TƯỞNG NIỆM
|
Đọc Xuân Sách
Mất vịt
không chửi
Đọc Xuân Sách, là phải đọc dưới
ánh sáng
của… Đức Phật, tai nghe tiếng tụng kinh, là tiếng chửi… mất vịt của cả
nước
Mít, thì mới ngộ ra được!
Có cả tiếng vỗ đồm độp của một
bà ở đầu
ngõ nữa!
Gấu giã từ Đất Bắc, hơn cả nửa
thế kỷ,
lâu lâu, ngay cả khi về già, đem nằm, vẫn có cảm giác, nghe đâu đây có
tiếng vỗ
đồm độp, ở đầu ngõ, của một bà Bắc Kỳ...
Bài của Likhachev, “Phẩm tính trí thức”, là bài rất có ích cho các nhà
văn. Tôi
đặc biệt chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức
Nga,
cũng như đoạn về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn
nước ta
(chứ không phải là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà
mê là
đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền
Nam và ở
hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao
nhiêu
điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner.
Điềm
Không trách gì… Nên tìm đọc….
Tại sao
không đọc… ?
Tuyệt, tuyệt!
Bỏi vì Zinovy Zinik, trên tờ
TLS, May 30, 2008, cũng đặt ra câu hỏi
trên, nhưng
quyết liệt hơn:
Cái gì làm đám trí thức Tây phương mết Liên Xô đến như thế, ngay cả
trong thời
kỳ đen tối nhất của nó?
Có một thời kỳ tôi (Zinik) tính
viết về đề tài này, và coi đám mết Nga
[và mết
VC, tất nhiên], như là những thằng khờ được việc, “useful idiots”,
trước khi
ngộ ra là: Đây là ước mong quyền lực.
Tại nước Nga của Stalin, bạn có
thể bị
đầy đi Siberia, hay bị hành quyết, khi có một lập trường sai, nhưng,
vấn đề,
thế giá của nhà thơ, như là một cao nhân [superior being], kẻ tán
chuyện tào
lao với Nga Hoàng, [và như thế, cũng có quyền lực chính trị thực sự],
thì chưa
được đặt ra.
Quyền lực của Xô Viết, như là một hiện tượng ý thức hệ, sẽ không thể
nào suy
nghĩ được, tư duy được, nếu thiếu những nhà văn nhà thơ, là những người
giải
thích nó cho đám đông. Đám trí thức Tây Phương, khi mết Liên Xô, là do
cái sự
thèm thuồng con nít này, một cách ý thức, hay vô thức. Sự thèm muốn này
thường
bị lẫn lộn với sự say mê xứ sở rộng lớn, tâm linh sâu thẳm.
Ui chao, bi giờ Gấu mới ngã
ngửa ra, là
tại sao lại được ông thi sĩ trẻ không có thơ "khuyên" [chữ của ông],
tại sao cứ lải nhải hoài về Faulkner.
Ui chao, bây giờ Gấu mới hiểu
ra được,
tiếng gõ của cây gậy của Nguyễn Tuân khủng khiếp là dường nào: Real
political
power! Quyền lực chính trị, thứ thực, thứ dữ!
Điêu tàn ư, đâu chỉ
điêu tàn?
Câu thơ của Xuân Sách, phải
được đọc
theo tinh thần sau-Lò Cải Tạo, như một thách thức câu của Adorno:
Sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật
dã man.
Chính là ngửi ra tinh thần đó,
mà mấy
anh ở trong ban biên tập của nhà xb Văn Học đã cho in, dám chịu đi tù.
(1)
Thử hỏi, nếu me-xừ "chủ cũ" của Gấu, Hoàng Lại Giang (2), đọc Chân
Dung Nhà Văn của Xuân Sách, mà lại có ý nghĩ, thằng cha này tâm địa
khốn
nạn, chọc quê lãnh tụ, chọc quê mấy ông trùm văn học, thì... in và chịu
đi tù
làm quái gì!
Lâu lâu cũng phải vinh danh BVVC của Gấu một phát!
(1) Buổi tối trước ngày họp,
ông Giang
nói với ông Nguyên rằng việc xuất bản cuốn sách là trách nhiệm của ông,
thì để
ông “chịu tội”. Ông Nguyên không chịu: “Tôi không thể làm như thế.” BBC
*
(2) Những đứa con của trí tưởng
Tôi không còn nhớ rõ, ai trong
số họ, đề
nghị tôi viết mục đọc sách cho Tuổi Trẻ. Bài đầu tiên, là về cuốn Thám
Tử Buồn,
một truyện dịch của một tác giả Nga. Thảm cảnh của nước Nga sau đổi
mới. Băng
hoại tinh thần và đạo đức đưa đến tội ác. Trong đó có những cảnh như là
con
cháu đưa bố mẹ tới mộ, chưa kịp hạ huyệt, xác bố mẹ còn bỏ trơ đó, đã
vội vàng
về nhà tranh đoạt "gia tài của mẹ". Bố mẹ trẻ bỏ nhà đi du hí, đứa
con bị chết đói, khi khám phá thấy miệng đứa bé còn cả một con dán chưa
kịp
nuốt thay cho sữa! Cuốn tiếp theo, là Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma, của
Isabel
Allende.
Bài điểm cuốn này cho tôi những kỷ niệm
thật thú vị.
Đó là lần đầu tiên tôi đọc Isabel
Allende, nhưng "sư phụ" của bà, tôi quá rành. Có thể nói, cả hai
chúng tôi đều học chung một thầy, là William Faulkner. Do đó, được điểm
cuốn
Ngôi Nhà là một hạnh phúc đối với tôi.
Nó là từ "Asalom, Asalom!"
của Faulkner mà ra. Có tất cả mấy tầng địa ngục của Faulkner ở trong
đó, cộng
thêm địa ngục "giai cấp đấu tranh": ông con trai, con hoang, vô sản,
"mần thịt" đứa chị/em gái dòng chính thống, con địa chủ. Địa chủ, ông
bố cô gái, chính là ông bố của tên cách mạng vô sản!
Có những câu điểm sách mà tôi còn nhớ
đến tận bi giờ:
Những trang sách nóng bỏng trên tay,
run lên bần bật, vì tình yêu và hận thù!
Sau khi bài điểm sách được đăng, tôi
được một anh bạn làm chủ một sạp báo cho biết, mấy người khách quen của
anh đổ
xô đi tìm tờ báo có đăng bài của Nguyễn Quốc Trụ !
Lúc này, nhờ "cởi trói" nên
được xài lại cái tên phản động đồi trụy này rồi!
Chưa hết. Sáng bữa đó, tới văn phòng
phía Nam của nhà xb Văn Học, trình diện ông nhà văn cách mạng Nhật
Tuấn.
Ông chủ của ông chủ, tức Hoàng Lại Giang, chủ nhà xb, vừa thấy mặt, bèn
kêu cô
kế toán lên trình diện, ra lệnh, phát cho tên Ngụy này liền một tí
tiền, coi
như tiền nhuận bút bài viết cho cuốn sách Ngôi Nhà Của Hồn Ma.
Ông biểu thằng Ngụy, bài hay thiệt.
Chính vì vậy mà có bài điểm cuốn thứ ba. Cuốn này là Gấu được ông chủ
"order"!
Cuốn này đụng!
Trong bài viết, khi đọc lại trên
báo, Gấu thấy có từ "Ngụy".
*
Xuân Sách kể lại, nếu Gấu nhớ
không lầm,
lần ông đọc cho Nguyễn Khải nghe, vài nét Chân Dung Nhà Văn VC, Nguyễn
Khải tái
cả mặt.
Khải, đâu phải thứ thường!
Cực kỳ thông minh.
Cái gì làm cho Khải tái cả mặt?
Chàng bị đâm trúng tim đen, Trái Tim
Đen Của Đất Bắc, Trái Tim Hà Lội, mà chàng là tinh hoa số 1, đại diện
xuất sắc
nhất của nó!
Ui chao, giả như Gấu còn ở lại,
thì chưa
biết.... mèo nào cắn mỉu nào!
[Phách lối vừa thôi cha nội, Gấu lại nghe độc giả Tin Văn phì cười,
trách...
yêu!]
*
Nói với BBC hôm nay 03/06/2008 sau khi nghe tin Xuân Sách qua đời, nhà
thơ
Nguyễn Trọng Tạo nói ông là người rất “hóm hỉnh và giàu tính tự trào”.
“Tính tự trào của thơ Xuân Sách đặc biệt bộc lộ qua tập Chân dung Nhà
văn. Ông
đã nắm bắt tính cách các nhà văn rất sắc sảo và tinh tế.”
Nguyễn Trọng Tạo
Theo ông Nguyễn Trọng Tạo,
Xuân Sách có công lớn khi ông “tạo được một
dòng
mạch khiến người ta phải chú ý” trong lối thơ tự vịnh, tự trào.
“Sau này một số nhà thơ cũng làm kiểu như thế, nhưng không ai vượt qua
được
Xuân Sách."
Đặc biệt, phần thơ mô tả các quan chức trong giới văn nghệ
Việt Nam
từ ông Tố Hữu đến Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đã làm dư
luận chú
ý.
Bài về Lưu Quang Vũ đặt cả câu hỏi cái chết bất ngờ khi còn
trẻ
của đạo diễn sân khấu: "Ông không phải là bố tôi, Con chim sâm cầm
ai
giết?"
[BBC]
*
Cái câu "Ông không phải là bố tôi, Con chim sâm cầm ai giết?" có
nghĩa là… tự trào ư? NQT
Có ông, như nhà thơ trẻ Lê
Thiếu Nhơn
"gì gì đó", lại so sánh Xuân Sách với ông Vương Trí Nhàn, khi ông này
khui cái xấu của Mít [và bị đánh tơi bời!]
Cái Ác của Mít.
Nhất là của Yankee mũi tẹt, mới đúng!
*
Ui chao, hóm hỉnh và giầu tính tự trào!
Giá mà Gấu cũng được ông nhà thơ này khen như vậy, nhỉ! (1)
(1) Thỉnh thoảng, em vẫn nghĩ
tới anh,
và nhớ là anh rất hóm và gần gũi!
Thơ Trẻ I
Ui chao, giá mà được "gần
gũi", vào những ngày gần đất xa trời này, nhỉ! NQT
*
Văn chương Đức, sau Lò Thiêu,
thường
được coi là văn chương của những mảnh vụn. Văn chương của điêu tàn.
Xuân Sách, sau [hay trước khi xẩy ra?] Lò Cải Tạo, còn đi xa hơn, vặc
lại mấy
anh Đức, đã từng đoạt Nobel, như Boll, như Grass:
Điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn?
Bảnh như thế đấy.
Vậy mà chỉ được đám ngu cắt nghĩa là sắc sảo, hóm hỉnh và có tính tự
trào!
Có ông rụt rè viết thêm, can đảm, vì dám đụng vô những thần tượng văn
học, như
Tố Hữu, như Lưu Trọng Lư...!
Bởi thế, có ông còn coi chuyện
Sài Gòn
đòi lại cái tên cúng cơm của nó, là chuyện vặt!
Vậy mà cũng làm toáng lên, chính trị hoá mãi ra!
Bệnh thật!
Quả là bệnh thật: Bệnh mù!
Mù ở đây là phải hiểu theo nghĩa của ông nhà văn, gốc Cộng Sản, Jose
Saramago,
nhà văn Bồ Đào Nha, Nobel văn chương 1998.
Rằng mù lòa ở đây là một bệnh
lý học về
lương tâm, hơn là một khuyết tật của mắt, hoặc của kính đeo mắt. Không
phải
chúng ta trở nên mù, mà là chúng ta mù, những người mù có thể nhìn
nhưng không nhìn
(I don't think we did go blind, I think we are blind, I think we are
blind,
blind but seeing, blind people who can see but do not see).
Linh Hồn Của Biển
*
Trong một bài phỏng vấn đăng
trên tạp
chí The Paris Review, khi được hỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào
công việc,
tầm nhìn (vision), chuyện viết lách của ông, G. Steiner đã trả lời: "Đó
là
cái lò Frankfurt (school). Walter Benjamin, nếu còn sống, chắc chắn là
người
viết cuốn "Sau Hỗn Mang" (After Babel, tác phẩm của G. Steiner) thực
sự vĩ đại. Tôi luôn luôn bị ám ảnh rằng cuốn sách đúng ra phải là của
ông, và
nó sẽ tuyệt vời biết bao."
Đọc Biển, tôi cũng bị ám ảnh bởi một cuốn Sau Hỗn Mang như thế.
Như thể
bao nhiêu giọt nước mắt của người đàn bà ngoại tình nhỏ xuống, là để
khóc than
cho một tác phẩm vĩ đại:
Giả sử, những người đã
chết vẫn
còn sống, cuộc phiêu lưu trên biển cả chỉ là những chuyến ngao du,
chẳng hề có
hải tặc, hãm hiếp, nhục nhã, cay đắng...
Rằng sau đó, tất cả mọi
người
Việt Nam lưu vong lại được trở về nhà, trong vinh quang, trong hạnh
phúc...
*
Sự thực, gọi đám ngu kia, là
ngu, là
“không đúng.”
Họ đều nhận thấy như Gấu nhận
thấy, khi
đọc Chân Dung Nhà Văn của Xuân Sách. Nhưng bố bảo, họ cũng không nói
như Gấu
nói. Phải gọi họ là quỉ ma, như Cioran gọi:
Chỉ có quỉ mới cho phép nó hưởng sự xa xỉ, nhìn sự vật như là chúng là.
Trời
mỗi ngày một sáng, có sao đâu?
[Seul un monstre peut se permettre le luxe de voir les choses telle
qu’elles
sont. Cioran: Histoire et Utopie.]
*
Về Huy Cận:
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gầy quá, còn tôi béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày một sáng có sao đâu!
Không lẽ những dòng trên, là có
tính ...
tự trào?
Bến Quê
Tôi về với bến sông
xưa,
Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò.
Nhìn theo ngọn khói vu vơ,
Nhớ thương thì có, đợi chờ thì không.
Xuân Sách
Đọc bất cứ bài tưởng niệm, thật
dễ ngửi
ra, mùi hạnh phúc của thằng đang sống, “ngậm ngùi nhớ thương" thằng đã
chết! (1)
(1) As a theme, death is a good litmus test for a poet's ethics. The
"in
memoriam" genre is frequently used to exercise self-pity or for
metaphysical trips that denote the subconscious superiority of survivor
over
victim, of majority (of the alive) over minority (of the dead).
Brodsky giới thiệu thơ Akhmatova
*
Ui chao. Gấu lại nhớ ra cái vẻ sung sướng của mấy đấng bạn quí, khi Gấu
trầm
luân trong “lò cừ”, đúng là cái sung sướng của kẻ còn sống, ra cái điều
sót
thương thằng bạn đã chết.
Thế rồi đến khi Gấu "thoát
chết", hoặc "nhất định không chịu chết", và "sống
lại", thế là các đấng bạn quí lần này thực sự buồn.
Buồn lắm.
*
Oh Lord! You see how
tired one grows
Of resurrection, and
dying, and living,
Take it all except this crimson rose-
Let me feel the freshness of the gift
it's giving.
Ui choa, chua choa, Chúa ơi, thảm cho
Gấu này chưa,
Lóp ngó bò lên từ tái sinh, và chết, và
sống,
Lấy hết mẹ nó đi, trừ bông Crimson Rose
-
Hãy cho Gấu ngửi mùi tươi mát của món
quà tặng này.
*
Gấu đọc, những bài tưởng niệm Xuân Sách, đều ngửi ra "mùi hạnh phúc",
trừ bài này,
Với Xuân Sách viết khi
ông còn sống, mà đã thực sự ngậm ngùi.
Được, đuợc! [Lại nhớ Mai Thảo.
NQT]
Dinner Party Test
Thử nghiệm tại bàn ăn
Đúng ra, có lẽ phải gọi là cuộc Hoa Sơn
luận kiếm giữa Đông và Tây.
Một thứ "Hội Nuận", Summit, ở thượng đỉnh!
Zinovy Zinik là một nhà văn
Nga. Ông là
tác giả một tập chuyện hài, comic stories và những phác họa về cuộc
sống ở bên
ngoài nước Nga, At Home Abroad, xuất đầu năm nay, 2008, bởi Tri
Kvadrata, Moscow.
Bài viết, nhan đề như trên, đăng trên TLS, số đề ngày 30 Tháng Năm
2008, chủ
yếu là về cuộc họp thượng đỉnh, cách đây hai chục năm, do cơ quan
Wheatland
Foundation tổ chức, tại Lisbon. Và đó là lần đầu tiên những nhà văn Xô
Viết
chính thức được Nhà nước cho phép gặp những nhà văn Tây Phương.
Zinik viết về cuộc đụng độ giữa
ông và
Salman Rushdie, nhân một bài viết của ông, bùng ra tại bàn hội nuận.
Cuộc hội nuận gồm đủ các danh tài, nào Rushdie, Brodsky, Tolstaya,
Derek
Walcott [thi sĩ Nobel văn chương]...
Ui chao, vậy mà giờ Gấu mới biết đến… Hội Nuận này!
*
Cái gì làm đám trí thức Tây phương mết Liên Xô đến như thế, ngay cả
trong thời
kỳ đen tối nhất của nó?
Có một thời kỳ tôi (Zinik) tính viết về đề tài này, và coi đám mết Nga
[và mết
VC, tất nhiên], như là những thằng khờ được việc, “useful idiots”,
trước khi
ngộ ra là: Đây là ước mong quyền lực.
Tại nước Nga của Stalin, bạn có
thể bị
đầy đi Siberia, hay bị hành quyết, khi có một lập trường sai, nhưng,
vấn đề,
thế giá của nhà thơ, như là một cao nhân [superior being], kẻ tán
chuyện tào
lao với Nga Hoàng, [và như thế, cũng có quyền lực chính trị thực sự],
thì chưa
được đặt ra.
Quyền lực của Xô Viết, như là một hiện tượng ý thức hệ, sẽ không thể
nào suy
nghĩ được, tư duy được, nếu thiếu những nhà văn nhà thơ, là những người
giải
thích nó cho đám đông. Đám trí thức Tây Phương, khi mết Liên Xô, là do
cái sự
thèm thuồng con nít này, một cách ý thức, hay vô thức. Sự thèm muốn này
thường
bị lẫn lộn với sự say mê xứ sở rộng lớn, tâm linh sâu thẳm.
Cái tính đồ con nít, và cùng lúc, cái tính xì níc, khốn kiếp, mết quyền
lực nhà
nước, cái chủ nghĩa man rợ làm tà lọt cho nhà nước, tuy nhiên, không có
nghĩa,
nhà văn phải chạy trốn quyền lực. Zinik viết tiếp.
"Văn chương không phản ảnh đời sống, và đời sống không theo những câu
phán
của thằng cha Gấu - của văn chương, Gấu xin lỗi, viết lộn - [life does
not
follow the dictates of literature]. Văn chương là một phần của đời
sống, nó một
đời quá, đời dư, đời ngoại, an extra life, trong đó, tác giả trị vì như
một vị
hoàng đế có đầy đủ quyền uy, [chữ của TTT, ngay đầu tập thơ Tôi
không còn cô
độc], the author rules as an autocrat.
Với tiểu thuyết gia, những tư tưởng của những nhân vật của ông thì cũng
thực
như là cây, là tiền bạc, hay nhà cầm quyền. Nhưng, không như những thứ
này, ở
điều này: những từ ngữ của tiểu thuyết gia, là liên quan tới ước muốn
riêng,
chủ đích riêng của người đó: Chúng hiện hữu, chúng có một phần đời
riêng, tách
ra khỏi tác giả, chỉ khi nào chúng được nghe, được đọc, bị tố cáo, phản
ứng.
Càng nhiều người nghe, chúng càng trở nên sống động. Nhà văn chiến đấu
để giành
cái đó - giành giật công chúng - không phải để có được một sự kính nể
riêng cho
mình, có tính vị kỷ, (seft-interest), nhưng mà cho nghĩa cả, cho cái
tốt hơn,
lớn lao hơn, for the greater good, của những từ ngữ của người đó.
*
Tôi về với bến sông xưa,
Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò.
Nhìn theo ngọn khói vu vơ,
Nhớ thương thì có, đợi chờ thì không.
Mà chưa gọi đò?
Liệu, tiếng gọi đò chưa gọi này có liên can đến “giật mình lại tưởng
tiếng ai
gọi đò”, của một thi sĩ khác [Ai nhỉ? Trần Tế Xương? NQT] (1)
Và liệu, đây là thứ thanh âm, sound, mà Brodsky nhắc tới, khi vinh danh
Akhmatova:
Akhmatova was a very concrete poet, but the more concrete the image the
more
temporary it would become because of the accompanying meter. No poem is
ever
written for its story-line sake only, like no life is lived for the
sake of an
obituary. What is called the music of a poem is essentially
restructured in
such a way that it brings this poem's content into a linguistically
inevitable,
memorable focus.
Sound, in other words, is the seat of Time in the poem, a background
against
which its content acquires a stereoscopic quality.
*
No poem is ever written for its story-line sake only, like no life is
lived for
the sake of an obituary. (2)
Tuyệt!
(1) Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Ðêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò..”
Trần Tế Xương
Nguồn
(2) Đâu có bài thơ nào viết ra chỉ để góp thêm vào dòng thơ, dòng
chuyện,
cũng như đâu có cuộc đời nào được sống chỉ để làm đầy một trang cáo
phó. Tạm
dịch.
Tks K. NQT
*
Jakobson biến văn chương thành
một món
quà tuyệt vời: ông cho nó môn ngôn ngữ học. Lẽ dĩ nhiên, Văn chương
chẳng chờ
đợi, để biết, nó đã là Ngôn Ngữ; tất cả Tu Từ Học cổ điển, tới Valéry,
khẳng
định sự kiện này; nhưng một khi, một khoa học ngôn ngữ được truy tìm,
(thoạt kỳ
thủy dưới dạng ngôn ngữ học - mang tính so sánh, dọc theo lịch sử - về
các ngôn
ngữ), thật lạ lùng khi những "hiệu quả" của cái nghĩa đã bị bỏ qua.
Sự lơ là này, ở thế kỷ của chủ nghĩa tích cực (thế kỷ muời chín), là do
rơi vào
chuyện coi như là cấm vật (taboo), những lĩnh vực chuyên biệt: một bên
là Khoa
Học, Lý Lẽ, Sự Kiện; một bên, là Nghệ Thuật, Cảm Tính, Ấn Tượng.
Ngay từ khi còn trẻ, Jakobson đã lưu tâm tới chuyện sửa đổi tình trạng
này: bởi
vì nhà ngôn ngữ học đã một lòng một dạ với mối tình lớn của ông, dành
cho thi
ca, hội họa, nghệ thuật thứ bẩy; bởi vì, ở trái tim của sự tìm tòi khoa
học của
mình, ông không bao giờ kiểm duyệt niềm vui như một người có văn hóa;
và ông
nhận ra, hiện tượng khoa học chân thực của hiện đại tính không phải "sự
kiện", mà là "sự liên hệ".
"Nhà ngôn ngữ học - điếc trước
nhiệm vụ thi ca - như chuyên viên văn chương - dửng dưng trước những
vấn đề,
ngu dốt trước những phương pháp, của ngôn ngữ học - trong trường hợp
nào thì
cũng là một lỗi thời trắng trợn."
Món quà tuyệt vời
*
The Return of the Poetician
When he sits down in front of
the
literary work, the poetician does not ask himself: What does this mean?
Where
does this come from? What does it connect to? But, more simply and more
arduously: How is this made? This question has already been
asked three
times in our history: Poetics has three patrons: Aristotle (whose
Poetics
provides the first structural analysis of the levels and parts of the
tragic
oeuvre), Valery (who insisted that literature be established as an
object of
language), Jakobson (who calls poetic any message which
emphasizes its
own verbal signifier). Poetics is therefore at once very old (linked to
the
whole rhetorical culture of our civilization) and very new, insofar as
it can
today benefit from the important renewal of the sciences of language.
Khi ngồi xuống, đằng trước là một tác phẩm văn học, người làm thơ không
tự hỏi:
Cái này nghĩa là gì? Cái này đến từ đâu? Nó móc nối tới cái gì? Nhưng,
đơn giản
hơn, và cũng thật hung hăng con bọ xít hơn: Cái này được làm ra như
thế nào?
Câu hỏi trên đã được đưa ra ba lần rồi, trong lịch sử của chúng ta: Cõi
Thơ có
ba ông Trùm: Aristotle [tác phẩm Thi Học của ông Trùm này cung cấp bản
nghiên
cứu thứ nhất, về cấu trúc một bi kịch, với đủ mọi lớp lang, phần
đoạn của
nó], Valery, [ông này cứ phán đi phán lại, rằng, văn chương được thành
lập như
là một đối vật của ngôn ngữ], Jakobson, [người ngửi và phán, "có mùi
thơ
đấy", bất cứ một thông điệp nhấn mạnh lên phần tạo nghĩa, của riêng
nó].
Cõi Thơ, như thế, cùng một lúc, thật là xưa, [do mắc mớ tới trọn cả nền
văn hóa
tu từ của văn minh của chúng ta], và thật là mới, do việc đổi mới quan
trọng
của những môn khoa học về ngôn ngữ, và từ đó, là những lợi lộc mà nó
đem lại
cho Cõi Thơ.
Roland Barthes
Chắc lại phải lèm bèm về thơ, vì thấy mấy ông mù tịt về thơ, bàn láo
quá về
thơ!
NQT
Hải ngoại biết Xuân Sách qua
Chân Dung
Nhà Văn, không biết ông còn là nhà thơ “thứ thiệt”. Khi ông quên cái
đám khốn
kiếp, và qua chúng, là Cái Ác, Cái Độc Bắc Kít, ông làm thơ. Thơ của
ông làm
"liên tưởng" đến những thoáng hạnh phúc, thoáng mặt trời trong Lò
Thiêu, của Kertesz.
Một anh bạn của Gấu, trải qua
13 năm ở
Lò Cải Tạo, biểu Gấu, có sự khác biệt giữa hai cái ác đó, theo tao. Tao
ở trong
Lò Cải Tạo, lâu như thế, về, không tuyệt vọng về con người đến phải tự
tử như
Primo Levi, thí dụ vậy. Tâm hồn tao, sau khi ra tù, sợ còn thoải mái
hơn trước.
Trước, cứ nghĩ mình bậy. Mình là thằng Nguỵ, thằng Việt Gian, thằng Bán
Nước.
Vô tù, mới ngộ, không phải vậy. Chính cái thằng bắt mình vô tù mới là
Đại Việt
Gian!
Anh bạn làm Gấu nhớ đến một 'thèse", đề tài, của Cioran: Nhân loại biến
mất vào cái ngày người ta kiếm ra được tất cả những thứ thuốc chữa mọi
thứ
bịnh, thứ ác, thứ độc của con người.
Cioran phán như trên, trong một cuộc phỏng vấn. Và tay phỏng vấn vặc
lại:
Huxley nói, ở đâu đó rằng, chuyện đó phi lý, bởi vì kinh nghiệm chứng
tỏ, thiên
nhiên hoạt động theo kiểu, cứ con người kiếm ra được một thứ thuốc trị
bịnh,
thì một thứ bệnh khác lại nẩy sinh ra, thế vào chỗ vừa rồi.
Cioran: Hay, hay thiệt. Đúng như thế. Tuy nhiên, nói theo lý thuyết,
người ta
có thể tưởng tượng con người làm ra được một sản phẩm chữa lành tất cả
mọi thứ
bịnh. Và nếu như thế, thì khủng khiếp quá, bởi vì con người phải chết,
dù muốn
dù không. Cho dù có sống tới năm trăm năm. Do tiến bộ y học mà con
người bây
giờ chết một cái chết không tự nhiên. Cuộc sống của chúng ta kéo dài
một cách
giả tạo, artificellement, cuộc chiến đấu chống thần chết kéo dài mãi
ra, và như
thế là phi nhân.
...
Trong Faust của Goethe, Quỉ là tên hầu của Thượng Đế. Tôi [Cioran] sợ
ngược
lại. Có vẻ như vào lúc này, Thượng Đế đang hì hục phục vụ Quỉ đến mệt
nhoài!
Nếu Thượng Đế là chủ thế gian, thì sẽ đếch có lịch sử!
Nhưng, giả như Thượng Đế là chủ thế gian, thì những lúc xẩy ra Lò
Thiêu, Lò Cải
Tạo, Người vắng mặt, nhường chỗ cho Quỉ!
Đâu có sao!
|