|
"Nguyễn
Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì
chất
khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái
chất
khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng
uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh"
Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có
thể
"hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân
truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của
lòng
nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra
tiếng
Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương."
"Mot
chuyen di" cua GNV hay qua. Nguoi trong nuoc cung dang viet hang
loat ve
Nguyen Tuan, nhung khong hieu sao, doc ho cu co cam giac nhu dang nghe
mot nhom
nguoi noi chuyen voi nhau trong mot... dam gio^~. Toi khong noi dieu
nay vi
do-ky gi dau, that long thoi.
Nhung xin
dung co dua mail toi len TV day nhe, toi dang tro chuyen voi GNV thoi.
Kinh chuc
GNV an khang.
HA
Cái mail
này, Em của Gấu cấm post, nhưng Em bỏ Gấu rồi, bèn mạn phép ... vờ!
Take care,
please.
GNV
Cynthia
Ozick, trong “Tính Ích Kỷ của Nghệ Thuật” [The Selfishness of Art],
viết, tiểu
sử, hay gọi nó là cuộc đời, mắc míu tới một dúm nhà văn
- nhưng, chỉ với một dúm nhà văn - với sự kỳ
lợm ma quái của một hồn ma: lịch sử, câu chuyện về cuộc đời của họ, cứ
mờ dần
đi và lẩn vào ngụ ngôn, biến thành giai thoại.
Ai nghĩ về một
Scott Fitzgerald mà bỏ qua bệnh điên của bà vợ, Zelda?
Nguyễn Tuân,
bỏ đi cây ba tong của ông?
Cây gậy, một
sự kiện có thực, như thế đó, cũng biến thành huyền thoại, chẳng có khác
gì cái
hộp hổ phù đựng thuốc lào của một tay anh chị trong Vang Bóng Một Thời.
Có thể,
chính vì nghĩ như vậy, Trần Dần chẳng hề “delete” những cái độc, cái
ác, những
ngày ông và bạn bè trải qua, sau Cách Mạng Mùa Thu.
Chính cái đời
tư của ông trở thành một địch thủ đáng sợ của tác phẩm của ông.
*
Gấu cứ luẩn
quẩn với câu hỏi, tại làm sao Trần Dần không “đánh bóng” Sổ Ghi, làm
cho nó dịu
dàng đi, bớt độc đi, cho đến khi đọc những dòng trên của Ozick.
Thành thử
cái gọi là thông điệp, nếu có, ở những con người như Hoàng Cầm, như
Trần Dần, lại
chính là cuộc đời riêng tư của họ.
Chính cuộc đời
của họ, và những cay đắng nhục nhã họ phải chịu đựng khi nói "Không"
với quyền lực, đã tố cáo chế độ, mạnh hơn tác phẩm của họ.
Thơ của tôi
không cần thông điệp, là còn theo nghĩa đó.
*
Trong bài
Vài kỷ niệm về Mai Thảo, Gấu có nhắc tới Virginia Woolf. Trong năm bài
essays
nho nhỏ về thành phố London [The
London Scene], bà có đưa ra một nhận xét,
không hẳn giống như Ozick, về đời tư nhà văn nhớn:
London, may
mắn thay, đầy những nhà của Vĩ Nhân, Great Men. Với đầy đủ những trò
lẩm cẩm,
nào là cái ghế họ ngồi, cái ly họ uống cà phê, cái giỏ đựng rác… Chúng
ta đến
căn nhà của Dickens, không hẳn hoàn toàn chỉ vì tò mò, nhưng mà còn để
nhận ra
một điều: có thể, họ cũng chẳng có một khiếu thẩm mỹ nào ghê gớm lắm,
nhưng những
dấu ấn của họ lên những đồ vật thì thật rõ nét… Cách họ sắp xếp bàn
ghế, đồ đạc,
nhà cửa của họ.. làm sao cho chúng trở thành một phần của cuộc đời của
họ. Chỉ
cần một giờ quanh quẩn ở nơi đó, là chúng ta có thể biết nhiều về họ,
hơn những
gì chúng ta được biết từ những cuốn tiểu sử dầy cộm.
Không hiểu
những miếu đền, những ngàn chương sử, mà Mai Thảo mơ ước đó, là về ông,
hay là
về Sài Gòn, có Quán Chùa, hay Tiểu Sài Gòn, có căn phòng, có một ông
già bịnh,
mơ mơ màng màng, chẳng bao lâu, ta sẽ là cả thế giới…
Bientôt, je
serai tout le monde.
Je serai
mort
Borges.
Vài kỷ niệm
về Mai Thảo
Bài viết
này, có thể coi là bài văn tế sống Mai Thảo, viết vội, khi nghe ông sắp
đi.
Nguyễn Mộng Giác vội vàng mang vô nhà thương đọc cho Mai Thảo nghe. Ông
cám ơn
Gấu, qua Nguyễn Mộng Giác, và còn nói thêm, bây giờ, sao nó viết dễ
đọc, khác hẳn
ngày xưa.
100
ans Camus
Orwell Gốc Tẩy
Cách nhau
10 tuổi, những
cả hai cùng chết ở cái tuổi 46, họ có quá “một”, những
nét giống nhau. Thuộc địa,
trước tiên. Một ông sinh ở Ấn, rồi phục vụ Nữ Hoàng Anh trong ngành Cớm
tại Miến.
Một ông trải qua tuổi thơ và tuổi mới lớn ở Algérie. Trở thành ký giả,
trải qua
cực tả [chủ nghĩa xã hội cách mạng với Orwell, cộng sản với Camus], cả
hai cùng
ngộ ra, và cùng tố cáo cái gọi là sự "vô nhân kìm kẹp con người của tả
phái toàn trị", như Ian Brunskill viết
trên tờ Thời Báo Luân Đôn
trong 1 bài viết nhan đề là "Orwell Gốc Tẩy". Nếu kẻ này, kẻ
kia ,thì đều mềm lòng trước những tư tưởng trừu tượng, cả hai đều dám
thí mạng
cùi vì một nghĩa cả; một, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, một trong
Kháng Chiến.
Cả hai đều ho lao, và Orwell ngỏm vì nó.
Tới đó là chấm
dứt. Gia đình Camus, cực nghèo, chàng khố rách áo ôm, mẹ mù chữ, đi ở
đợ, làm mướn, trong khi
Orwell, thuộc tầng lớp trung lưu, cuộc sống dễ dãi, thoải mái. Chàng
được gia đình
cho học Eton, trường college bảnh nhất
Ăng Lê. Nếu cả hai đều nuôi dưỡng lòng ân hận về môi trường sống của
mình, thì mỗi
bên 1 kiểu; với Orwell, là thứ “tình cảm sâu xa về 1 lưu đày nội”, từ
của Alain
Vircondelet, trong 1 cuốn tiểu sử mới đây về Camus [“Albert Camus, đứa
con trai
của Alger”, nhà xb Fayard, 2010], trong khi Orwell, là 1 hình ảnh vuông
vắn, với
những tư tưởng trong sáng, rạch ròi, một vì quan tuyên cáo, trong cuộc
chiến chống
lại chủ nghĩa đế quốc, và sự bất công dưới mọi hình thức, một thành
viên của 1
chủ nghĩa xã hội chống-toàn trị. Camus tạo đủ thứ kẻ thù, từ bốn phương
tám hướng,
trong khi loay hoay, hì hục cố vạch ra 1 con đường thứ ba, giữa tả và
hữu, từ
chối chấp nhận 1 sự độc lập của Algérie, theo cái kiểu, tất yếu phải
như thế, và
xác định vị trí của mình, qua câu phán nổi tiếng khi nhận giải Nobel
văn chương:
“Tôi tin vào công lý, nhưng tôi bảo vệ mẹ tôi trước công lý”.
Chợt nhớ đến "Tâm sự của nước độc" viết từ lâu lâu rồi.
Mãi rồi cũng
lục ra được quyển sách. Kiệt tác của Nguyễn Tuân.
Blog NL
“Chùa Đàn”
theo Gấu không phải là kiệt tác của Nguyễn Tuân. Cuốn bảnh nhất của ông
phải là "Chiếc lư đồng mắt cua”, nếu không tính tới “Vang Bóng Một
Thời”.
Nguyễn Tuân là con người
của hưởng lạc những thú vui trần tục của cõi đời. Chỉ ở
cõi đó, ông mới bộc lộ hết tài năng, và.. thú năng, có thể nói như vậy.
Khi viết
“Chùa Đàn”, “Người” cũng mơ tưởng cách mạng, cách miếc, thành ra mới
nào là “thị
trấn ngày mai ca hát”, nào là, thôi bỏ cái mõ xuống, cởi cái áo nâu
xồng ra, chạy
ngay ra ngoài đường, nhập vào đám đông, nối vòng tay lớn!
Những độc giả chê văn
NT, là cũng không hiểu cõi chơi của ông. NT không mê văn theo cái kiểu
chúng ta
hiểu, ông cũng mượn nó, để hưởng thụ cuộc đời.
Nhưng ở trong thâm tâm của ông,
có 1 thằng người nghệ sĩ, và nó yêu con người, như 1 nghệ sĩ.
Bởi thế, cú
cuối truyện bao giờ cũng là cú NT trở lại với con người thực này, đúng
như
Lukacs phán, khi đó, ý thức tiểu thuyết gia vượt ý thức nhân vật để trở
lại đời
sống thực. Câu văn -câu hỏi, đúng hơn - tưởng là rất thường, “Xuyến
người bên lương
hay người bên giáo?” kết thúc "Chiếc lư đồng mắt cua” không phải ai
cũng viết
được, chẳng khác gì câu “Anh yêu quê hương vô cùng, yêu Em vô cùng”
chấm dứt Bếp
Lửa. Cả cuốn truyện, nhân vật chính ngất nga ngất ngư trong 1 Hà
Nội trong cơn
chao đảo - địa chấn, đúng hơn, đi hay ở thì đều là chia lìa, và cái
chết… – và chàng bừng tỉnh giấc hôn thụy
và phán,
anh yêu em, anh yêu quê hương vô cùng!
*
Chùa Đàn của
Nguyễn Tuân gồm ba phần: Dựng, Tâm
Sự Của Nước Độc, và Mưỡu Cuối. Dựng
là một
thứ "intro", "ouverture", giới thiệu nhân vật, và mở ra cuộc
gặp gỡ định mệnh, giữa "chữ" – giữa ông nhà văn, người kể chuyện,
nhân vật xưng tôi: "Bị phát vãng lên đường ngược, ở một tỉnh phía tây
Bắc
Bộ vào những năm khủng bố thời Pháp thuộc ấy, tôi đã chú ý đến một
người
tù" – và "vật" – "vật" ở đây có thể hiểu như là danh từ
tắt, để chỉ chủ nghĩa duy vật lịch sử qua nhân vật "đại diện" của nó:
Lịnh, anh chàng trí thức tiểu tư sản, "ngộ" sau cái chết của một cái
chết – cái chết của người vợ cưng, và cái chết của một người đầy tớ, và
cũng là
một tri kỷ muộn: chỉ sau khi Bá Nhỡ chết vì tiếng đàn, Lịnh mới đốt Mê Thảo, tửu
phần, và đi theo Cách Mạng.
Cảm tình tri
ngộ, Cô Tơ, sau khi Bá Nhỡ chết, đã xin lập am để thờ, và qui y Cửa
Phật.
Mưỡu Cuối, kể
cuộc gặp gỡ giữa nhân vật xưng tôi, và sư Tuệ Không, pháp danh của Cô
Tơ, và khẳng
định về một Ngày Mai Ca Hát không thể thiếu tiếng hát của một Cô Tơ:
"Không Cô Tơ ấy phải sống – nghĩa là sư thầy cũng phải tái sinh ngay
lại
vào cuộc đời thực tại này. Không cần phải đợi cho tóc mọc lại, vì cần
kíp lắm rồi....
Hãy vứt lại cái mõ, cầm ngay lấy đoạn trúc xưa mà hát lên một bài cho
xứ sở
rung thêm lên nữa với công cuộc đang sinh thành. Cô há chẳng thấy cuộc
đời đang
tưng bừng đi tới...".
Theo tôi, có
ba cách đọc Chùa Đàn, với
"chỉ một" độc giả của nó. Nói một cách
khác, cấu trúc Chùa Đàn chính
là câu thai đố mà con nhân sư đặt ra cho Oedipe,
và vì giải được, Oedipe đã phải chịu lời nguyền của nó: giết cha, lấy
mẹ, tự chọc
mù mắt mình, đi lang thang trong sa mạc...
Con vật nào
buổi sáng đi bốn chân, là độc giả của
Chùa Đàn khi còn trẻ tuổi, hăm hở với giấc
mơ làm lại lịch sử, thay đổi cuộc đời. Với một độc giả như vậy, đoạn
cuối, là đoạn
hay nhất, tuyệt nhất. Một Tâm Sự Của
Nước Độc, một nhân vật thần thoại như thế,
Lãnh Út, làm sao có thể kết thúc, bằng những tiếng gõ mõ tẻ nhạt của
một sư thầy
Tuệ Không?
Con vật nào
buổi chiều đi ba chân: Một độc giả già, sẽ bỏ luôn cả phần đầu, và phần
cuối,
và chỉ giữ lại, phần giữa: Tâm Sự Của Nước Độc.
Như các bạn
đã biết, con vật mà con nhân sư nói tới đó, là con người, khi còn nhỏ,
bò, khi
lớn, đi bằng hai chân, và về già, chống gậy.
Và cách đọc
thứ ba, của Chùa Đàn là dành
cho những độc giả, ở một nơi chốn không thể có tiếng
hát, hoặc có tiếng hát, nhưng là thứ âm nhạc của những kẻ trầm luân,
hát ở đáy
địa ngục, nói theo Kafka.
Nguyễn Tuân
là một người sành "mê thảo", ở ngoài đời. Một cách nào đó, những tác
phẩm "ruột" của ông, đều được viết dưới ánh sáng của một ngọn đèn: Tàn Đèn Dầu Lạc, Chiếc Lư
Đồng Mắt Cua.
Nhân vật
Fowler cũng là một tay sành điệu trong nghề.
Greene cũng
đã từng bị FBI theo dõi, vì hay vui chơi nơi bàn đèn, xóm điếm....
Mai Thảo, Vũ
Khắc Khoan, một cách nào đó, là đệ tử của Nguyễn Tuân, và cũng không
phải là
không biết tới thú đi mây về gió.
Xuyên suốt
những tản mạn trên đây, là sợi khói thuốc, nối kết tất cả....
Trong quá khứ
một đời người, đã từng đam mê mớ chữ, và đã từng đọc đi đọc lại Chùa Đàn, Gấu cứ
tiếc hùi hụi, giá mà đừng có Mưỡu
Cuối. Cứ kể như là Trời Đất từ nay xa cách
mãi, Cô Tơ chỉ còn một việc cầu kinh giải oan, cho chỉ một tri âm tri
kỷ là Bá
Nhỡ; Lãnh Út đi làm cách mạng, làm tên khủng bố, và cứ thế biệt tích
giang hồ,
chẳng ai thèm nhớ tới nữa; còn cái anh chàng kể chuyện, nhân vật xưng
tôi, cứ
lo việc kể chuyện, và độc giả của anh cứ tiếp tục đọc, hoặc tiếp tục
bắt chước
anh ta, và viết, và - "Những người khác có thể làm thành một cuốn
sách" (Gide), chỉ cần một câu văn là mở ra cả một cuốn tiểu thuyết -
"bạn đọc thân mến của tôi ơi", bạn có thể trở thành một trong những độc
giả-tác giả, bởi vì câu văn mở đầu Chùa
Đàn quả là một câu văn tiên tri, mở ra
trước tiên là những trại tù ở miền bắc, và sau đó, nền văn học ở hải
ngoại:
"Bị
phát vãng lên đường ngược, ở một tỉnh phía tây Bắc Bộ vào những năm
khủng bố [cải
tạo]..."
Chỉ tới mãi
sau này,"cùng với cả nước", Gấu mới hiểu được sự thừa thãi "có
ích" của mưỡu cuối, của những "cần kíp lắm rồi, hãy vứt ngay cái mõ,
hãy không kịp để cho mớ tóc mọc lại...".
Nhà thơ
Auden đã có lần viết về chuyện thơ ca bị dùng làm trò phù thuỷ, "mắc mớ
gì
tới thi sĩ, ông ta/bà ta làm sao ngăn cấm được chuyện đó". Áp dụng nhận
xét trên vào trường hợp Nguyễn Tuân, vào Mưỡu Cuối mới thấy, lịch sử "cà
chớn", "đểu giả" thật: bởi vì, cứ giả sử như Cô Tơ phụ tình tri
kỷ Bá Nhỡ, nhập thế trở lại, cầm lại cây đàn ma quái (chủ nghĩa Cộng
Sản?), và,
hát bài Nối Vòng Tay Lớn, rồi
sau đó, xuống thuyền vượt biển, thì... tếu thật!
Còn nhớ, một
lần, bên ly cà phê sữa, cái bánh croissant, nhâm nhi một buổi sáng Sài
Gòn tại Quán Chùa, nhân
nói tới Nguyễn Tuân, và những tác giả như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo...
ông anh nhà thơ gật gù cảm khái, tôi nhớ đại khái, như vầy: mấy ông ấy
đã có thời
may mắn "gặp" Nguyễn Tuân. (1)
Nguyễn
Tuân nổi tiếng với tùy
bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó.
Những người
viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như
vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi
Tây, đi
Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra
cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái
khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh
bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay
hồn nhân
hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn
thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay
phút đầu
tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn
này:
Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông, những chữ như thế này,
phải tìm
đất khác để mà tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái
lĩnh, ông
đã nhập vào những chữ chưa khô mực.
Sẽ có
người bực mình, đã đọc Chữ Người Tử
Tù,
đâu có thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ,
đọc là mô
phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt... Nếu như bạn muốn trung thành với
văn
bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng Mắt
Cua, theo như kể lại, là cuốn họ
Nguyễn
đắc ý nhất, đắc địa chỉ có mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay
người
bên giáo?" Ôi chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao
nhiêu lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết (6) phải tàn bao nhiêu ngọn
đèn dầu
lạc, phải tu tận hoan (7) bao nhiêu lần, bỉnh chúc (8) bao nhiêu phen,
phải để
cho nhân vật của mình ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình,
rồi cứng
đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có thể phán một
câu nhẹ nhàng như vậy: "Xuyến người bên lương hay là bên giáo?"
"Nguyễn
Tuân hỏi tôi
:-Có nhớ Két không?
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn
54?
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ
nó. Không hiểu sao.
Thì ra cái đầu đường đêm hôm
chẳng thú vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi tưởng..." (2)
Nabokov coi tác
phẩm lớn như chuyện thần tiên, nhưng phán như thế, chưa đủ. Những câu
chuyện thần
tiên như thế, phải có 1 điểm để bấu víu với cuộc đời. Theo nghĩa đó,
Lukacs,
phê bình gia Mác Xít thứ thiệt, mới bổ túc thêm, bằng cái cú tự mình đá
mình ra
khỏi Thiên Thai, la conversion finale, bằng cái “ý thức nhà văn vượt ý
thức
nhận vật”, nhà văn tìm lại đời sống thực, và đó là lúc Lưu Nguyễn về
trần.
Cả cuốn Con Đường Vương Giả, của
Malraux, chỉ để diễn ra cái
giây phút "thực", "làm đếch gì có cái
chết,
mà chỉ có ta, ta, ta đang... chết" Cái câu “Anh yêu em yêu quê
hương vô
cùng", sến ơi
là sến làm cho cuộc sống ngất ngư, chân không chạm đất, của "Tâm Hà
Nội, Tâm Bếp
Lửa, Tâm 1954"... trở thành thực.
Cũng vẫn
theo nghĩa đó, Borges gọi là nhà văn là "kẻ mơ ngày", hắn ta sống hai
cuộc đời, hai
thực tại, hai cõi, cõi này, và, cõi khác.
Bài Tạp Ghi
"Chữ Người Tử Tù", Gấu viết về Nguyễn Tuân, khi gửi cho Văn Học, ông
chủ chi địa NMG, đọc, “bèn” gật gù, ông "sáng tác" bằng Tạp Ghi, tôi
đếch
viết được như ông!
Giác rất bảnh, ở chỗ đó. Trong đám bạn quí của Gấu, tên nào
thì cũng bực mình vì cái tính ngây ngô, ngốc ngếch, ai nói cái đéo gì
cũng tin,
nhưng lại rất lấy làm ghen tức, về “văn tài” của Gấu.
Còn nhớ 1 lần, trong khi
trò chuyện, Gấu lỡ miệng nói… xa xa, có
đứa nói, Gấu viết Tạp Ghi cho Văn Học, khác hẳn bạn quí viết Sổ Tay,
bạn
quí, mặt một đống, gắt, mày làm sao mà
viết
như tao được!
Chữ người tử
tù
Trong Nhà Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất
hiện, Vũ Ngọc Phan đã tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất
lớn tới lớp
sau. Có thể mượn ý của Sartre, về chủ nghĩa Marxisme, và nối điêu: Tùy
bút của
Nguyễn Tuân quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của
nó, di truyền mãi về sau này, và gần như trở thành những dấu ấn văn
chương của
cả một miền đất: độc, đểu, sỏ lá… nhưng không một ai có thể vượt lên
trên tất cả
những tính chất đặc sản đó, ngoài Nguyễn Tuân ra, bởi vì, như nhìn ra
phần số
khắc nghiệt đó, để bù lại, [để hoà giải với nó: cái ác?], trong truyện
ngắn,
Nguyễn Tuân thường viết về những người đã chết.
Khi
đó, chất
khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông đẩy tới tột cùng,
biến
thành… lòng nhân hậu.
Cảnh Huấn
Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với
viên cai ngục,
hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như
thế
này phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng
đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ
chưa khô
mực.
Khó
mà thấy
cõi lòng nhân hậu đó, của Nguyễn Tuân, ở trong những trang tùy bút
tuyệt vời
như Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn...
Kể cả sau này, trong những bài ký
thời chống
Mỹ cứu nước, như thể ông càng đi nhiều, càng gặp người (sống) nhiều,
tài hoa,
lòng nhân hậu của ông càng hao mòn dần...
Cá
nhân người
viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết
đọc, biết
viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia
đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc
vương
vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những
viên ngọc
trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc
như vậy để
đánh dấu những trang Sách Hồng, Ông
Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng.
Đánh dấu
những trang sách, của một chuyện tình: chúng làm cho những lần chia ly
bớt nặng
nề, thê thảm, có thể chịu đựng được...; của một cuộc chiến: như những
viên đất
ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...
From:
Sent:
July-07-10 8:56:55 PM
To:
"Nguyễn
Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì
chất
khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái
chất
khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng
uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh"
Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có
thể
"hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân
truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của
lòng
nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra
tiếng
Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương."
"Mot
chuyen di" cua GNV hay qua. Nguoi trong nuoc cung dang viet hang
loat ve
Nguyen Tuan, nhung khong hieu sao, doc ho cu co cam giac nhu dang nghe
mot nhom
nguoi noi chuyen voi nhau trong mot... dam gio^~. Toi khong noi dieu
nay vi
do-ky gi dau, that long thoi.
Nhung xin
dung co dua mail toi len TV day nhe, toi dang tro chuyen voi GNV thoi.
Kinh chuc
GNV an khang.
HA
Cái mail
này, Em của Gấu cấm post, nhưng Em bỏ Gấu rồi, bèn mạn phép ... vờ!
Take
care,
please.
GNV
It is an old
dream of poets that their work may become a concrete object like a
stone or a
tree, that what they make from the material of language- itself subject
to
constant change-may acquire a lasting existence. One of the ways to
achieve
this, it seems to me, is to cast it far away from oneself, to erase the
ties
that connect it to its creator. This is how I understand Flaubert's
recommendation: "The artist must be in his work as God is in nature."
Zbigniew
Herbert (1)
Giấc mơ cũ
mèm của thi sĩ, là tác phẩm của mình biến thành cụ thể như cái cây, cục
đá… Một
trong cách làm được điều này, là đuổi cổ chính thi sĩ ra khỏi bài thơ,
xóa sạch
mọi liên hệ giữa bài thơ và kẻ sáng tạo ra nó, thành ra tôi rất khoái
câu của
Flaubert: Nghệ sĩ phải với tác phẩm của mình như Chúa với thiên nhiên.
Sartre hình
như cũng đã từng phán, tác phẩm lớn giống như cái cây, cục đá. (1)
Nó đó, bố ai
biết tại sao.
2013/4/17
Thì bởi vậy,
đến "Thơ ở đâu xa", thơ Thanh Tâm Tuyền quả đúng là cái cây, cục đá.
Độc giả TV
Tks. NQT
(1)
Sau đây là nguyên
văn câu của Sartre, trong bài điểm cuốn "Sartoris", của Faulkner, bài
mở ra
“Situations
I”: Phê Bình Văn Chương.
«
SARTORIS »
PAR W.
FAULKNER
Avec quelque
recul, les bons romans deviennent tout à fait semblables à des
phénomenes naturels;
on oublie qu'ils ont un auteur, on les accepte comme des pierres ou des
arbres,
parce qu'ils sont là, parce qu'ils existent. Lumière d'aout était un de
ces
hermétiques, un minéral. On n'accepte pas Sartoris, et c'est ce qui
rend ce
livre si précieux : Faulkner s'y laisse voir, on surprend partout sa
main, ses
artifices. J'ai compris le grand ressort de son art: la déloyauté, il
est vrai
que tout art est déloyal. Un tableau ment sur la perspective. Pourtant
il y a
de vrais tableaux et il y a aussi des peintures en « trompe-l'ceil ».
Lùi lại 1
tí, và nhìn, thì những cuốn tiểu thuyết tốt hoàn toàn giống như những
hiện tượng
thiên nhiên; người ta quên chúng đã từng có 1 tác giả, người ta chấp
nhận chúng
như những viên đá, những cái cây, vì chúng có đó, vì chúng hiện hữu.
Tuyệt.
Một trong những
cuốn của thời mới lớn của Gấu. Mê nhất bài Sartre viết về cuốn “Âm
Thanh và Cuồng
Nộ”, Thời Tính Trong Faulkner, La
temporalité chez Faulkner.
Bài “Giải thích Kẻ Xa Lạ”
của Camus cũng quá tuyệt.
Qua bài thơ
tặng TTT, Tô Thùy Yên coi bạn mình như… Lão
Tử.
Với TTT là Thơ Ở Đâu Xa.
Nhưng với riêng
Gấu, cục đá, cục gạch, cái cây... của TTT, là.... "đảo xa", tức Một Chủ Nhật Khác.
Chính vì thế
mà Gấu hì hục type nó, post lên TV cho độc giả cùng đọc.
100
ans Camus
Books,
Avril
2011
Camus:
Một
chuyện tình
Sau bao nhiêu năm trời,
tôi muốn tìm hiểu tại làm sao mà tôi say mê hắn ta đến
như thế
Orwell Gốc Tẩy
Cách nhau 10 tuổi, những
cả hai cùng chết ở cái tuổi 46, họ có quá “một”, những
nét giống nhau. Thuộc địa,
trước tiên. Một ông sinh ở Ấn, rồi phục vụ Nữ Hoàng Anh trong ngành Cớm
tại Miến.
Một ông trải qua tuổi thơ và tuổi mới lớn ở Algérie. Trở thành ký giả,
trải qua
cực tả [chủ nghĩa xã hội cách mạng với Orwell, cộng sản với Camus], cả
hai cùng
ngộ ra, và cùng tố cáo cái gọi là sự "vô nhân kìm kẹp con người của tả
phái toàn trị", như Ian Brunskill viết
trên tờ Thời Báo Luân Đôn
trong 1 bài viết nhan đề là "Orwell Gốc Tẩy". Nếu kẻ này, kẻ
kia ,thì đều mềm lòng trước những tư tưởng trừu tượng, cả hai đều dám
thí mạng
cùi vì một nghĩa cả; một, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, một trong
Kháng Chiến.
Cả hai đều ho lao, và Orwell ngỏm vì nó.
Cuốn này, hồi
mới qua, thấy ở tiệm cho muớn, bèn giữ luôn.
Mới được tặng [bìa thôi].
Hai bức ký họa, trong Mặt
Trời Tìm Thấy.
Bức ND là ký
họa chị Mai Hoa, bà xã TTT.
Bìa
này, cũng nhờ trong nước gửi cho
Cuốn Thơ ở
đâu xa, khi Gấu mới ra hải ngoại,
NTV có cả mấy chục cuốn. Tạp Chí Thơ
đưa, nhờ bán. Bán được cuốn nào, anh bỏ túi cuốn đó. Gửi ghiếc lôi thôi
quá, chắc
thế. Gấu lấy 1 cuốn, trả tiền đàng hoàng. Nhưng Một Chủ Nhật Khác
lúc đó tuyệt bản. Thèm đọc lại quá, nói với
Nguyễn Đông Ngạc, anh nói, tao có. Khi anh nằm xuống, bà vợ đem cho
Gấu, cùng
cái kiếng mát của anh.
Số phận cuốn
trước đó, bìa như trên, cũng thật ly kỳ.
|
|