Lần Cuối Sài Gòn]. Nhà thơ Ovide đã đánh dấu
chấm hết cho tác phẩm Metamorphoses
của
ông bằng những vần thơ đầy tin tưởng:
Nhưng,
với tất cả tinh hoa ở trong tôi
Tôi sẽ chiếm được địa vị cao vời vợi, tuyệt vời hơn cả muôn sao
Tên của tôi sẽ không thể xóa nhòa và sẽ còn mãi mãi.
Tôi
chắc chắn, ở trong trái tim của từng nhà văn, đều có
cùng một tham vọng như vầy: người đời còn nhắc nhở đến tôi, trong những
ngày sẽ
tới, cùng cái điều mà nhà thơ Rilke nghĩ về Orpheus:
Orpheus sẽ đời đời là
thiên sứ
Đi qua địa ngục
Mang cho đời hoa trái
ngời ngời.
Tháng
Năm 2000
Salman
Rushdie
Jennifer
Tran dịch