Tiểu Thuyết
Chưa Chết
Salman
Rushdie
Mới
đây, tại Hội Những Nhà Xuất Bản
Anh, Giáo sư Steiner xổ
ra một miệng chữ: "Chúng ta ngày càng chán tiểu
thuyết... Những thể loại
văn học lên, rồi xuống, nào hùng ca, nào sử thi, nào bi kịch. Những
đỉnh cao
một thời, rồi sau đó, tàn lụi. Người ta vẫn còn viết tiểu thuyết, còn
lâu mới
thôi viết nó, nhưng, ngày càng là một cuộc tìm kiếm những hình thức lấp
lửng,
nửa đực nửa cái, điều mà chúng ta giản dị gọi là thực tại/giả
tưởng...Tiểu
thuyết làm gì được, vào những ngày như thế này, khi nó phải đọ sức với
những
thể loại mạnh khỏe hơn, thí dụ một bài phóng sự hảo hạng, hay cả một
dòng triều
dâng cao là thứ viết trực tiếp, nhảy xổ vào thực tại?...”
”Pindar có lẽ là người đầu tiên trong
lịch sử, nói, Bài thơ
này sẽ còn được cất lên khi mà thành phố mà nó ca ngợi đã mất tăm mất
tích,
không còn hiện hữu.” “Thách đố mới cao ngạo làm sao, như nhổ thẳng vào
mặt Thần
Chết. Ngày nay, ngay cả một thi sĩ lớn lao nhất cũng tỏ ra bối rối, khi
đành
phải đanh đá: Thơ của... tui không dành cho bạn!“
”Thì cũng chỉ là vô thường mà thôi,
nhưng cái vô thường cổ
điển kia mới cao ngạo làm sao: " Ta còn mạnh hơn cả cái chết. Ta có thể
xoa đầu nó, ở trong thơ của ta, bi kịch của ta, tiểu thuyết của ta, bởi
vì ta
đã chiến thắng nó, bởi vì ta, ít nhiều chi, thì cũng thường hằng,
permanent".
”Nào đâu, những cao ngạo như thế, vào
giờ này?"
Thế
là một lần nữa,
bằng một giọng rổn rảng nhất, lời ai
điếu lại đuợc cất lên. Thì cũng vẫn bản kẽm cũ, lời ca... xưa rồi Diễm
ơi, về
một Cái Chết Của Tiểu Thuyết. Cộng thêm vào cái chết của tiểu thuyết,
Giáo sư
Steiner kèm thêm cái chết [nếu không phải cái chết, thì là sự biển đổi
triệt
để] của Người Đọc, biến thành đứa con hoang đàng của máy điện toán, một
thứ
khùng điên, vô dụng; và cái chết, [hay ít ra, sự biến đổi triệt để
thành một
dạng điện tử] của Cuốn Sách, chính nó.
Cái chết của Tác Giả được thông báo
cách đây nhiều năm, tại
Pháp - và Cái chết của Bi Kịch thì được chính Giáo sư Steiner thông báo
trước
đó, bằng một lời ai điếu hết sức thê lương, để lại trên sàn diễn xác
chết,
nhiều hơn cả màn vãn tuồng Hamlet.
Sừng sững, uy nghi, và cũng trơ cu lơ,
ở trên sàn diễn, giữa
một đống tử thi, là me-sừ Fortinbras (1), chính luỷ, và trước lủy, tất
cả chúng
ta, những người viết của những bản văn không có tác giả, những người
đọc của
thời kỳ hậu-văn chương, Căn Nhà Usher tức kỹ nghệ in ấn, xuất bản -
vương quốc
Đan Mạch với một cái gì hư ruỗng ở trong nó - và luôn cả những cuốn
sách, tất
cả đều ngả đầu, trước... Nhà Phê Bình, chính luỷ!
Chú
thích: (1). Fortinbras: nhân vật
trong Hamlet, kịch
Shakespeare, cháu gọi vua Na Uy bằng chú, trong khi Hamlet là con trai
vua Đan
Mạch. Fortinbras được coi là con người của hành động, còn Hamlet, của
suy tư.
Sau khi H. chết, F. tin rằng, H. mới xứng đáng là vua, nhưng điều này
đâu có
ngăn cản chuyện F. đoạt lấy ngai vàng Đan Mạch.
Một
nhà văn thế giá
cũng vừa mới tuyên bố về sự từ biệt cõi
đời của một thể loại văn học mà ông ta là một trong những kẻ thực tập
nổi
tiếng. Ông V.S. Naipaul không những ngưng viết tiểu thuyết, mà còn bị
dị ứng
bởi chính cái từ tiểu thuyết: bây giờ, cứ mỗi lần nghe ai nhắc đến nó
là ông
cảm thấy bịnh. Cũng như Giáo sư Steiner, tác giả Một Căn Nhà Cho Ông
Biswas cảm
thấy rằng, tiểu thuyết đã sống quá dai, vượt quá hoàn cảnh, thời điểm
lịch sử
của nó, không còn có ích, và cũng chẳng còn nhiệm vụ nào dành cho nó
nữa: Mi
nên chết đi là vừa. Để cho kẻ khác thế chỗ mi, đó là cách viết sự kiện
[factual
writing]. Sẽ chẳng có ai ngạc nhiên, rằng, ông Naipaul như vậy là đang
ở đúng
bước ngoặt của lịch sử, và là người tiên phong, mở ra một thể loại tân kỳ: Trường phái văn học tân hình thức
thời kỳ hậu giả tưởng
Chú
thích: Ông Naipaul, và bây giờ là
Ngài Vidia, mới cho
xuất bản một cuốn tiểu thuyết, Nửa Đời Người, Half a Life, năm năm sau
lời
tuyên bố kể trên. Chúng ta phải cám ơn Ngài là đã mang cái thây ma trở
lại với
đời sống.
Một
nhà văn lớn lao
khác, cũng người Anh, đã từng phán:
"Rõ ràng là vào lúc này, thế giá của
tiểu thuyết xuống
quá thấp. Thấp đến nỗi câu "Tớ đếch thèm đọc tiểu thuyết", trước đây
người ta còn nói nho nhỏ, và có tí ti ra vẻ xin lỗi, cảm phiền ở trong
đó, bi
giờ người ta la vỡ làng vỡ xóm, và rất ư hãnh diện. Nếu không có những
đầu óc
kha khá sấn tay vô, sợ rằng tiểu thuyết sẽ trở nên nhạt phèo, chẳng bõ
đọc, trở
thành một thứ dị dạng, giống mấy tấm bia mộ hiện đại."
Geoge
Orwell đã viết những dòng trên,
vào năm 1936. Người ta
nói - và như Giáo sư Steiner xác nhận - tiểu thuyết chẳng hề có tương
lai. Ngay
cả những tác phẩm như Iliad và Odyssey, khi vừa mới ra lò đã bị mấy ông
điểm
sách chê lên chê xuống. Những thứ viết tốt luôn luôn bị tấn công, luôn
luôn là
bởi những nhà văn tốt. Cứ nhìn lại lịch sử văn học là thấy rõ, không có
đại tác
phẩm nào mà không bị tấn công khi vừa mới xuất hiện. Và [lẽ dĩ nhiên],
chẳng có
nhà văn nào mà yên thân với những đồng nghiệp của mình, một khi tiếng
tăm của
anh ta /chị ta có vẻ lên giá. [Gấu tôi lại nhớ tới lời mắng mỏ NHT, về
tí tỉ tì
ti danh tiếng quốc tế của ông: mới nho nhoe một
tí mà đã...].
Aristophanes đã từng gọi Euripides
'tuyển tập gia những bản
kẽm cũ mèm"; Samuel Pepys coi Giấc Mộng Đêm Hè [của Shakespeare] là
'nhạt
thếch và ngu xuẩn'; Charlotte Bronte ném tác phẩm của Jane Austen vào
thùng
rác; Zola coi Ác Hoa của Baudelaire là đồ bỏ; Henry James coi rác rưởi,
những
tác phẩm Middlemarch, Đỉnh Gió Hú, Người Bạn Chung Của Chúng Ta. Và tất
cả mọi
người đều nhếch mép khinh khi Săn Cá Voi Trắng [Moby Dick ]. Tờ Le
Figaro thông
báo, khi Bà Bovary vừa được xuất bản, tác giả của nó, "Ông Gustave
Flaubert không phải là một nhà văn". Virginia Woolf gọi Ulysses là
"thứ đồ tầm bậy, vô học"; tờ Thư Tín Odessa viết về cuốn Anna
Karenina, "một Marie Sến [sentimental rubbish].... (1). Hãy chỉ cho tôi
một trang có một mẩu tư duy ở trong đó."
[Chú thích: (1) Xin lỗi, đùa nhả một
tí. NQT]
Bây
giờ, khi giới phê
bình Đức tấn công Gunter Grass, khi,
như tiểu thuyết gia và phê bình gia người Pháp, Guy Scarpetta cho chúng
ta
biết, giới văn học Ý "ngạc nhiên" về chuyện thế giới đánh giá cao hai
nhà văn Italio Calvino và Leonardo Scascia , khi, những khẩu cà nông
đều chĩa họng
vào Saul Bellow, bắn ra những viên đại bác có tên là chính trị phải
đạo, khi
Anthony Burgess "coi nhẹ" Graham Greene, liền tức thì sau khi ông này
mất, khi, Giáo sư Steiner, vẫn luôn luôn đầy tham vọng như là ngài vẫn
là, bắt
giò bắt gân, không chỉ vài nhà văn, mà trọn gói văn học Âu Châu sau khi
thoát
ra khỏi cuộc chiến, chúng ta hiểu rằng họ đều đau, nỗi đau hoài nhớ một
thời
đại hoàng kim văn hóa, trong đó có tiểu thuyết, rằng đây là một hoài
nhớ lập đi
lập lại, giống như chu kỳ của một thứ bịnh hoàng đởm, về một quá khứ
văn học,
mà vào lúc đỉnh cao của nó, chưa chắc đã tới mắt cá chân, hay đầu gối
của nền
văn học bi giờ.
Giáo
sư Steiner
nói, "Gần như là một định đề, rằng bi giờ, thứ tiểu thuyết loại gộc đến
từ
vùng biên cương xa vời, từ Ấn Độ, từ vùng biển Caribbean, từ Mỹ Châu La
Tinh,", và một vài người sẽ cho rằng, tôi là một thằng khùng khi
phản
đối một tầm nhìn xa trông rộng, về một trung tâm tiểu thuyết đã cạn
kiệt và một
miền ven biên tràn trề sức sống. Nhưng nếu tôi có tỏ ra khùng khùng man
man, một
phần là do tiếng than van tiếc nuối cho một "Trung Nguyên" Âu Châu, của
một dòng giống Hán tộc nào đó, nói rõ hơn, chỉ một tay trí thức Tây Âu
mới thốt
lên một lời ai điếu thê lương như vậy, cho cả một nền nghệ thuật, dựa
trên căn
bản, rằng, những nền văn chương, thí dụ như của Anh, Pháp, Đức, Tây Ban
Nha
không còn là những nền nhất đẳng văn chương ở trên trái đất này, [người
ta
không hiểu, Giáo sư Steiner coi Mỹ Châu là trung tâm, hay là ven biên,
thành thử,
một tầm nhìn xa trông rộng theo kiểu bằng bằng, chim bay là là, ở trên
mặt trái
đất, như của Giáo sư, thì thật khó mà theo cho nổi. Nhìn từ chỗ mà tôi
đang ngồi,
nền văn học Mẽo có vẻ đẹp dáng ra phết].
Vả
chăng, mắc mớ
gì tiểu thuyết loại gộc đến từ đâu, một khi mà chúng vưỡn tới? Và trái
đất phèn
phẹt nào vậy, nơi vị giáo sư tốt [the good professor] sống, với những
người La
Mã chán chường ở "Trung Nguyên" [ở trung tâm], và những người
Hottentots [một giống dân Nam Phi], và những giống dân ăn thịt người,
có tài một
cách đáng sợ, ở mãi tít ven biên? Cái bản đồ mà Giáo sư Steiner có ở
trong đầu,
là một bản đồ hoàng gia, và những đế quốc Âu Châu, thì đã tuyệt chủng
từ đời
tám hoánh nào rồi. Cả một nửa thế kỷ, mà những sản phẩm văn học của nó
đã chứng
tỏ, cho hai vị Steiner và Naipaul, sự suy thoái của tiểu thuyết cũng là
nửa đầu
thế kỷ thời kỳ hậu-thuộc địa. Đâu có chi là khó hiểu, sự kiện, một
trường phái
tân tiểu thuyết đang nở rộ, một thứ tiểu thuyết hậu-thuộc địa, "đếch
cần"
một thánh địa "Trung Nguyên", [không qui tâm, de-centered], xuyên-quốc
gia, transnational, liên-ngôn ngữ, inter-lingual, "giao lưu hòa
hợp
hòa giải" văn hóa, cross-cultural; và trong trật tự mới này, hay hỗn
loạn,
hổ lốn thì cũng được, chúng ta tìm thấy một lời giải thích tuyệt hơn,
thú vị
hơn, về một vóc dáng mạnh khoẻ, đỏ da thắm thịt của tiểu thuyết hiện
đại, hơn
là quan niệm thoát thai từ Hegel, và ra cái điều bố già, [không có Âu
Châu thì
lấy đâu ra tiểu thuyết], của Giáo sư Steiner, rằng, sáng tạo có ở miền
"ven biên", là do, đây là những khu vực "ở vào giai đoạn sớm sủa
của văn hóa trưởng giả, thuộc một thể loại hoang sơ hơn, thô lỗ hơn, và
cũng nhiêu khê hơn".
Nói
cho cùng, từ
thập niên này tới thập niên kia, chính quyền Franco đã thành công trong
việc
bóp nghẹt dòng văn chương [viết bằng tiếng] Tây Ban Nha, chính vì vậy
mà mọi cặp
mắt đều nhắm về những nhà văn tuyệt vời vùng Mỹ Châu La Tinh. Cái gọi
là trăm
hoa đua nở ở khu vực này, là hậu quả sự ung thúi thế giới trưởng giả
cũ, cũng
như sự sáng tạo hoang sơ cái mới. Và, thật kỳ cục, khi miêu tả
văn hóa cổ
xưa, phức tạp và tế nhị [sophisticated] của Ấn Độ, là như sống trong
một thời
"xa xưa hơn, hoang dại hơn", so với Tây Phương. Với những giai cấp
thương mại lớn lao, hệ thống thư lại tỏa rộng ra mãi, sự bùng nổ kinh
tế, Ấn Độ
sở hữu một trong những nền trưởng giả rộng lớn nhất, đầy tiềm năng nhất
trên thế
giới, và nó là như vậy, bền lâu, vững chãi, chẳng thua gì Âu Châu. Một
nền văn
học lớn lao, khổng lồ, một giai cấp độc giả có học, là chẳng có chi là
mới lạ đối
với đất nước này. Cái mới, cái lạ, là, sự trồi lên, ló đầu, nở rộ, của
một thế
hệ tài năng những nhà văn Ấn Độ, viết bằng tiếng Anh (working in
English). Cái
mới, cái lạ, là 'Trung Nguyên' đã phải để ý tới một "miền ven biên";
miền ven biên này bắt đầu nói, trong hằng hà sa số những ấn bản, một
thứ ngôn
ngữ mà Tây Phương ngày càng dễ hiểu.
Còn
cái chân
dung mà Giáo sư Steiner vẽ ra, về một Âu Châu cạn kiệt, theo như suy
nghĩ của
tôi, là nhảm, thật nhảm. Và cũng thật dễ dàng chứng minh, rằng nó nhảm,
thật nhảm.
Năm chục năm gần đây nhất của nó đã cho chúng ta, chỉ kể một vài trong
muôn
vàn, những tác phẩm của Albert Camus, Graham Greene, Doris Lessing,
Samuel
Beckett, Italo Calvino, Elsa Morante, Vladimir Nabokov, Gunter Grass,
Aleksandr
Solzhenitsyn, Milan Kundera, Danilo Kis, Thomas Bernhard, Marguerite
Yourcenar.
Bạn có thể làm một danh sách của riêng bạn. Nếu tiện tay, bạn thêm vào
đó những
nhà văn vượt quá biên giới Âu Châu, thế là bạn có cả một mùa gặt giầu
có như
chưa từng giầu có như vậy, những nhà văn lớn đang sống và đang làm việc
cùng một
lúc - rằng cái sự bi quan dễ dãi của Steiner-Naipaul không chỉ làm cho
chúng ta
chán ngán, mà còn thật khó tin. Nếu Ngài Naipaul chẳng còn ao ước, và
không thể
viết tiểu thuyết nữa, chắc chắn đây là một tổn thất lớn lao cho chúng
ta. Thôi
đành vậy, chúng ta bèn tự nhủ thầm, nhưng nghệ thuật tiểu thuyết, không
nghi ngờ
chi, [sẽ bĩu dài cái môi, rằng vắng em thì chợ vưỡn cứ đông, rằng đường
ta cứ
đi, ruộng ta cứ cầy, tiểu thuyết ta cứ viết], vẫn sống nhăn răng, đếch
cần tới
ông ta.
Theo
tôi, chẳng
có khủng hoảng ở nghệ thuật tiểu thuyết. Tiểu thuyết, chính là dị dạng
chân
trong chân ngoài, nửa đực nửa cái [hybrid] mà Giáo sư Steiner than thở
đó.
Trong nó, có phần tra hỏi xã hội, có tính truyền kỳ mạn lục, hồn ma
bóng quế,
liêu trai chí dị, và có luôn cả cái phần thú tội theo kiểu kể trong đêm
khuya,
hồi ký viết dưới hầm, lời thú tội của một tên sát nhân... Như thế, tiểu
thuyết
luôn luôn vượt đường ranh, về tri thức cũng như về phong thổ. Tuy
nhiên, ngài
giáo sư đúng, khi cho rằng, rất nhiều nhà văn tốt đã làm mù mờ những
đường ranh
giữa sự kiện và giả tưởng. Cuốn tiểu thuyết tuyệt vời về Haile
Selassie, The
Emperor, của Ryszard Kapuscinski, là một thí dụ đầy tính sáng tạo, làm
sao mù
mù ảo ảo giữa hai miền thực và mộng. Cái gọi là thể Tân Báo Chí được
phát triển
ở Mỹ, bởi Tom Wolfe và những người khác, đúng là một toan tính thẳng
thừng trấn
lột quần áo của cô tiểu thư có tên là tiểu thuyết. Và trong trường hợp
cuốn
Radical Chic & Mau-Mauing the Flak Catchers, hay The Right Stuff,
của chính
Wolfe, toan tính trấn lột này đã thành công một cách thật là thuyết
phục. Kiểu
vừa đi đường vừa kể chuyện [xin lỗi đã chôm từ này của "Cụ Hồ"],
"travel writing", đã bung ra và ôm luôn những tác phẩm nặng tính suy
tư văn hóa, Danube của Claudio Magris, thí dụ vậy, hay Biển Đen của
Neal
Ascherson. (1)
(1):
Nếu nói về
nặng tính suy tư văn hóa, Rushdie quên không kể, cuốn vừa đi đường vừa
kể chuyện
của Claude Lévi-Strauss: Tristes Tropiques, Nhiệt Đới Buồn Hiu. Nhan đề
này
cũng gây nhiều tranh luận, khi cuốn sách được dịch qua tiếng Anh, do
chẳng có một
từ tiếng Anh nào dịch nổi "Buồn Thiu", hay "Buồn Hiu", như
trong ghi chú của người dịch, John and Doreen Weightman, nhà xb
Penguin, 1992.
Kể
từ khi cuốn
này lần đầu tiên được dịch qua tiếng Anh vào năm 1955, nó đã nổi tiếng
toàn thế
giới qua cái tên bằng tiếng Tây của nó - và do yêu cầu của M.
Lévi-Strauss-
chúng tôi đã giữ nguyên tên tiếng Tây cho lần in này. Những cái tít có
thể có bằng
tiếng Anh, như "Sad Tropics", hay "The Sadness of the
Tropics", hay, "Tragic Tropics"... không hoàn toàn chuyển hết
nghĩa, hoặc hàm ý của "Nhiệt Đới Buồn Hiu", vì từ này ôm trong nó
tính hài, tính thơ... và còn vì lời than, "Than ôi, thời oanh liệt nay
còn
đâu", của một con hổ nhớ rừng! ["Alas for the Tropics"].
Và
trước một
"tour de force" [một tác phẩm người viết phải đánh vật với nó], thông
minh, sáng chói, như Cuộc hôn nhân của Cadmus và Harmony, của Roberto
Calasso,
trong đó việc tái thẩm định những huyền thoại Hy lạp đã đẩy độc giả tới
đỉnh
cao của sự căng thẳng và niềm hoan lạc, mà chỉ những cuốn tiểu thuyết
bảnh nhất
mới có thể làm nổi, và người đó, hoặc vỗ đùi bành bạch, hoặc nghiêng
đầu chào
đón sự ra đời của một thể loại mới, một cách viết, tuy "hình thức"
thì có vẻ như một thứ tiểu luận, nhưng "nội dung" thì tràn trề tưởng
tượng [a new kind of imaginative essay writing], hay đúng hơn, sự trở
về của lối
viết vui nhộn mà lại mang tính bách khoa của Diderot, hay của
Montaigne. Tiểu
thuyết có thể chào mừng những phát triển như vậy, mà chẳng hề lo sợ, bị
đe dọa,
hoặc lấn đất giành dân, hoặc đành phải chấp nhận một cuộc ngưng chiến
da beo!
Có chỗ cho tất cả chúng ta, nào chống cộng cực đoan, nào hận thù nam
bắc, nào
giao lưu hòa giải, hoà hợp dân tộc!
Cách đây ít năm, tiểu thuyết gia người
Anh, Will Self cho ra
lò một cái truyện ngắn tếu "Lý Thuyết Lượng Tử Về Khùng Điên", trong
đó giả dụ, con số khỏe mạnh của nhân loại đã được ấn định, hoặc có thể
là một
hằng số; nếu như vậy, toan tính chữa bịnh khùng cho loài người là vô
ích, bởi
vì một anh này ở Việt Nam, thí dụ vậy, được chữa khỏi, thì một ả kia ở
Mẽo
chẳng hạn, dính trấu. Cứ thử tưởng tượng tất cả chúng ta cùng ngủ chung
một
giường, chỉ có một cái mền, và cái mền này - tức sự khỏe mạnh - nhỏ quá, không đủ che cho tất cả. Một người
kéo chiếc mền, lập tức mấy ngón chân một người khác ló ra. Đúng là quá
tức
cười, nhưng lạ lùng thay, nó làm chúng ta liên tưởng tới lập luận "cà
chớn" [zaniest] của Giáo sư Steiner, nhưng thay vì cà chớn thì giáo sư
trình bầy bằng một giọng rất ư là nghiêm túc: rằng, tại bất cứ một thời
điểm
nào đã cho, đều hiện hữu một tổng số xác định những tài năng sáng tạo,
và vào
lúc này, mấy thằng chả kia , tôi muốn nói, ba cái trò điện ảnh, truyền
hình, và
ngay cả quảng cáo, kéo cái mền về phiá chúng nó, thế là cô tiểu thư
tiểu thuyết
bị hở banh ra, nằm co ro run rẩy trong cái lạnh khủng khiếp của mùa
đông văn
hóa của chúng ta [our cultural winter].
Khổ một nỗi, lý thuyết trên đây "nhảm"
ở chỗ, nó
giả dụ mọi tài năng sáng tạo thì giống nhau y chang, nghĩa là cùng một
loại. Áp
dụng ý niệm trên vào môn điền kinh là thấy ngay sự phi lý tổ bố của nó.
Con số
những cao thủ marathon không hề giảm đi, một khi môn thể thao này phổ
thông mãi
ra. Phẩm chất vận động viên nhảy cao
không mắc mớ gì tới con số cao thủ nhảy sào.
Có vẻ như sự xuất hiện những thể loại,
những hình thức mới
mẻ của nghệ thuật đã cho phép nhiều nhóm người mới mẻ nhập vào cuộc
chơi sáng
tạo. Tôi biết rất ít, những đạo diễn bậc thầy kiêm luôn tiểu thuyết gia
bậc
thầy: Satyajit Ray, Ingmar Bergman, Woody Allen, Jean Renoir, và chỉ có
thế. Nụ
hôn tuyệt vời mà ông tài tử lừng danh gốc Hy Lạp dành cho nàng Lara ở
trong
phim Vĩnh Biệt Tình Em, theo bạn, liệu thay thể nổi [và đích xác là]
mấy trang,
Bác sĩ Zhivago? (1). Những cao thủ viết
kịch bản phim, họ là những cao thủ, chắc chắn rồi, nhưng họ không suy
nghĩ theo
kiểu văn chương mà theo kiểu điện ảnh.
Nói ngắn gọn, sự đe dọa của những môn
chơi đòi hỏi kỹ thuật
cao không làm tôi lo âu nhiều, so với Giáo sư Steiner. Có lẽ chính sự
kiện quá
đơn giản, nếu nói về kỹ thuật viết [chỉ cần cây viết mẩu giấy], chính
cái đó,
đã làm cho văn chương sống sót, và cứ sống sót hoài. Những phương tiện
biểu tỏ
nghệ thuật đòi hỏi con số lớn lao nguồn tài chánh, kỹ thuật tân kỳ, rắc
rối,
tinh vi - tôi muốn nói,
những trò chơi như điện ảnh, kịch, diã -
chính vì chúng như thế, nên bị tuỳ thuộc, và do đó, bị kiềm chế, kiểm
duyệt,
trong khi, làm sao nhà nước toàn trị có
thể huỷ diệt đuợc điều mà nhà văn lặng lẽ làm, trong cô đơn của một
gian phòng?
(1)
Nguyên văn: Bạn có thể đọc bao
nhiêu trang sách đầy
những chất liệu nóng bỏng của Quentin Tarenrino, bao nhiêu lần những
tên găng
tơ của ông ta nói chuyện đợp Big Macs tại Paris, hay là thay vì đọc,
hãy nhờ
mấy tay tài tử Samuel Jackson hay John Travolta nói giùm cho những
trang sách
đó?
Tôi "chịu" Giáo sư
Steiner,
khi ông ca ngợi khoa học hiện đại, 'nơi nào có vui chơi hưởng thụ, ăn
nhậu đớp
hít, là nơi đó có hy vọng, có nhiệt
tình, có ý nghĩa lớn lao về một thế giới cứ thế mà nối vòng tay lớn mí
nhau',
nhưng sự bùng nổ sáng tạo mang tính khoa học này, tức cười thay, là một
cú đá
giò lái cho "lượng thuyết sáng tạo" [quantity theory of creativity]
của ông. Ý tưởng những nhà văn lớn đầy tiềm năng sáng tạo bị mất đi,
nhường chỗ
cho sự nghiên cứu khoa học tiềm-nguyên tử [sub-atomic], cho lỗ đen, là
một
chuyện khó tin, và nếu bạn có nghĩ ngược lại, thì cũng khó tin chẳng
kém. Chẳng
lẽ những tác giả nổi tiếng, thí dụ như Jane Austen, James Joyce, thay
vì viết
văn, lại chọn một "thiên hướng" khác, thế là có một Newton, hay một
Einstein, của thời họ?
Trong khi tra hỏi luợng tính sáng tạo
trong tiểu thuyết hiện
đại, Giáo sư Steiner đã chỉ lộn hướng cho chúng ta. Nếu có cái gọi là
khủng
hoảng tiểu thuyết ở trong văn chương những ngày như thế này, thì nó
thuộc vào
một dạng khác, không như giáo sư la hoảng.
Tiểu
thuyết gia Paul Auster mới đây có
nói với tôi, tất cả
những nhà văn Mẽo đều nghĩ rằng, cái việc viết lách của họ đó chẳng qua
là nhảm
nhí, chẳng đi đến đâu, ở cái đất nước Mẽo của họ, nó giống như đá banh,
người
Mẽo không thích môn chơi thể thao đại chúng, ít tốn tiền, dành cho nhà
nghèo
này. Nhận xét này giống như một hồi âm cho nhận xét của Milan Kundera,
trong
tác phẩm tiểu luận mới nhất của ông, Những Di Chúc Bị Phản Bội, trong đó, ông phàn nàn, "Âu Châu đã bất
lực trong việc chống đỡ và giải thích [giải thích một cách kiên trì cho
chính
nó và cho những người khác], rằng đệ nhất đẳng nghệ thuật của Âu Châu,
là nghệ
thuật tiểu thuyết; nói một cách khác, Âu Châu đã bất lực trong việc bảo
vệ và
giải thích, văn hóa của chính nó. "Những đứa con của tiểu thuyết đã bỏ
mặc
nghệ thuật tạo nên hình dáng của họ. Âu Châu, xã hội của tiểu thuyết,
đã bỏ rơi
cái tôi của chính nó".
Auster
đang nói tới cái chết, nghĩa là
sự hững hờ của người
Mẽo, đối với việc đọc tiểu thuyết; còn Kundera, cảm quan về một cái
chết ,
nghĩa là sự cắt đứt liên hệ văn hóa giữa người đọc Âu Châu, với sản
phẩm văn
hóa - ở đây, là tiểu thuyết. Cộng thêm
vào đây, đứa trẻ ngày mai của ngài Steiner, một đứa trẻ mù chữ, mê máy
điện
toán đến phát khùng, thế là chúng ta có thể có được cái chết của việc
đọc,
chính nó.
Mà
có lẽ, không phải như vậy. Bởi vì
văn chương, nhất là thứ
bảnh, thứ hảo hạng, không phải là món hàng ai ai cũng quan tâm, ai ai
cũng vồ
vập. Quan trọng văn hóa của nó không phải ở chuyện đánh đấm xếp hạng,
mà là, nó
bảo cho chúng ta biết, về chính chúng ta, và chúng ta không thể kiếm
thấy những
lời chỉ bảo đó, ở những môn nghệ thuật khác. Và thiểu số - thiểu số
những con
người được sửa soạn và sẵn sàng bỏ tiền ra mua sách tốt để đọc - thiểu
số này
lạ lùng sao, chưa từng nhiều như vậy, so với trước đây. Vấn đề phải
quan tâm,
là vấn đề này. Đừng lo lắng đến cái chết của độc giả, mà hãy để ý đến
sự hoang
mang, sững sờ của họ.
Tại
Mẽo, trong năm 1999, hơn năm ngàn
tiểu thuyết mới đã
được xuất bản. Năm ngàn! Chỉ cần năm trăm cuốn tiểu thuyết có thể xuất
bản
được, và được viết ra trong một năm, như vậy đã là một phép lạ! Phép lạ
biến
thành "phép lạ của phép lạ", nếu trong số năm trăm cuốn có thể xuất
bản được đó, có năm chục cuốn thuộc loại tốt. Và cả nhân loại chúng ta
sẽ mừng
rú lên, nếu trong số năm chục cuốn tốt đó, có một cuốn, một và chỉ một
mà thôi,
là "một" đại tác phẩm!
Đám
xuất bản, nhà nào nhà nấy, in sách
ào ào, là bởi vì
những biên tập viên tốt bị cho về vườn và không cần người thay thế, và
ám ảnh
về con số doanh thu khiến không còn phân biệt nổi tác phẩm xấu và tốt.
Hãy để cho
thị trường sách vở quyết định, hình như đa số các nhà xuất bản đều nghĩ
như
vậy. Cứ tống hàng ra, thế nào cũng có
cuốn dính! Thế là năm ngàn cuốn bầy ê hề trên quầy, và sau đó, từ trên
quầy rớt
xuống "lò thiêu", bao thứ lửa quảng cáo cũng chẳng làm sao cứu nổi.
Đúng là một cuộc hành trình tự huỷ. Như Orwell đã nói từ năm 1936 - Bạn
thấy
đấy, làm có gì mới ở dưới ánh mặt trời - 'quảng cáo giết tiểu thuyết'
[nguyên
văn: the novel is being shouted out of existence: Tiểu thuyết đang được
la lối
đến nỗi ngỏm củ tỏi]. Độc giả, thất lạc giữa khu rừng nhiệt đới, gồm
toàn là
những tiểu thuyết rác rưởi, và thấy mình trở thành thô bỉ, vì thứ ngôn
ngữ
quảng cáo ngoa dụ chẳng còn có chút giá trị mà cuốn nào cuốn nấy tự
khoác cho
nó, bèn dơ cả hai tay lên trời than, tớ
chịu thua, tớ bỏ cuộc! Mỗi năm, tớ mua chừng vài cuốn được giải này
giải nọ, có
thể, một hai cuốn của những tác giả mà tớ biết tên, và sau đó, tớ bỏ
chạy! In
ào ào, và ngoa dụ quảng cáo khiến người đọc đếch thèm đọc sách nữa! Vấn
đề
không phải là, quá nhiều những cuốn tiểu thuyết câu
một số quá ít độc giả, mà là, quá nhiều cuốn
tiểu thuyết xua đuổi
một số quá ít đọc giả chạy vãi linh hồn [1] ra quần!
Chú
thích: Chữ "vãi linh hồn" này,
mượn của nữ văn
sĩ Phạm Hải Anh.
Nếu
in một cuốn tiểu thuyết đầu tay là
"đánh bạc chống
lại thực tại", như Giáo sư Steiner đề nghị, thì vấn đề này phần lớn là
do
in ào ào, cứ nhắm mắt in cầu may, mà ra. Vào những ngày này, người ta
nói tới
một tinh thần làm ăn mới, tàn nhẫn về tiền bạc trong xuất bản. Nhưng
cái mà
người ta cần, là một sự tàn nhẫn trong biên tập, thứ tuyệt hảo. Chúng
ta cần
một cái nhìn khác, một cái nhìn trở lại, trong nhận định, đánh giá.
Và
còn một thứ nguy hiểm khác nữa mà
vị Giáo sư Steiner này
quên không nhắc tới, đó là, sự tấn công vào tự do trí thức, chính nó;
tự do trí
thức, không có nó, không có văn chương. Vả chăng, đây đâu phải là nguy
hiểm
mới. Một lần nữa,George Orwell, vào năm 1945, đã dâng tặng cho chúng ta
một lời
khuyên thật khôn ngoan, rất ư là có giá trị đương thời, và xin bạn tha
lỗi cho
tôi, về câu trích dẫn hơi dài dòng, sau đây:
"Vào
thời đại của chúng ta, tư tưởng
tự do trí thức bị
tấn công ở cả hai phiá. Một phiá, là những kẻ thù lý thuyết, nhũng tên
ca tụng
chế độ toàn trị, [hay, những tên cuồng tín, nói như vậy hợp thời hơn,
vào những
ngày như thế này],; và ở phiá kia, những kẻ thù sờ sờ, đó là quốc
doanh, độc
quyền và thư lại. Trong quá khứ [.....], những ý niệm về nổi loạn và sự
vẹn
toàn về trí thức, chúng trùng khớp với nhau, có thể nói, là một. Một
tay dị
giáo, theo tà thuyết - về chính trị, đạo đức, tôn giáo, hay về cái đẹp
- là một
con người nào đó, người này từ chối hiếp đáp, chính luơng tâm của mình,
từ chối
vứt lương tâm của mình vào thùng rác.
[Vào
những ngày như thế này], có một
đề nghị rất ư là nguy
hiểm [đó là], tự do là thứ đếch xài được, chẳng ai thèm [undesirable] ,
rằng,
lương thiện trí thức là một hình thức ích kỷ chống lại xã hội,
anti-social
selfishness. Những kẻ thù của tự do trí thức luôn luôn cố làm cho người
ta tin
rằng, nếu chúng chống tự do trí thức, vì đây là một điều rất cần làm,
một thứ
kỷ luật đề ra, vì đám đông, vì tập thể, một cá nhân là cái thống chế
gì, so với
nhân dân! Nhà văn nào mà từ chối bán ngòi bút của mình, chúng bèn gán
cho họ là
những tên vị kỷ, thứ đồ chỉ biết có mình nó, đâu cần biết đến người
khác. Nhà
văn như thế, bị buộc tội, hoặc là, tự nhốt mình vào trong tháp ngà,
hoặc, coi
mình như là một nơi trình diễn, của chính cá nhân mình, hoặc một kẻ đi
ngược
lại trào lưu của đất nước, ngược lại ba
ngọn trào cách mạng, chỉ để nhằm bấu víu, bảo vệ những đặc quyền không
làm sao
biện minh được nữa của giới viết lách. [Nhưng], muốn viết không cần
luồn lách,
là phải suy nghĩ không sợ hãi, và nếu người nào suy nghĩ không sợ hãi,
thì
người đó không thể nào chấp nhận một đường lối chính trị chính thống."
Sức
ép của quốc doanh độc quyền và của
chế độ thư lại, chủ
nghĩa tổ hợp cá lớn nuốt cá bé, bảo thủ, hạn chế và thu hẹp phạm vi và
phẩm
chất của xuất bản, những chuyện đó, bất cứ một nhà văn hiện đang viết,
đều
biết. Về sức ép của điều không thể chấp nhận được, và của kiểm duyệt ,
bản thân
tôi, mấy năm gần đây, được biết khá nhiều, phải nói là bội thu hiểu
biết. Có
rất nhiều những cuộc chiến đấu như thế đang xẩy ra trên thế giới: Tại
Trung
Quốc, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Nigeria, những nhà văn bị kiểm duyệt,
phiền
nhiễu, làm khó dễ, bỏ tù, và bị giết nữa. Ngay cả ở Âu Châu, ở Hoa Kỳ,
những
"đội quân dông bão" [ám chỉ những những tên Nazi], những tên
"biệt kích" [commandos] , của đủ thứ máu nóng, lạnh, đủ thứ "cảm
tính", chúng tìm cách hạn chế tự do ăn nói của chúng ta. Chưa bao giờ
quan
trọng bằng lúc này, tiếp tục bảo vệ những giá trị nhờ chúng mà có nghệ
thuật
tiểu thuyết . Cái chết của tiểu thuyết thì có thể còn xa, nhưng cái
chết dữ dội
của nhiều tiểu thuyết gia đương thời, than ôi, là một sự kiện không làm
sao
tránh được. Mặc dù vậy, tôi không tin rằng những nhà văn lại từ bỏ giấc
đại
mộng, tác phẩm của ta sẽ trường tồn cùng với hậu thế, sau khi ta đã
ngỏm củ tỏi
rồi. Điều mà George Steiner gọi một cách thật đáng yêu "vô thường thôi,
nhưng thật là cao ngạo", của văn chương, vẫn luôn luôn nóng bỏng ở
trong
chúng ta, cho dù, như ngài giáo sư nói, chúng ta tỏ ra bối rối, khi
phải nói ra
công khai.
[Trong
mỗi chúng ta đều có một Sài Gòn âm ỉ cháy. Tôi đốt
lên ngọn
nến của tôi, để cho Sài Gòn của bạn sáng ngời.
NQT: Lần Cuối Sài Gòn].
Nhà
thơ
Ovide đã đánh dấu chấm hết cho tác phẩm Metamorphoses của ông bằng
những vần
thơ đầy tin tưởng:
Nhưng,
với tất cả tinh hoa ở trong tôi
Tôi sẽ chiếm được địa vị cao vời vợi,
tuyệt vời hơn cả muôn
sao
Tên của tôi sẽ không thể xóa nhòa và
sẽ còn mãi mãi.
Tôi
chắc chắn, ở trong trái tim của
từng nhà văn, đều có
cùng một tham vọng như vầy: người đời còn nhắc nhở đến tôi, trong những
ngày sẽ
tới, cùng cái điều mà nhà thơ Rilke nghĩ về Orpheus:
Orpheus
sẽ đời đời là thiên sứ
Đi qua địa ngục
Mang cho đời hoa trái ngời ngời.
Tháng
Năm 2000
Salman
Rushdie
Nguyên
tác: In Defense of the Novel, Yet Again.
In trong
Step Across this line, Hãy bước qua lằn ranh này, tuyển tập tiểu luận
1992-2002
Nguyễn
Quốc Trụ dịch