Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn...
Giải thưởng Goncourt 1997 của Pháp về tay một
nhà văn
chuyên môn bắt chước người khác: Marguerite Duraille, tức Patrick
Rambaud.
Marguerite Duraille, là từ Marguerite Duras, một nhà văn nữ nổi tiếng
của Pháp.
Tác phẩm của ông vua ăn trộm này cũng từ Duras: Mururoa mon amour (Hiroshima mon
amour).
Chúng ta tự hỏi, chuyện mô phỏng trong văn chương, là do quá say mê
thần tượng,
hay là do thiếu khả năng sáng tạo. Dù thế nào, thì đây cũng là một dòng
văn
chương hoàn toàn riêng lẻ, với những đại gia như De Reboux, Eco...
Một trong những cuốn sách của Eco, riêng tựa
đề thôi,
đã là một xúc phạm tới những đầu óc nghiêm túc: Làm thế nào dạo chơi
với một
chú cá hồi. Tác phẩm nổi tiếng của nhà văn này, Tên của bông hồng, là
một món
dựa mận, nào Conan Doyle, Borges, cùng với cả lô tác giả thời trung cổ.
Mộc tồn
hai lửa mới ngon, dân nhậu chúng ta đã có kinh nghiệm về chuyện này
rồi. Nội từ
mộc tồn không thôi, là đã trải qua mấy kiếp mô phỏng: mộc tồn=cây còn=
con cầy.
Đây là chuyện nghiêm túc: Những giáo sư
trường Mỹ
Nghệ, khi bắt học trò tới "cọp dê" (copier) những họa phẩm tại
Louvre, tại Sorbonne, đã coi mô phỏng là bài tập bắt buộc, không thể
thay thế
được. Nhiều nhà văn, trước khi nhẩy xuống nước, đã phải học bơi ở những
tiền
bối. Trước khi vào trận với bộ tiểu thuyết khổng lồ, "Đi tìm thời đã
mất" Proust đã "tam kiến thảo lư" không phải một mà là
"hàng lô" Khổng Minh. Đề tài mà ông quan tâm: một chuyện ăn trộm
(escroquerie) làm say mê dư luận. Và ông đã thử kể, cùng một câu
chuyện, bằng 9
cây viết khác nhau: Renan, Sainte-Beuve, anh em nhà Goncourt, Michelet,
Saint-Simon, Balzac... Trong khi hì hục như vậy, ông trở thành ngang
hàng với
họ.
Patrick Rambaud, Goncourt 1997 với cuốn Trận
đánh, La
Bataille (nhà xb Grasset), rất say mê mấy trò mô phỏng của bậc đàn anh
Proust.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ Đọc (Lire), ông phân biệt giữa mô
phỏng
(pastiche), và nhại (parodie). Giữa say mê, ngưỡng mộ, và chế nhạo. Và
cùng với
chế nhạo, là sự độc ác, ở một mức độ nào đó.
Là một độc giả trung thành của Reboux và
Muller, qua
cuốn Phỏng theo... (A la manière de...), ông tự hỏi, liệu có thể tái
tạo kinh
nghiệm này với những tác giả đồng thời. Và sau đó, với sự cộng tác của
một
người bạn, chừng 40 tác phẩm nhạo, nhại đã ra đời, như "Roland Barthes,
dễ
thôi" (R. Barthes sans peine); Francois Sagan: Một con tầu trong mắt em
(nhại Một chút mặt trời trong nước lạnh). Simone de Beauvoir La Farce
(Chuyện
hề) des choses (La Force des choses: Sức mạnh của những sự vật). Rồi
Aragon, de
Gaulle, Phillipe Sollers, André Malraux...
Những nạn nhân phản ứng ra sao? Họ đau, đau
lắm. Nhiều
người giận điên lên. Theo ông, kẻ bị nhại càng lớn đầu, càng dễ đập,
niềm vui
càng kéo dài. Thí dụ như M. Duras. Bà ta quá gồng mình, quá tự mãn đến
nỗi,
chẳng khó khăn gì, tôi có ngay hai tác phẩm: Virginie Q. và Mururoa mon
amour,
cùng ký tên M. Duraille.
Ở Việt Nam, Xuân Sách cũng thật sắc sảo trong
trò chơi
mô phỏng mấy đàn anh văn nghệ. Nghe kể lại, có những bậc trước khi nhắm
mắt,
còn ân hận, không được ông chiếu cố!
Viết đến đây, tôi bỗng nhớ đến nghệ thuật
chửi, của
mấy bà già nhà quê. Chửi cũng là một hình thức lập lại, những câu chửi
có sẵn
trong nhân gian, rồi thậm xưng, sáng tạo thêm. Trong những câu chuyện
chửi
"tốt", có một, từ Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, được Hiếu Chân
mô phỏng. Đó là câu chuyện mất vịt không chửi. Đại khái như sau: một bà
già nhà
quê có một bầy vịt, cứ hao hụt dần. Nhưng chẳng bao giờ bà ra đầu ngõ,
chổng
mông, vén váy tố "mả cha, mả bố thằng nào, con nào bắt trộm của
bà...". Anh chàng hàng xóm khoái món thịt vịt luộc chấm mắm gừng, một
bữa
thức dậy, bỗng thấy lông vịt mọc lên, trước còn ít sau cứ thế lan khắp
người!
Hoảng quá, lên chùa, cầu cứu Phật. Phật nói, muốn hết bệnh, phải đến
nhờ bà cụ
mất vịt chửi cho! Chửi đến đâu, lông vịt rụng tới đó!
Nhìn theo kiểu "mô phỏng, xiên lệch, xỏ lá"
như vậy, chúng ta mới thấy giá trị của những lời "giải oan" của dòng
văn chương "phản kháng": giả sử không có những lời "chanh
chua" của một Phạm Thị Hoài, thí dụ vậy, không hiểu lông vịt sẽ còn
tràn
lan tới đâu, trong thế giới toàn trị đó! Trường hợp của Xuân Sách, và
những bài
thơ của ông, khác với tác giả ăn giải Goncourt là vậy.
Nhân đây cũng nên "tụng" thêm một vài lần,
đôi ba vần thơ của ông.
Về Chế Lan Viên:
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Về Huy Cận:
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gầy quá, còn tôi béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày một sáng có sao đâu!
Trang đầu cuốn tiểu thuyết Trận Đánh, là
những lời đề
tặng, cũng hơi khác thường: Gửi Bà Pham Thi Tieu Hong với yêu thương,
Cô Xuan
với cảm mến, Ông de Balzac với những lời xin lỗi của tôi. Tại sao lại
có những
lời xin lỗi ở đây? Tác giả giải thích:
Tôi muốn dẫn các bạn tới tất cả những kinh
tởm, tất cả
những vẻ đẹp của chiến trường; trận đánh của tôi, đó là trận Essling.
Cuốn tiểu
thuyết này, Balzac đã tính viết, ông nghĩ về nó, ông đi thăm những nơi
chốn,
gặp gỡ những nhân chứng, ghi chú. Ông tuyên bố ý định của mình, trong
một lá
thư dài, gửi bà Hanska, nhưng bị chi phối bởi cả ngàn dự án này nọ, ông
chẳng
bao giờ cho chúng ta được đọc cuốn sách đã ám ảnh ông.
Tại sao Balzac muốn kể lại (trận đánh)
Essling? Tại
sao ông muốn đưa chúng ta tới ngưỡng cửa thành phố Vienne, vào năm
1809, cùng
với Nã Phá Luân? Tại sao không phải (là những trận đánh khác): Marengo,
Aboukir, Austerlitz, hay Wagram? Tại sao
chỉ nội trong hai ngày trời
tàn khốc này, khi con người chẳng còn ham muốn chém giết nhau, vậy mà
con số
nằm xuống cánh đồng lúa mì là 40 ngàn người? Để tìm hiểu, chỉ còn mỗi
một cách
là, đến lượt tôi vượt sông Danube, phi ngựa cùng Lames và Masséna, ngửi
mùi lửa
cháy, run sợ cùng những tiếng đại bác của quân Áo... Thoạt đầu, chỉ là
một tra
vấn, tiếp theo là tò mò, sau đó là ham muốn, và sau cùng, là một cần
thiết."
"Nào lên ngựa!"
Ng. Tuấn Anh