SN_GCC_2017


Richie with friends @ schơol

Image may contain: 3 people, people smiling

Aug 16 at 4:26 PM
:))
Nhớ tiếp tục đọc và viết ít nhất gần 10 năm nữa nghe . Sau đó không chừng lại có bài thơ : Chờ em lên 90!!! và Rule #1 trở thành vô nghĩa .
K

Cầu 5 năm nữa cũng quá OK
Rule n # 1 thì cũng giống như bông hồng của Coleridge.
Hoặc K của Buzzati

Tks
Take Care
Both of U

Note: Giả như lên...  11 thì thật tuyệt và bông hồng Coleridge biến thành hiện thực!

Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi

Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories

Orhan Pamuk

Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ Khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.


Đằng sau ý nghĩ của Coleridge là một ý nghĩ tổng quát và lâu đời, của hàng hàng thế hệ những kẻ yêu nhau, cầu xin một bông hồng làm chứng tích.


V/v có bao giờ? ông phải lặng người trong một buổi chiều thật đẹp đang tàn phai, khi tiệc tàn. và mọi người đã về. chỉ mình ông. còn ngồi lại. trong khu vườn sau nhà ông ở toronto. cái đìu hiu. cái đơn vắng.
DS

Sự thực, ai ai, bất cứ ai ai đều có lúc… như thế.
Nhưng đáp ứng ra sao, theo Gấu, mới quan trọng. Thơ Borges, đa phần là về khoảnh khắc này.
Khi đọc bài thơ sau đây của ông, thì Gấu sống lại khoảnh khắc mình tính làm thịt mình ở khu PLT, Little Saigon

Borges viết về cái khoảnh khắc xém lên chuyến tàu suốt của GCC ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ:

The Suicide

Not a single star will be left in the night.
The night will not be left.
I will die and, with me,
the weight of the intolerable universe.
I shall erase the pyramids, the medallions,
the continents and faces.
I shall erase the accumulated past.
I shall make dust of history, dust of dust.
Now I am looking on the final sunset.
I am hearing the last bird.
I bequeath nothingness to no one.

-A.R.

Đi Xa

Đêm nay Gấu sẽ không cho phép ngôi sao nào được bỏ lại ở trên bầu trời
Đêm cũng đếch được bỏ lại
Gấu sẽ đi xa, và, cùng với Gấu
Là cái sức nặng đếch làm sao chịu đựng nổi của vũ trụ
Gấu sẽ xoá sạch những kim tự tháp
Những cái mề đay, nhất là cái của cái tên Nobel Toán người xứ Bắc Kít
Những đại lục, và những khuôn mặt.
Gấu sẽ xóa sạch quá khứ được tích tụ từ bốn ngàn năm của xứ Mít –
như vậy đủ rồi, với Gấu Cà Chớn –
Gấu sẽ làm cho lịch sử Mít biến thành bụi, bụi của bụi.
Và bi giờ, Gấu đối diện với buổi mặt trời lặn lần cuối cùng
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ, ở thủ đô lưu vong của giống Mít.
Gấu nghe tiếng chim cuối cùng
Gấu đếch thèm để lại chúc thư văn chương cho bất cứ thằng chó nào!

Hà, hà!

Nhưng phải là những tay cực kỳ khủng, khi đụng vô khoảnh khắc này, thì họ phát giác ra 1 điều gì cực khủng, về cõi người, về sự hiện hữu của cái gọi là giống người.

*

Mặt Trời Lặn ở Fossoli

Tôi biết, nghĩa là gì, không trở về.
Qua những hàng rào kẽm gai
tôi nhìn thấy mặt trời xuống và chết
Và da thịt tôi như bị xé ra
Bởi những dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt trời thì có thể lặn và mọc
Nhưng chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ, sau 1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một đêm dài ơi là dài”

Tháng Hai, 7, 1946
Primo Levi

Cái khoảnh khắc trên, có khi, nhờ may mắn, bạn được đọc, và ngộ ra được, "đọc là sống 'thực', đời của mình", có thể nói như thế.
David Grossman, tay mới được Booker, viết về 1 Kafka, mà chỉ ông nhận ra:

Phỏng vấn viên: Ai, ngoài Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?

Grossman: Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vượt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Bạn phải là 1 tay như thế, khi ngồi ở vườn sau nhà bạn, khi tất cả bỏ bạn, kể luôn cả Thần Chết cũng đếch thèm để ý đến bạn!
Gấu gặp khoảnh khắc này, trong đêm, tưởng là chết, nhưng đếch chết, lần ăn mìn VC: Sự sống sót của bạn là 1 lăng nhục tình yêu, "cái con mẹ", gì đó!

Tứ tấu khúc

http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/4khuc_khurungtrongdem.html 

Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó. 

Bao nhiêu năm rồi - bao nhiêu nước chảy qua cầu rồi, BHD thì cũng đi qua mấy kiếp rồi, who knows -  mà vẫn còn nhớ, 1 vị bạn quí, khi ngồi Quán Chùa, đọc đoạn trên, nhìn Gấu Cà Chớn, như nhìn 1 con quái vật!
Đúng là như thế!

Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vượt qua [Kafka is a literary stage you have to go through].

Đọc, là sống thực, cuộc đời của mình, là theo nghĩa trên. 

Nhớ thời mới lớn, lứa tuổi của Gấu, thằng chó nào thì cũng hăm he "vượt Mác". Sartre phán, chủ nghĩa Mác không thể vượt qua được, là đúng vào thời gian đó. Gấu đọc Lukacs, Henri Lefebvre, Trần Văn Toàn, Trần Đức Thảo… đúng vào lúc này. Nằm Grall, sau khi ăn hai trái mìn của VC, cũng đem theo Heni Lefebvre!

Borges viết về Kafka những dòng thật là thấm thiá, và Gấu nghĩ, ngoài Borges ra, không ai hiểu Kafka tới mức như vậy. Trong Trò Chuyện với Osvaldo Ferrari, hai ông dành hẳn 1 chương cho Kafka: Kafka có thể có phần hồi ức con người (Kafka Could Be Part of Human Memory). Trên Tin Văn đã từng giới thiệu lai rai.
Bữa nay, tám bó rồi, nhân SN GCC, bèn tưởng niệm ông anh nhà thơ TTT, và bèn lai rai về cái phần của TTT ở trong cái hồi ức của Mít không thôi, chưa nói đến nhân loại làm khỉ gì vội.
Ý của Gấu là, liệu không có TTT, liệu có cái hồi ức Mít, theo nghĩa mà Borges nói, về Kafka?
Hay, như Grossman, phán:
Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vượt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]

*

Note: Mới tậu. Đi liền cú, Borges lèm bèm về Kafka, nhân TV đang dịch Trước Pháp Luật:

Kafka Could Be Part of Human Memory
Kafka có thể [có, là] phần hồi ức con người

Mới ra lò, 2014.

Tên nhà xb mới thú: Seagull Books
www.seagullbooks.org

"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với hồi ức Mít: Chúng ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa", thí dụ vậy,

Ferrari hỏi Borges, nghe người ta nói là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử của thời chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì đúng như thế, nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng ta!
Ui chao em của GCC, HA, trách Gấu, mi viết hoài về TTT, ở trên net, rồi mi chết, thì mất liêu luôn, sao không chịu in ra giấy, vì TTT còn quan trọng hơn cả hồi ức Mít!

Hà, hà!

FERRARI. But we are told that we cannot make a faithful interpretation of our times without Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka is more important than our times....




Aug 16 at 4:26 PM
:))
Nhớ tiếp tục đọc và viết ít nhất gần 10 năm nữa nghe . Sau đó không chừng lại có bài thơ : Chờ em lên 90!!! và Rule #1 trở thành vô nghĩa .
K

Cầu 5 năm nữa cũng quá OK
Rule n # 1 thì cũng giống như bông hồng của Coleridge.
Hoặc K của Buzzati

Tks
Take Care
Both of U


Happy Birthday, Quoc!
From all of us at Facebook, we hope you have a wonderful year.
Tuyet Nguyen, Manh Tuong Nguyen and 2 other friends wished you a happy birthday.

Tks All There @ Facebook
 Quoc Tru Nguyen

THAY LỜI CHÚC THỌ TRONG NGÀY 16/8
 
Anh nhớ chờ em anh nhé
Khi em lên tuổi 80
Em sẽ đọc thêm chừng sáu phần mười
Những cuốn sách nằm trong đầu anh đó
Em sẽ dịch thêm những bài thơ nho nhỏ
Có khói bay lên từ Auschwitz, Buchenwald
 
Hãy chờ khi em lên 80
Em sẽ không còn lo tóc mình bạc trắng
Chẳng thèm xem trời đang mưa hay nắng
Chẳng soi gương và buồn ngắm da nhăn
Em sẽ chẳng còn mơ làm Triệu Minh
Chờ Vô Kỵ đến vẽ chân mày cong cong bán nguyệt
 
Lên 80, em sẽ chẳng còn đi đâu được
Em sẽ chỉ nằm đọc chuyện ngày xưa
Sẽ tự hỏi lúc anh bằng tuổi mình chừ
Có cái gì làm anh miệt mài ngồi viết
 
Có điều gì khiến cho anh thao thức
Một đôi khi vùng dậy giữa khuya
Nắm bắt một bài thơ đang khúc khích cợt đùa
Chạy trốn giữa hai hàng chữ nhỏ
 
Lên 80, trí nhớ em chắc là đang khốn khổ
Nhớ một cái tên đang nhạt phai dần
Nhưng anh hãy chờ, hãy đứng trước sân
Nơi lá thu vàng đang rưng rưng với gió 
 
Có hay không một quán cà phê có mặt bàn sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh quen ?
Trời chưa qua mùa đông nên đường chưa trắng tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một ngụm cà phê
Và đọc vài trang trong chồng sách mới
 
80 tuổi, đã chắc gì em tới
Nhưng anh cứ chờ, em cứ đợi
Cũng vui thôi.
Chờ em, thay lời chúc thọ tuổi 80 …
 
K

16/8/2017

Tuyet Nguyen to Quoc Tru Nguyen
3 hrs

MỪNG SINH NHẬT QUOC TRU NGUYEN. CHÚC BÁC KHỎI PHẢI ĐỤNG ĐẾN CÂY GẬY CHO ĐẾN TRĂM TUỔI, THỎA THÍCH VIẾT VÀ ĐỌC...


Thay thư mời của Vagabond Press và các nhà thơ, xin thông báo:

Buổi Ra Mắt Sách Thơ Nguyễn Thúy Hằng, Đỗ Lê Anhdao, Lê Đình Nhất- lang,
Thứ năm 17/8/2017 6:00pm
The Gasoline Pony, Marrickville, Sydney
115 Marrickville Road
(gần trạm xe lửa Sydenham)

Trong buổi ra mắt sách, chung với các tác phẩm thơ của các nhà thơ khu vực Asia Pacific khác, nhà thơ Phan Quỳnh Trâm sẽ đọc thơ Nguyễn Thúy Hằng, Đỗ Lê Anhdao, Lê Đình Nhất- lang - cả ba rất tiếc không thể tham dự vì khoảng cách địa lý (cả ba nhà thơ đều sống ngoài Australia).

Sách Thơ Nguyễn Thúy Hằng, Đỗ Lê Anhdao, Lê Đình Nhất- lang có thể mua ở Buổi Ra Mắt hay Vagabond Press online*

Địa điểm The Gasoline Pony là nơi được giới văn nghệ Sydney yêu thích, hay tổ chức đọc thơ, ra mắt sách.

Chúc buổi ra mắt sách là một tụ họp đông vui cho người yêu thơ.


Manh Tuong Nguyen to Quoc Tru Nguyen
11 hrs

Chúc Mừng S.N anh Bình An Hạnh Phúc...cùng Gđình Thân hữu !!

Xứ nước, XXI

Lướt nhanh, không, anh có thể đi chầm chậm
nếu lướt nhanh,mỗi thế kỷ là một hơi thở hắt.
Nếu thế, nhìn trước nhìn sau, anh sẽ không nhận ra
không nghe ra, bất cứ điều gì.
Mùi rong, mùi rơm rạ.
Những gương mặt quen bằng đất nung.
Chiếc rìu đá đặt cạnh bên, cánh rừng đầy vết thú.
Chầm chậm, mỗi phút một thập niên,
vết thương chưa kịp kéo da non,
những khúc sông kiệt nước. Đồi hoang,
tiên ông đứng khóc, bài thơ thồ đá lăn chậm.
Lướt nhanh, anh sẽ không kịp thấy, không kịp nghe
bản thảo tương lai sau lưng,
những âm tiết vẳng lên trước mặt.

Xứ nước, XXII

Bao giờ chúng ta sẽ đọc thấy, cuộc đời kế tiếp
Và bao giờ, ta được nếm lại, giọt mưa hôm nay?
Không, dòng đời không quá dài như những chương truyện.
Không xa quá một bờ sông, để chúng ta đóng khung
và treo ở đó, trên vách, với những chi tiết rành mạch
những điểm nhấn, sâu đậm, đã bao lần lặp đi lặp lại.
Điều gì run rủi tôi đến đây, như chiếc bóng
đang cố gắng tô đậm mình.
Trong ngôi nhà bên bến sông này,
từ đời này qua đời khác, không thể thiếu
tiếng lách cách chén đĩa, tiếng người- tiếng hát hay lời than van-cho ta biết, ngoài thức ăn, ngôn ngữ cũng cần cho ta có mặt, và để, giữ ấm tro than.
Rồi một ngày cái nhìn của chúng ta về hôm nay xa dần,
và chẳng có gì còn lại đó,
chỉ còn khung cửa sổ ngó ra dòng sông, vài dáng thuyền nhạt nhoà, những âm vọng ngôn ngữ, thứ từ đời này qua đời khác, vọng qua vọng lại giữa bên ni bên nớ, bờ này bờ nọ, giữa những con người,
để chống lại lãng quên.
.
Xứ nước, XXII

Những từ ngữ đầu tiên sinh ra từ nước, từ những
đợt sóng chao làm thay đổi bầu trời, em bé
có phải em đang mơ giấc mơ từ ngữ,
những từ ngữ gọi lên đường nét, gọi lên sắc màu
gọi lên những con người, những vật lạ
em chưa biết tên. Và từ ngữ có phải là
tấm lưới được đan bện tinh xảo,
để em vớt lên những giấc mơ chìm sâu đáy nước,
và cho em thấy được dáng đẹp của mình,
ở một khung trời khác?
Hay từ ngữ, với những biến dạng của nó
sẽ in lên tâm hồn em những vệt đen thẫm, qua
tư duy của những con người
mỡ màng về vóc dáng, nhưng chết dần về mộng mơ ?

DV

Note: bác G nhận xét chí lý, có lẽ do dàn trang trong messenger khá chuệch choạc, nên bài thơ không có được nhịp điệu trong mạch thơ khi viết ra, nên đọc thấy vương vướng...Nếu không có được nhịp điệu, bài thơ đành phải chờ sửa lại, hoặc bỏ hẳn cả bài. Tks bác, chúc bác sinh nhật nhiều điều vui, tiện đây gửi bác thêm 2 bài trong cùng tổ khúc Xứ nước (tên trước là Vạn đò). Kính!

Tks
NQT

Trang thơ Dã Viên

tám. 8. mươi. 0
tám mươi. con chữ lăn. tròn
tám mươi. bỗng lại. bòn hòn trai. tơ
tám mươi. chữ nghĩa lẳng. lơ
tám mươi. vào mạng mở. mơ. “nữ kiều”
tám mươi. ngồ ngộ. bắc kỳ
tám mươi. cái độc. bắt quàng cái. tâm
tám mươi. đi kiếm cái. âm
80. đi ngược. thất thần. 40
80. còn ẩn số. 0
80. xếp lại. ba 0 chẵn. tròn
80. thối thể một. vòng
80. ông chủ. núi vùng. tản cư
80. một phát cù. cưa
ngây ngây. ngất ngất. ngà ngà. sướng ên

những dòng. những câu. đươc viết tròm trèm một năm. cho một người. người một mình giữ một trang web. một mình một dàn trải. một mình đọc. và một mình viết. tâm thế đơn lẻ. thật lôi cuốn. thật quyến rũ. những đoản văn kéo lại một vàng son chữ nghĩa. nghe vẳng lại dư âm mê dại một thời. đọc để chợt thấy những yêu thương vẫn còn đó. và để thấy cuộc sống còn đáng yêu đến vậy.
nqt. ông viết gì? nqt. ông đọc gì? nqt. ông muốn nói gì?
ông. người cột những bẽ bàng của một ngày nọ vào cái trong lành tự do của ngày hôm nay. qua cái nhìn lại. cái đọc lại. những cái thật classic. những thứ được gọi là kinh điển. có cần phải chứng minh khi một với một luôn là hai.
có bao giờ? ông phải lặng người trong một buổi chiều thật đẹp đang tàn phai, khi tiệc tàn. và mọi người đã về. chỉ mình ông. còn ngồi lại. trong khu vườn sau nhà ông ở toronto. cái đìu hiu. cái đơn vắng.
no childhood. không tuổi thơ. hay muốn từ chối quá khứ. hay muốn nhìn nó bằng đôi mắt của một kẻ khác
ông. một kẻ vấn nạn trong trang viết của mình. loài phượng hoàng. phải lao vào lửa để được tái sinh.
vậy mà cũng đến tám mươi năm ông nhỉ
một 80. một thượng thọ. một 16-8 tròn và ngộ
mừng thượng thọ ông

mừng thượng thọ chú. một thượng thọ thật vui cùng gia đình.
kính.

DS
Tks. Many Tks
NQT

V/v có bao giờ? ông phải lặng người trong một buổi chiều thật đẹp đang tàn phai, khi tiệc tàn. và mọi người đã về. chỉ mình ông. còn ngồi lại. trong khu vườn sau nhà ông ở toronto. cái đìu hiu. cái đơn vắng.

Có "mấy" câu trả lời, của 1 số tác giả, mới đọc được, và cũng đã post trên Tin Văn.

Trong bài của Banville, khi đọc Những năm đầu đời của Kafka:

In his diary in 1920 he wrote of a moment when he had a clear glimpse of what would be for him the true creative flame. He was sitting one day, "many years ago,… on the slope of the Laurenziberg," the hill in the center of Prague that figures in "Description of a Struggle," brooding on "the wishes I had for my life":

The most important or the most appealing wish was to attain a view of life (and-this was inescapably bound up with it-to convince others of it in writing) in which life retained its natural full complement of rising and falling, but at the same time would be recognized no less clearly as a nothing, as a dream, as a hovering.

This artistic epiphany-remarkably reminiscent of that interrupted moment in Beckett's Krapp's Last Tape when Krapp recognizes that his aim must be to allow into his work the darkness he had always struggled to keep out-is summed up beautifully by Stach when he writes: "The presence of being and nothingness in one and the same moment, in the same object or the same sentence, struck Kafka as a sign of perfection that made life worth living." And art worth making

Sự hiện diện của hữu thể và hư vô, trong một và cùng khoảnh khắc, trong cùng 1 sự vật, hay cùng 1 câu câu văn, thọi Kafka, như là 1 ký hiệu của sự hoàn hảo, nó làm cho cuộc đời đáng sống, và nghệ thuật đáng làm ra.


Câu thơ của ED cũng nói lên "cú" hiện hữu vs hư vô, và hợp hơn, với riêng GCC:

After great pain, a formal feeling comes-
The Nerves sit ceremonious, like Tombs-
Emily Dickinson

(Tạm dịch:
Sau cú đau lớn, một cảm giác chiếu lệ bèn tới
Những sợi não ngồi trang nghiêm, như những nấm mồ)

L
ần tính đi luôn, khi Seagull bỏ đi, cũng ở trong trạng thái đó.
Nhiều lắm, và tóm gọn là:

I Miss U So Much!
U ở đây, không chỉ là Seagull!
Hoặc chỉ là Seagull
Tks All There.
NQT




Hi Quoc,
We’d like to wish you a very happy birthday full of great friends and everything you like.
— The Facebook Team —

*

Louise Glück
b. 1943

Louise Glück is considered by many to be one of America’s most talented contemporary poets. The poet Robert Hass has called her “one of the purest and most accomplished lyric poets now writing,” and her poetry is noted for its technical precision, sensitivity, and insight into loneliness, family relationships, divorce, and death. Frequently described as “spare,” James K. Robinson in Contemporary Women Poets also noted that “Glück’s poetry is intimate, familial, and what Edwin Muir has called the fable, the archetypal.” Rosanna Warren has described Glück’s “classicizing gestures”—her frequent reworking of Greek and Roman myths such as Persephone and Demeter, for example—as necessary to her lyric project. According to Warren, Glück’s “power [is] to distance the lyric ‘I’ as subject and object of attention” and to “impose a discipline of detachment upon urgently subjective material.” Glück’s early books feature personae grappling with the aftermaths of failed love affairs, disastrous family encounters, and existential despair, and her later work continues to explore the agony of the self. In the New York Times, critic William Logan described her work as “the logical outcome of a certain strain of confessional verse—starved of adjectives, thinned to a nervous set of verbs, intense almost past bearing, her poems have been dark, damaged and difficult to avert your gaze from.”  (b)


AUGUST 15

Louise Gluck

For the lucky, born into a geography not visited by war or political terror, the events in life that leave the soul scoured and disoriented are death and divorce. Divorce is a kind of death. Even for people glad to get out of relationships, the props of a life have to be remade, families, habits, houses, even towns. And it can leave a life stripped bare.
    Not surprising that it is a subject for poetry, but it is surprising how little serious and sustained examination of the subject there has been in our poetry, given how common and how devastating the experience can be.
    For the last ten years Gluck, one of the purest and most accomplished lyric poets now writing, has turned from the form of her early books, traditional collection of poems written over a period of time, to a series of book-length sequences. They are written in her characteristically spare and elegant style. They are books of individual poems, but they make a narrative sequence, and so they are able to explore a subject in many moods and from many points of view in a way that is reminiscent of the old sonnet sequences that explored all the phases of a love affair. The first one, Ararat, dealt with a family of three women in the aftermath of the death of a husband and father. The second one, the Pulitzer Prize-winning The Wild Iris, was a meditation on the turning of the year in a northern New England garden. The third, Meadowlands, based on the story of Ulysses and Penelope and Telemachus, was about a marriage coming apart. The newest one, published this year, is Vita Nova (Ecco Press). Its subject is that life after divorce. It begins from something like the place Emily Dickinson described so accurately:

After great pain, a formal feeling comes-
The Nerves sit ceremonious, like Tombs-

Here are a couple of the poems:

The Garment

My soul dried up.
Like a soul cast into a fire, but not completely,
not to annihilation. Parched,
it continued. Brittle,
not from solitude but from mistrust,
the aftermath of violence. 

Spirit, invited to leave the body,
to stand exposed a moment,
trembling, as before
your presentation to the divine-
spirit lured out of solitude
by the promise of grace,
how will you ever again believe
the love of another being?
My soul withered and shrank.
The body became for it too large a garment.
And when hope was returned to me
it was another hope entirely.

Earthly Love

Conventions of the time
held them together.
It was a period
(very long) in which
the heart once given freely
was required, a formal gesture,
to forfeit liberty: a consecration
at once moving and hopelessly doomed.

As to ourselves:
fortunately we diverged
from these requirements,
as I reminded myself
when my life shattered.
So that what we had for so long
was, more or less,
voluntary, alive.
And only long afterward
did I begin to think otherwise.

We are all human-
we protect ourselves
as well as we can
even to the point of denying
clarity, the point
of self-deception. As in
the consecration to which I alluded.

And yet, within this deception
True happiness occurred.
So that I believe I would
repeat these errors exactly.
N or does it seem to me
crucial to know
whether or not such happiness
is built on illusion:
it has its own reality.
And in either case, it will end. 

Robert Hass: 1999/ Now & Then

After great pain, a formal feeling comes-
The Nerves sit ceremonious, like Tombs-
Emily Dickinson
(Tạm dịch:
Sau cú đau lớn, một cảm giác chiếu lệ bèn tới
Những sợi não ngồi trang nghiêm, như những nấm mồ)

Note: Bài viết của Robert Hass, cho ngày 15 Tháng Tám 1999, trong cuốn Now & Then.
Ngày 16.8. (1997), SN/GCC, thì có bài tưởng niệm Zbigniew Herbert, post đâu đó trên Tin Văn.

Nhân ngày 16 tháng 8

*

PB Sept 2016
Nhân ngày 16 tháng 8

*

@ Bus Stop Vancouver


*

*

*  

(April, 1920)

So, I’m expecting one of two things. Either continued silence, which means: Don’t worry, I’m fine. Or else a few lines.
                                                                                                                                                         Cordially Kafka

It occurs to me that I really can’t remember your face in any precise detail. Only the way you walked away through the tables in the café, your figure, your dress, that I still see.

(Meran, June, 1920)
….

More tomorrow. But if it should be the day after, don't "hate" again, please, not that.

I reread the Sunday letter, it's even more frightening than I thought at first. One ought, Milena, to take your face in both hands and look you square in the eye, so that you would see yourself in the eyes of the other person, then you could not even think the kinds of things you wrote there.

Kafka: Letters to Milena

Vậy là anh mong ước 1 trong hai điều. Hoặc là Em cứ tiếp tục im lặng, và nó có nghĩa, mi đừng lo cho ta, ta vưỡn OK.
Hoặc là mail vài dòng!
Chuyện xẩy ra với anh là, không làm sao nhớ nổi khuôn mặt Em, mà chỉ là dáng đi hối hả, giữa những dẫy bàn tại tiệm cà phê, bữa đó!
Anh đọc lại lá thứ bữa Chúa Nhựt và sợ quá là sợ. Phải là anh, ôm mặt em vào lòng hai bàn tay của mình, nhìn vào mắt của em, và như thế, em sẽ nhìn thấy khuôn mặt của anh trong mắt anh, và biết, anh thương em biết là chừng nào, và em sẽ không còn nghĩ quẩn là bỏ anh dưới cơn mưa Xề Gòn...

[Dịch nhảm]

Hoặc là mail vài dòng!
Chuyện xẩy ra với anh là, không làm sao nhớ nổi khuôn mặt Em, mà chỉ là dáng đi hối hả, giữa những dẫy bàn tại tiệm cà phê, bữa đó!

Kafka

Đúng là tình cảnh GCC bữa ngồi với Seagull, tại cà phê Starbucks, Tiểu Sài Gòn!



Jul 31 at 1:52 AM

“August Beauty" Gardenia

Dear GNV,

Wishing you a Happy Birthday and many many more...
Enjoy "August Beauty" Gardenia photos, enjoy writing and reading...
Seagull

Tks
Take Care
NQT


Image may contain: plant, flower and nature

Alexander Blok
Russian
1880-1921
Beyond the mountains beyond the forests
beyond the dust of the roads
beyond the grave mounds
under other skies you flower

Whiteness will spread on the mountain
but spring will come back to the valley
and I will recall with an older sadness
my past as though it were yesterday

In the grief of my dreams I will know you
and I will seize in my palms
your gentle hand that has borne miracles
and repeat the distance in your name
September 30, 1915

1968, translated with
Olga Carlisle

Quá núi, quá rừng
Quá bụi đường
Quá gò mả
Dưới những bầu trời khác
Seagull & August Beauty

Tuyết sẽ trải dài trên núi
Nhưng Mùa Xuân sẽ trở lại nơi thung lũng
Và Gấu sẽ nhớ cái buổi sáng ngồi ở Starbucks nơi Tiểu Xề Gòn
Như vừa mới hôm qua.

Trong nỗi đau
Biết đâu Gấu nhớ ra khuôn mặt của Seagull
Cái dáng đi tất tả khi đi order cà phê thì làm sao quên được!

Và Gấu sẽ cầm trong lòng bàn tay của mình
Bàn tay dịu dàng của Seagull
Và Phép Lạ hiển hiện
Và lập lại khoảnh cách trong tên Seagull!

W.S. Merwin: Selected Translations

Image may contain: 2 people, people smiling, sky, outdoor, water and nature

The Gardener

Gửi hải âu

Mùa đông, bờ biển vắng, hàng phi lao
vẫn vi vút, điệu nhạc dửng dưng
những dấu chân chim, dấu chân người...

Tks
Seagull & GNV


To K & O & My home

MY-NESS

"My parents, my husband, my brother, my sister."
I am listening in a cafeteria at breakfast.
The women's voices rustle, fulfill themselves
In a ritual no doubt necessary.
I glance sidelong at their moving lips
And I delight in being here on earth
For one more moment, with them, here on earth,
To celebrate our tiny, tiny my-ness.

Của… tớ

Cha mẹ tớ, chồng tớ, anh /em tớ, chị/em tớ
Tớ ngồi quán cà phê, ăn sáng
Nghe những giọng đàn bà
Róc rách như con suối
Đong đầy chính họ
Trong một nghi lễ rõ ràng là cần thiết
Tớ đong đưa lưỡi của tớ
Nếm từng giọt nói của họ
Cảm thấy sướng điên
Rằng tớ có mặt,
Rằng tớ hiện hữu
Rằng tớ tồn tại
Rằng tớ hiện sinh
Ở trên trái đất này
Thêm tí, tí nữa
Với họ,
Ở đây, trên trái đất này
Để ngợi ca cái “my-ness”, nhỏ bé,
Xinh xinh của chúng ta.

To find my home in one sentence, concise, as if hammered in metal.
Not to enchant anybody. Not to earn a lasting name in posterity. An
unnamed need for order, for rhythm, for form, which three words are
opposed to chaos and nothingness.

Để tìm nhà của mình trong một câu, ngắn gọn, súc tích , như thể được khảm bằng búa vào kim loại.
Không phải để làm vui một ai.
Cũng không phải để lưu danh hậu thế.
Một cái cần thiết không tên cho trật tự, cho nhịp điệu, cho hình vóc, ba từ chống lại chao đảo và hư vô

Berkeley-Paris-Cambridge, Massachusetts, 1981-1983

Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004

.... vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."
BHD phán, lần SN thứ nhất, sau khi thoát chết 2 trái mìn claymore, của VC, ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, ở bờ sông Saigon, 26.6.1965.

Image may contain: 3 people




Image may contain: 3 people

The Forging   

Like the blind man whose hands are precursors
that push aside walls and glimpse heavens
slowly, flustered, I feel
in the crack of night
the verses that are to come.
I must burn the abominable darkness
in their limpid bonfire:
the purple of words
on the flagellated shoulder of time.
I must enclose the tears of evening
in the hard diamond of the poem.
No matter if the soul
walks naked and lonely as the wind
if the universe of a glorious kiss
still embraces my life.
The night is good fertile ground
for a sower of verses.

J.L. Borges: Poems of the Night

Rèn

Như anh mù
Tay của chàng là tiền thân,
Dẹp tường tiệc qua một bên
Thoáng nghía thấy những thiên đường
Chầm chậm, xốn xang,
Tớ cảm thấy
Đêm kêu ‘krắc” phát
Và những dòng thơ bèn bò ra
Tớ phải đốt cái bóng tối khủng khiếp
Trong trận lửa trong sáng:
Màu tím của những từ
Trên đôi vai ăn đòn của thời gian.

[Cái gì gì,
trên đôi vai ta hai vầng nhật nguyệt!]

Tớ phải rào những giọt nước mắt của buổi chiều
Vào viên kim cương cứng rắn của bài thơ.
Đếch cần biết, như thế nào
Linh hồn,
Trần trụi hay cô đơn
Như ngọn gió
Lang thang

[Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì]

Và,
Nếu vũ trụ của nụ hôn thần sầu của em của tớ
Vẫn ôm lấy đời tớ
Thì,

Đêm, ôi đêm
Mảnh đất mầu mỡ
Để gieo những vần thơ.


Note: Trên net, có 1 tay lèm bèm về bài thơ này, OK lắm:
http://quarterlyconversation.com/poems-of-the-night-by-jorge-luis-borges

In his introduction Kristal notes that Borges claimed many poems came to him in dreams. He called them “gifts of the night, or more precisely, of the dawn.” Poems of the Night includes sixty-five poems in Spanish, and English versions by fourteen translators. All the vital Borgesian themes are represented—death, mirrors, darkness and blindness, multiple selves, labyrinths, knives, books, reality as fiction, fiction as reality, the vertigo of infinity.



Dear GNV,

Wishing you a Happy Birthday and many many more...
Enjoy "August Beauty" Gardenia photos, enjoy writing and reading...
Seagull

Tks
Take Care
NQT

*

Image may contain: 1 person, standing, plant, tree, outdoor and nature

31.7.2017


Dear GNV,

Wishing you a Happy Birthday and many many more...
Enjoy "August Beauty" Gardenia photos, enjoy writing and reading...
Seagull

Tks
Take Care
NQT

*

*

http://www.tanvien.net/tribute/Beckett.html

One recalls the story about his comment, made many years later, to a friend who was with him watching cricket on a sunny day and who had just said, perhaps forgetting to whom he was talking, that it was the kind of day that made you glad to be alive; "I wouldn't go as far as that" was the (apocryphal) reply. Beckett kể về lần ngồi với bạn coi chơi cricket, vào một ngày nắng đẹp, và ông bạn gật gù, đời ơi là đời, đẹp ơi là đẹp, sống ơi là sống.

Và B. bèn phán:

Tớ chng hề muốn quá cỡ thợ mộc tới mức đó!

Mi được tất cả rồi còn muốn gì nữa?

Gấu muốn cái hư vô thèm muốn (néant espéré, le désir d'être rien) của Beckett

Đúng là tình cảnh bữa tính tự mình làm thịt mình ở PLT
Hà, hà!
Take Care, I miss U so much!
GNV

je suis ce cours de sable qui glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement

cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
ou je n'aurai plus a fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme

my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end

my peace is there in the receding mist
when I may cease from treading these long shifting
    thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts

L'amour c'est l'homme inachevé
Love is man unfinished.

Vivre est une maladie dont le sommeil nous soulage toutes les
seize heures. C'est un palliatif; la mort est le remède.

sleep till death
healeth
come ease
this life disease

Thơ tiếng Tây của Beckett.
Bản tiếng Anh cũng của ông

http://www.tanvien.net/tribute/Beckett.html

How easily our only smile smiles.
We will never agree or disagree.
The pretty girl is perfected in her passing.
Our love lives within the space of a quietly closing door

Nụ cười độc nhất của chúng ta, sao dễ dàng quá vậy
(Thôi đừng tè he ra mà  làm gì).
Người đẹp đẹp thật khi thoáng qua.
Tình mình đọng lại giữa lần cửa khép.

Note: Bài này, đã đăng trên tạp chí Văn, và trên VHNT của PCL. Một độc giả VHNT mail, chỉnh, ‘agree’, đồng ý, và ‘disagree’, không đồng ý, làm sao lại dịch là ‘tè he’?
Sự thực, Gấu dịch ‘tếu’, vì nghĩ đến cái cảnh ‘tình mình đọng lại giữa hai lần cửa khép’.
Có thể, bài thơ còn nói ‘chuyện đó’ chăng?  NQT

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/34.html

*

Trên tờ Điểm Sách London, số 6 Tháng Tám, 2009, dưới cái tít Who to Be, Colm Tolbin đọc “Thư Beckett, 1929-40”, có nhắc tới bài thơ trên, thoạt đầu Beckett làm bằng tiếng Tây, và “tình tôi” ở đây là tình bạn giữa Beckett và Thomas McGreevy, một người bạn thân nhất của ông, một nhà phê bình nghệ thuật và một thi sĩ, hơn ông 13 tuổi. Bài thơ Lưu vong của McGreevy có câu:

I knew if you had died that I should grieve
Yet I found my heart wishing you were dead.
Tôi biết nếu bạn chết tôi sẽ đau khổ
Vậy mà thâm tâm tôi lại mong điều đó.

Bài thơ không đề của Beckett, là từ hai câu thơ trên, của bạn ông.
Bài thơ trên, lần đầu Gấu đọc, là ở trong Thơ ở đâu xa của TTT.

Nhưng, thú vị nhất, hay đúng hơn, thê lương nhất, lại là cái tít của bài viết của Tolbin. Về những năm tháng thê thảm của Beckett, thời kỳ 1930-1936, Tolbin viết: Vấn đề của ông trong những năm này xem ra thật dễ, nhưng lại khó giải quyết: it was how to live, what to do, and who to be, sống thế nào, làm cái gì, là thằng gì. Ông [Beckett] thì khôn khéo [clever], có học [well-educated], ông nói rành tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Đức của ông thì thật tốt. Nhưng cuốn sách đầu, truyện ngắn, của ông không bán được, và ông không làm sao kiếm được nhà xb cho tiểu thuyết của ông. Ông không biết làm cách nào kiếm sống.
Rất nhiều giai thoại thật tuyệt vời về chuyện Beckett mê tranh của Jack Yeats. Tình bạn giữa ông và McGreevy là cũng từ chuyện mê tranh Yeats.


je suis ce cours de sable qui glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement

cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme

my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end

my peace is there in the receding mist
when I may cease from treading these long shifting
                                                                  thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.

Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:

l
a pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit 

Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi

Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!

Image may contain: 1 person, plant, tree, outdoor and nature

31.7.2017

*

by Seagull

@ Irwin, Cali
[Gấu đó ư, Quán Chùa đó ư?]


Quoc Tru Nguyen
2 mins

Jul 31 at 1:52 AM

“August Beauty" Gardenia

Dear GNV,

Wishing you a Happy Birthday and many many more...
Enjoy "August Beauty" Gardenia photos, enjoy writing and reading...
Seagull

Tks
Take Care
NQT


Image may contain: plant, flower and nature








Image may contain: 1 person, plant, outdoor and nature

Playboy August 2017


Ta tha thứ cho mi, vì mi có nhiều kẻ thù quá!
BHD phán, từ phiá bên kia vọng qua!

Nhớ, hồi mới quen BHD, về khoe nhặng với bạn C. trong Thất Hiền, bạn gật gù thông báo với cả bọn, Thánh nữ đó, mỗi lần Thánh nữ phán, là một Thánh ngôn đối với bạn Gấu ta!
Còn bà cụ C thì lắc đầu, nhà đó không chịu nổi một thằng như mày đâu!
Ông anh bèn cãi lại, nó lấy con H. chứ đâu phải gia đình con H. Mày cứ lấy nó đi, đem nó ra khỏi cái gia đình đó, là đại phúc cho con H đấy!
Ui chao, đúng ra, ông phải nói, đại phúc cho thằng Gấu chứ!
Mày lấy nó đi.
Ôi sao đơn giản như thế mà Gấu không làm được!
Về già, nghĩ lại, mới thấm đòn, tại sao ngày đó ngu thế. Vừa mới nghe em nói bây giờ H hết lãng mạn rồi, là điên lên, may là chưa tát tai cho em một cái, đúng như DP, thằng bạn của thằng em trai đã tử trận, khi đọc đoạn chạy theo em ở nơi cổng trường Đại Học Khoa Học:
-Gặp tay em là em bạt tai cho vài cái rồi!
Sau này, nhớ lại Maugham, nhớ ra cái mẹo của cô gái ở trong một truyện ngắn của ông, khi tìm cách tống cổ ông Phó Vương ra khỏi nhà, thì mới vỡ ra rằng, BHD cố tình nói như vậy, để tống cổ Gấu ra khỏi gia đình của cô, tránh cho Gấu cái khổ, phải dạ dạ vâng vâng thưa Bố, với ông bố vợ Bắc Kít!
Một mình em gọi ông ta là Bố là quá đủ rồi!
*
Ta tha thứ cho mi, vì mi ngu quá, không hiểu lòng ta. Ta không muốn mi phải gọi cái ông bố của ta là bố, nên đành phải từ chối tình mi.
Mi vừa ngu, vừa kiêu ngạo, vừa bướng bỉnh, vừa quá yêu ta... Chỉ cần ta giả đò lắc đầu, là mi bỏ đi, ta biết trước như vậy...
Ui chao, sao mà khôn như thế, đúng là Gái Bắc Kít!
*
Trong Lục Mạch Thần Kiếm, A Châu có tài hóa trang thần kỳ, đóng giả vai Kẻ Đại Ác Đoàn Chính Thuần, chịu chết dưới Giáng Long Thập Bát Chưởng của người yêu là Kiều Phong, trong khi ngắc ngoải, nằm trong lòng Kiều Phong, nghe người yêu gặng hỏi, tại "nàm" sao mà nàng phải "nàm" như vậy, à, thôi ta hiểu rồi, nàng sợ ta đánh chết Đoàn Chính Thuần, dòng họ Đoàn có Lục Mạch Thần Kiếm sẽ kiếm ta giết đi để trả thù…
A Châu mỉm cười mà đi, chàng hiểu em rồi, em chết là vì chàng, cho chàng, chứ không vì ai khác.
Bởi thế, mà, qua bên kia, BHD mới ngoái lại mà nói rằng, ta tha thứ cho mi, vì cái chuyện, mi không hiểu lòng ta, đâu phải ta không yêu thương mi, mà vì ta không muốn làm nhục mi, khi bắt mi gọi ông bố Bắc Kít của ta là bố!

'Cảm tạ ông Gấu'
Wednesday, June 10, 2009 12:27 PM
From:
To:
Kính gửi nhà văn Nguyễn Quốc Trụ,
5, 7 năm nay, có thể chỉ 1, 2 năm, không nhớ rõ bắt đầu đọc ông từ lúc nào, đọc ở đâu, nhưng cảm thấy nợ nặng, nặng nợ cùng ông từ lâu lắm nên kính gửi ông vài lời cảm ơn, ngộ nhỡ có thình lình đi tầu suốt, ai biết được, ngoài bẩy chục sống nay chết mai đâu chừng, xin ông vui lòng nhận cho lời cảm ơn của tấm lòng biết ơn chân thành này từ một độc giả lẽo đẽo vất vả theo ông trên giấy mực lem nhem lẫn những trang mạng chen chúc chằng chịt.
Học hỏi được nhiều, cứ ung dung thuổng 5, 7% kiến thức rung cảm ông ghi đó là tôi cũng đủ tiêu xài đến cuối đời, lại nhận ra thấp thoáng đời cũ từ tản cư hồi cư di cư rồi di tản, thấy chuyện bông hoàng lan của mình trong hình ảnh bông hồng đen, thấy rụt rè mến phục Bếp Lửa đọc dạo nào trên xe đò đoạn đường Búng Lái Thiêu trong giọng ông hùng hồn ngợi khen Bếp Lửa, Một chủ nhật khác ... không dám chửi cha mấy thằng mấy con Bắc Kít, yankee mũi tẹt thì thỏa dạ nghe ông viết giùm nỗi thù hận thâm căn cố đế mang từ những trại Suối Máu, Trảng Sụp, Phú Quốc, Xuân Lộc, hết K nọ đến K kia, lia chia abc 123 có đủ!
Cảm ơn ông Gấu, chúc ông vui mạnh luôn để cho độc giả ông được hưởng lợi.
Xin ông bảo trọng.
TB: Tuần trước tôi cũng lên Ottawa đi qua mấy chỗ ông chụp hình, hãnh diện lắm. Chỉ tiếc uất kim hương đã tàn cả nên lếch thếch theo con cháu lên nhà thủy tạ ăn ba cái cọng khoai tây chiên chua cả miệng, mệt cả người.

Phúc đáp: Đa tạ.
Gấu mấy bữa nay đau nặng, thì nhận được thư bạn. Thật đỡ quá.
Khi nào mạnh, sẽ viết thêm.
Cho gửi lời cảm tạ và chúc an khang tới toàn gia đình bạn.
NQT
*

Nghe anh Trụ bệnh nặng, thăm và chúc chóng hồi phục để còn chở cháu đi chơi và chụp hình, và nhất là viết cho thiên hạ đọc .
Cám ơn đã đọc sách giùm, nhất là đọc và đem về những tản mạn cũng như những bài viết thú vị lấy từ các trang mạng và blogs .
Nhân vụ ông già 88 tuổi James Von Brunn xách súng vào  Holocaust Museum ở Washington D.C.bắn chết người mới thấy rằng lòng thù hận không hạn tuổi . (1)
Chúc khỏe ,
K
*
Tks, both of  U.
Bịnh hết rồi, nhưng còn yếu xìu. Hết còn khoẻ và viết như trâu [chữ của O]!
NQT
(1)

"It's better to be strong than right," he said in one of his dark screeds online, "unless you like dying. Crowds hate good guys."

Một ông bài Do Thái vô Bảo Tàng tưởng niệm Lò Thiêu xả súng bắn tưới. "Bạn phải mạnh, không cần bạn phải đúng. Không lẽ bạn thích chết, bị người ta giết? Đám đông ghét thiện nhân."


MIRRORS AT 4 A.M.

You must come to them sideways
In rooms webbed in shadow,
Sneak a view of their emptiness
Without them catching
A glimpse of you in return.

The secret is,
Even the empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are more themselves keeping
The company of a blank wall,
The company of time and eternity

Which, begging your pardon,
Cast no image
As they admire themselves in the mirror,
While you stand to the side
Pulling a hanky out
To wipe your brow surreptitiously.

Charles Simic: Sixty Poems

Gương, 4 giờ sáng

Bạn phải rón rén, me mé, tới đó (1)
Những căn phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1 cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú! 

Niềm bí ẩn là,
Ngay cả cái giường trống trơn
Thì cũng là 1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy bình yên hơn
Cảm thấy chúng là chúng hơn
Khi có bạn quí cận kề
Là bức tường trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu 

Những thứ đó, xin lỗi bạn
Chúng đếch để bóng của chúng
Trên mặt gương
Khi chúng tự sướng 

Trong lúc bạn đứng né qua 1 bên
Rút chiếc khăn tay
Kín đáo lau lông mày

1.      with one side faced forward

<I had to walk sideways to get between the two towering piles of boxes>

Synonyms broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]

TO LAZINESS

Only you understood
How little time we are given,
Not enough to lift a finger.
The voices on the stairs,
Thoughts too quick to pursue,
What do they all matter?
When eternity beckons.

The heavy curtains drawn,
The newspapers unread.
The keys collecting dust.
The flies either sluggish or dead.
The bed like a slow boat,
With its one listless sail
Made of cigarette smoke.

When I did move at last,
The stores were closed.
Was it already Sunday?
The weddings and funerals were over.
The one or two white clouds left
Above the dark rooftops,
Not sure which way to go.

Charles Simic: That Little Something

 

Gửi Đại Lãn

Chỉ mi biết
Ít ỏi làm sao, thời gian hai đứa còn
Chẳng đủ nhắc điếu thuốc.
Những tiếng nói trên cầu thang,
Ý nghĩ nhanh như chớp, vô phương săn đuổi,
Tất cả nghĩa chi đâu?
Khi vĩnh cửu gật đầu.

Những bức màn nặng được kéo
Những tờ nhựt trình không đọc
Những chiếc chìa khóa thu gom bụi
Những con ruồi lờ đờ, hoặc chết.
Chiếc giường giống như con thuyền chậm chạp
Với một cánh buồm,
Làm bằng khói thuốc lá.

Sau cùng Gấu đành nhúc nhích
Những cửa tiệm đóng cửa
Chủ nhật rồi, ư?
Đám cuới, đám tang thì cũng đã xong
Một, hoặc hai đám mây trắng bị bỏ lại trên mái nhà
Đếch biết chọn hướng nào
Làm chuyến giang hồ vặt.

Hà, hà!
Chán quá!

August 9, 1998

One Art

The art of losing isn't hard to master;
so many things seem filled with the intent
to be lost that their loss is no disaster.

Lose something every day. Accept the fluster
Of lost door keys, the hour badly spent.
The art of losing isn't hard to master.

Then practice losing farther, losing faster:
places, and names, and where it was you meant
to travel. None of these will bring disaster.

I lost my mother's watch. And look! my last, or
next-to-last, of three loved houses went.
The art of losing isn't hard to master.

I lost two cities, lovely ones. And, vaster,
some realms I owned, two rivers, a continent.
I miss them, but it wasn't a disaster.

-Even losing you (the joking voice, a gesture
I love) I shan't have lied. It's evident
the art of losing's not too hard to master
though it may look like (Write it!) like disaster.

-Elizabeth Bishop, The Complete Poems, 1927-1979,
Farrar, Straus & Giroux

Robert Hass: Now & Then

Một Nghệ Thuật

Nghệ thuật mất, đạt đến mức thượng thừa, không khó.
Rất nhiều thứ ở trên đời này, sinh ra là để được –không “bị được” nhe! - mất đi.
Và cái sự mất đi như thế, đếch phải 1 thảm họa! 

Mất một cái gì đó, mọi ngày.
Chấp nhận tí bối rối mất mẹ chùm chìa khoá
Hay một giờ qua đi "uổng" cú mèo!
Nghệ thuật mất đâu có khó, trở thành Trùm, Đại Sư Phụ.

Thực tập dài, mất ông via,
Mất làm sao nhanh hơn nữa, nhất là thứ ông via BHD!
Nơi chốn, và tên, và ở đâu,
Chúng có nghĩa gì đối với bạn để làm 1 cú du lịch.
Chẳng có thứ nào sẽ đem đến thảm họa.

Tôi mất cái đồng hồ của ông bố.
Và này! Cái cuối cùng, cái trước cái cuối cùng, của ba căn nhà yêu thương,
ba mái nhà ấm cúng của tôi, đều cúng cho VC cả!

Nghệ thuật mất mát đâu có khó để đạt đến mức thượng thừa!
Gấu mất hai thành phố, hai thành phố thật yêu thương, Hà Nội, rồi Xề Gòn.

Và rộng hơn nữa,
Hai cõi, kiếp, khác mà Gấu sở hữu, hai con sông [Sông Hồng, Sông Xề Gòn], một đại lục [Á Châu]
Gấu nhớ chúng, nhưng đâu phải một thảm họa? 

-Ngay cả mất Sea Gull [giọng têu tếu, cái cử chỉ tất tả đi mua cà phe mà Gấu mê],
Mất thêm MCNK
GCC cũng đành!
Hà, hà!
Hiển nhiên là nghệ thuật mất mát, Gấu cũng đã tới mức chẳng thua ai!

Tuy nhiên quả đúng, thảm họa
Viết ra đi: Thảm họa!

JUNE 20 [1999]


 Thơ Mỗi Ngày

One Letter Is Enough
                                    for Xia

one letter is enough
for me to transcend and face
you to speak

as the wind blows past
the night
uses its own blood
to write a secret verse
that reminds me each
word is the last word

the ice in your body
melts into a myth of fire
in the eyes of the executioner
fury turns to stone

two sets of iron rails
unexpectedly overlap
moths flap toward lamp
light, an eternal sign
that traces your shadow

Liu Xiabo

Translated from the Chinese by Jeffrey Yang

Một lá thư là đủ

Một lá thư là đủ để anh siêu thoát,
để nhìn mặt em, để nói chuyện
Như gió thổi qua đêm
dùng máu của nó
viết câu thơ bí mật,
nhắc nhở anh, mỗi lời là lời cuối.

Băng giá trong cơ thể em
tan vào huyền thoại lửa.
Trong mắt tên đao phủ
giận dữ biến thành đá.

Hai chấn song sắt
Không chờ không đợi
Bỗng nhập vào nhau
Thiêu thân bay vào đèn
Ánh sáng, một dấu hiệu vĩnh hằng
Vẽ dáng em.
*
 

RYSZARD KRYNICKI 1943-
 

The history of the twentieth century has been largely a history of mass crimes. Yet it has also witnessed the heroism of idealistically motivated men and women who were ready to offer their lives for the causes they believed sacred. This poem compares that faith in ideas to the urge of a moth to fly toward a candle, toward its destruction. By an ironic twist, in reality the poet praises the constant striving of people toward a dangerous goal.
Cái thế kỷ 20 quả đúng là thế kỷ của những tội ác tập thể. Tuy nhiên, nó còn cho thấy chủ nghĩa anh hùng, chết vì nghĩa cả, khiến đám đông rủ nhau lao và lửa. Bài thơ dưới đây so sánh cái niềm tin đó, với cái sự thôi thúc lao vào ánh nến, lao vào huỷ diệt của con thiêu thân..

I CAN'T HELP YOU

Poor moth, I can't help you,
I can only turn out the light.
[Con thiêu thân đáng thương, ta không thể giúp mi
Ta chỉ có thể tắt ánh sáng đèn]

Translated from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw Milosz tuyển chọn & giới thiệu

Tình cờ làm sao, GNV vớ được bài này, cũng nói về cái vụ thiêu thân lao vào lửa, và cũng nói về những cái vụ tàn sát, tù đầy… của thế kỷ.
Bài thơ của LHB có vẻ như đồng nhất được cả hai hành động của ông, hy sinh thân mình cho nghĩa cả [tự do, dân chủ cho TQ], nhưng lại coi cái hành động thiêu thân lao vào lửa đó, là để ‘vẽ dáng em’, và lửa đây là lửa vĩnh hằng, khác thứ lửa cách mạng của đám VC/TQ!

Tuyệt!






SN_GCC_2017

Tháng Tám  ( Đặng Lệ Khánh / Bruno Schulz ) 

Tháng Tám

16.8: SN GCC
19.8: SN Vẹm, Cách Mạng Mùa Thu
Nếu thế, Gấu là ông anh của Vẹm!

from Poems for Akhmatova

I won't fall behind you. I'm the guard.
You-the prisoner. Our fate is the same.
And here in the same open emptiness
they command us the same-Go away.
So-I lean against nothing.
I see it.
Let me go, my prisoner,
to walk over towards that pine tree.

Ta sẽ không té sau mi đâu. Ta là tên quản giáo của mi mà
Mi - tù nhân.
Số phận của ta như nhau
Và như nhau, vào lúc này, là trống rỗng mở rộng
Chúng ra lệnh cho chúng ta, cũng như nhau - Hãy xéo!
Và như thế, ta vịn vào chẳng cái gì
Ta nhìn thấy nó
Hãy để ta đi, tù nhân của ta ơi
Đi tới cái cây thông đó.
JUNE 1916
Marina Tvetaeva

On August 2,1921 Nikolai Gumiliov, who was Akhmatova's husband and a prominent poet, was arrested and subsequently shot. On August 7, Alexander Blok, forty-one years old, died in a state of despair bordering on insanity. At the end of August, rumors circulated that Akhmatova had killed herself. (Mayakovsky organized a chain of friends to discover the truth and dispel rumors. In gratitude, Tsvetaeva dedicated a poem to him, calling him "heavy-footed archangel.") In early 1922, the great Futurist poet Velemir Khlebnikhov died.
In 1922, the Communists ordered two hundred philosophers, scientists, and writers to board a ship. Subsequently called The Philosophers' Ship, it included every single prominent non-Marxist philosopher in Russia. All were sent into exile.
Marina Tsvetaeva left Russia in the spring of that year; she stepped off the train in Berlin on May 15, 1922.

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/16.html

Note: Gấu tính dịch cái tít là “Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra”, thuổng PD, để tưởng niệm cuộc cách mạng của VC, nhân chúng mới bày ra triển lãm CCRD.
Nhưng cái tít cứ để nguyên như thế, thì lại nói ra được nhiều hơn thế nhiều, hà hà!

Vũ Khí Mùa Thu

CCRD đi đến cực điểm
Khẩu hiệu CCRD đi đến cực độ
Dao ăn đá chém địa chủ đi đến cực điểm
Tôi nghe không gian vỡ vụn, sụp đổ

Điều đó quá hợp với VC chúng tớ
Trong mùa thu cũ,
Cái gì gì,
Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra….
Một người chết
Triệu triệu người chết
Nuốt nỗi buồn
Và những con hổ giấy
Dân Mít kéo xệch miệng ra khỏi tai

Bữa nay, tôi muốn khởi đầu, làm mới
Nghiên cứu mọi kiểu hy sinh
Mặt trời chân lý chiếu qua tim, sáng ngời ngời
Những cái xương nhọn hoắt của cách mạng

Ngay lúc này ở Chengdu
Mọi người xông lên
Đưa xe cho tôi
Cho tôi cực điểm
Cho tôi bạo lực và quảng trường
                                Winter 1986

Bá Hoa: Gió Nói

Vũ Khí Mùa Thu

Đấu tranh đi tới cực đoan
Khẩu hiệu đi tới cực đoan
Cây kéo ăn đá đi tới cực đoan
Tôi nghe không khí đang rụng rơi

Điều này hoàn toàn thích hợp với mi
Trong mùa thu đời xưa
Một người chết vì điều này
Nuốt vào chán mứa
Nuốt cả hổ giấy
Mà miệng nhân dân không ngoác đến tai

Hôm nay tôi lại bắt đầu
Nghiên cứu các kiểu hi sinh
Thứ ánh sáng cao ngất trời
Xương cốt cách mạng sắc nhọn

Lúc này, ở Thành Đô
Mọi người ùa tới
Đưa xe hơi cho tôi
Đưa cực đoan cho tôi
Đưa bạo lực và quảng trường cho tôi.

Dã Viên dịch, từ nguyên tác

Bruno Schulz
Bruno Schulz

IN ONE OF his earliest childhood recollections, young Bruno Schulz sits on the floor ringed by admiring family members while he scrawls one 'drawing' after another over the pages of old newspapers. In his creative rapture, the child still inhabits an 'age of genius', still has unselfconscious access to the realm of myth. Or so it seemed to the man whom the child became; all of his mature strivings would be to regain touch with his early powers, to 'mature into childhood'.
    These strivings would issue in two bodies of work: etchings and drawings that would probably be of no great interest today had their deviser not become famous by other means; and two short books, collections of stories and sketches about the inner life of a boy in provincial Galicia, which propelled him to the forefront of Polish letters of the interwar years. Rich in fantasy, sensuous in their apprehension of the living world, elegant in style, witty, underpinned by a mystical but coherent idealistic aesthetic, Cinnamon Shops (1934) and Sanatorium Under the Sign of the Hourglass (1937) were unique and startling productions that seemed to come out of nowhere.
    Bruno Schulz was born in 1892, the third child of Jewish parents from the merchant class, and named for the Christian saint on whose name-day his birthday fell. His home town, Drohobycz, was a minor industrial centre in a province of the Austro-Hungarian Empire that after World War I returned to being part of Poland.
    Though there was a Jewish school in Drohobycz, Schulz was sent to the Polish Gymnasium. (Joseph Roth, in nearby Brody, had gone to a German Gymnasium.) His languages were Polish and German; he did not speak the Yiddish of the streets. At school he excelled at art, but was dissuaded by his family from following art as a profession. He registered to study architecture at the polytechnic in Lwow, but in 1914, when war was declared, had to break off his studies. Because of a heart defect he was not called up into the army. Returning to Drohobycz, he set about a programme of intensive self-education, reading and perfecting his draughtsman-ship. He put together a portfolio of graphics on erotic themes entitled The Book of Idolatry and tried to sell copies, with some diffidence and not much success.
    Unable to make a living as an artist, saddled, after his father's death, with a houseful of ailing relatives to support, he took a job as an art teacher at a local school, a position he held until 1941.
Though respected by his students, he found school life stultifying and wrote letter after letter imploring the authorities for time off to pursue his creative work, pleas to which, to their credit, they did not always turn a deaf ear.
[suite]
J.M. Coetzee: Inner Workings, essays 2000-2005

Note: Bởi là vì S đã từng dịch Kafka, và giữa họ có cái gì giống nhau, Gấu Cà Chớn bèn nhớ tới Walser. Ông này cũng mắc mớ với Kafka, và cả ba đấng này - có lẽ kể thêm Hoàng Ngọc Tuấn của Cô bé treo mùng - tất cả đám đều bị đời hất hủi, hay nói đúng hơn, đều hất hủi cuộc đời, vào cái dịp SN Tám Bó, Gấu, thay vì tự sướng, thì bèn tưởng niệm những đấng này, thú hơn nhiều.
David Grossman, trong cuốn "Viết Trong Bóng Tối", trong bài viết "Những cuốn sách đọc tôi", cũng dành rất nhiều dòng cho S, ngoài cái bài, được K dịch, từ Người Nữu Ước.
Bèn đi luôn, cùng với bài của Coetzee.

Coetzee cũng có 1 bài về Walser, link sau đây:

http://www.tanvien.net/Tribute_1/Walser_by_Sebald.html

*


WG Sebald

The Observer

A Place in the Country by WG Sebald – review

Sebald's posthumous essays affirm his ability to make his own obsessions ours too

http://www.theguardian.com/books/2013/apr/27/wg-sebald-place-country-review

WG Sebald's quietly potent legacy
Out of tune with the hustling digital world, his singular, deeply personal books continue to inspire and intrigue
http://www.theguardian.com/books/booksblog/2013/may/13/wg-sebald-legacy


Note: Trên net có mấy bài về Sebald, link ở đây, rảnh - những khi bớt nhớ ai đó - dịch hầu quí vị độc giả TV,  như GCC, mê Sebald, người có tài biến nỗi ám ảnh của ông, thành, của chúng ta


EBRUARY 6, 2014

Le Promeneur Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser

***
A Place in the Country


The Genius of Robert Walser
http://www.nybooks.com/articles/archives/2000/nov/02/the-genius-of-robert-walser/
J.M. Coetzee
November 2, 2000 Issue

Was Walser a great writer? If one is reluctant to call him great, said Canetti, that is only because nothing could be more alien to him than greatness. In a late poem Walser wrote:

I would wish it on no one to be me.
Only I am capable of bearing myself.
To know so much, to have seen so much, and
To say nothing, just about nothing.

Walser, nhà văn nhớn?
Nếu có người nào đó, gọi ông ta là nhà văn nhớn, 1 cách ngần ngại, thì đó là vì cái từ “nhớn” rất ư là xa lạ với Walser, như Canetti viết.
Như trong 1 bài thơ muộn của mình, Walser viết:

Tớ đếch muốn thằng chó nào như tớ, hoặc nhớ đến tớ, hoặc lèm bèm về tớ, hoặc mong muốn là tớ
Nhất là khi thằng khốn đó ngồi bên ly cà phê!
Một mình tớ, chỉ độc nhất tớ, chịu khốn khổ vì tớ là đủ rồi
Biết thật nhiều, nhòm đủ thứ, và
Đếch nói gì, về bất cứ cái gì

[Dịch hơi bị THNM. Nhưng quái làm sao, lại nhớ tới lời chúc SN/GCC của K!] (1)

Walser được hiểu như là 1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,” Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì đúng là Kafka [như được hậu thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những người đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser [một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig. Benjamin, và Kafka;  đúng ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều hơn, so với Kafka, hay Benjamin.

W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur Solitaire,” offers the following biographical information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere was he able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions. He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece of furniture, and as far as clothes are concerned, at most one good suit and one less so…. He did not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald goes on to ask, “How is one to understand an author who was so beset by shadows … who created humorous sketches from pure despair, who almost always wrote the same thing and yet never repeated himself, whose prose has the tendency to dissolve upon reading, so that only a few hours later one can barely remember the ephemeral figures, events and things of which it spoke.”

(1)

To U & O & My home

MY-NESS

"My parents, my husband, my brother, my sister."
I am listening in a cafeteria at breakfast.
The women's voices rustle, fulfill themselves
In a ritual no doubt necessary.
I glance sidelong at their moving lips
And I delight in being here on earth
For one more moment, with them, here on earth,
To celebrate our tiny, tiny my-ness.

To find my home in one sentence, concise, as if hammered in metal.
Not to enchant anybody. Not to earn a lasting name in posterity. An
unnamed need for order, for rhythm, for form, which three words are
opposed to chaos and nothingness.

Berkeley-Paris-Cambridge, Massachusetts, 1981-1983

Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004

Note: Thấy trên nét, có bài của Cao Huy Khanh, viết về Nguyễn Mộng Giác, có nhắc tới HNT

https://www.facebook.com/notes/cao-huy-vinh/h%E1%BB%93-s%C6%A1-h%E1%BA%ADu-chi%E1%BA%BFn/588089321580931/

SN_GCC_2017

SN_GCC_2017

Oh my August, how could you give me such news
As a terrible anniversary?


Akhmatova: A Dream
(August 14, 1956),

.... vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."

&

Mi giống như một con Gấu: Tất cả sự êm ái dịu dàng được bọc bằng một cái vỏ cứng cỏi, cùng với sự sần sùi tuyệt vời của nó, khiến ta chảy tan ra. Ta thật là buồn vì nhà ngươi chẳng bao giờ chịu khó hiểu ta thêm một chút. Tại sao mi không cố hiểu thêm về ta, mà cứ thế ngưng lại, dậm chân tại chỗ?
Chiều hôm qua, ta tự hỏi, làm thế nào, để ta có thể chứng tỏ cho mi thấy, là ta yêu thương mi biết là chừng nào. Làm sao chứng tỏ cho mi biết, bằng một phương tiện cho dù mắc mỏ cỡ nào đối với ta, rằng ta thương mi?
Và ta chỉ tìm ra được một phương tiện, đó là gửi tiền cho mi, để mi đi chơi với con mụ đàn bà nào đó.
Gấu Cái.
Thư của Anais Nin, bồ của Henry Miller, có sửa đổi chút đỉnh, cho hợp với tình cảnh vợ chồng Gấu!
[Tu es comme l'ours, Henry: tout de douceur dans une enveloppe de dureté, avec une délicieuse rugosité suave qui me fait fondre...]

*
You only live twice
Or so it seems.
One life for yourself
One for your dream (1)
Bạn chỉ sống hai phùa
Một phùa sống
Một phùa mơ

(1) Nhạc phim James Bond
Phùa: fois, tiếng Tẩy, lần.


Bruno Schulz

SN năm nay, mừng Tám Bó, có mấy sự kiện thú vị.
K. lôi bài viết về Schulz, của David Grossman, được Man Booker năm nay, 2017, viết về Schulz, trên tờ Người Nữu Ước, GCC dịch dở, ra dịch tiếp.
Và dịch thêm 1 bài viết của Schulz, như là quà SN.
GCC bèn dịch 1 bài của AZ viết về S, trong cuốn nhà văn Balan viết về viết, “Polish Writers on Writing”, và 1 đấng blogger, trên FB, bèn share bài viết này
Đấng này, mũi lõ, không biết tiếng Mít, FB name là: Bruno Schulz.

Tóm gọn là, SN Tám Bó của GCC là 1 dịp tưởng niệm Bruno Schulz.

GCC biết đến S, là qua bài Coetzee. Bài viết của ông, sau in trong Inner Workings. Post sau đây.
Bài dài. Có nhiều chi tiết thần sầu của S. Phát giác của ông, về cách viết của S, cũng thật là tuyệt vời, trưởng thành trong thơ ấu.

Trong lúc đọc S, GCC phát giác ra 1 S Mít, là Hoàng Ngọc Tuấn, tác giả Cô bé treo mùng, Thư từ Đường Sơn Cúc, mà với GCC, vị Mít này, cũng 1 thứ "Trưởng Thành Trong Thơ Ấu", theo cái nghĩa, cứ chỉ muốn mãi mãi là 1 đứa trẻ, khi viết.
Theo cái nghĩa: Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành - chỉ nhiều tuổi thêm lên, rồi thì già!

Note: Đọc VOA, thấy bài này, nhân đang viết về HNT. Ông được coi là ảnh hưởng Salinger, và tuyên bố, tôi không phải là tác giả viết về tuổi thơ.
Có thể thế thực.
Trưởng thành trong thơ ấu không có nghĩa là viết về tuổi thơ, như cả 1 băng Mít, nào là Duyên Anh, Lê Tất Điều, trước 1975, và sau 1975, cả 1 lô com ba nhi:
Đất nước càng khốn nạn bao nhiêu, thì càng đẻ ra những nhà văn chuyên viết về tuổi thơ bấy nhiêu.

Cho tớ cái vé đi về tuổi thơ XHCN đi!
Vừa nhắm mắt vừa mở cửa [Địa Ngục]!

https://www.voatiengviet.com/a/hoang-ngoc-tuan-toi-khong-phai-la-tac-gia-viet-ve-tuoi-tho/1723565.html

Bruno Schulz

IN ONE OF his earliest childhood recollections, young Bruno Schulz sits on the floor ringed by admiring family members while he scrawls one 'drawing' after another over the pages of old newspapers. In his creative rapture, the child still inhabits an 'age of genius', still has unselfconscious access to the realm of myth. Or so it seemed to the man whom the child became; all of his mature strivings would be to regain touch with his early powers, to 'mature into childhood'.
    These strivings would issue in two bodies of work: etchings and drawings that would probably be of no great interest today had their deviser not become famous by other means; and two short books, collections of stories and sketches about the inner life of a boy in provincial Galicia, which propelled him to the forefront of Polish letters of the interwar years. Rich in fantasy, sensuous in their apprehension of the living world, elegant in style, witty, underpinned by a mystical but coherent idealistic aesthetic, Cinnamon Shops (1934) and Sanatorium Under the Sign of the Hourglass (1937) were unique and startling productions that seemed to come out of nowhere.
    Bruno Schulz was born in 1892, the third child of Jewish parents from the merchant class, and named for the Christian saint on whose name-day his birthday fell. His home town, Drohobycz, was a minor industrial centre in a province of the Austro-Hungarian Empire that after World War I returned to being part of Poland.
    Though there was a Jewish school in Drohobycz, Schulz was sent to the Polish Gymnasium. (Joseph Roth, in nearby Brody, had gone to a German Gymnasium.) His languages were Polish and German; he did not speak the Yiddish of the streets. At school he excelled at art, but was dissuaded by his family from following art as a profession. He registered to study architecture at the polytechnic in Lwow, but in 1914, when war was declared, had to break off his studies. Because of a heart defect he was not called up into the army. Returning to Drohobycz, he set about a programme of intensive self-education, reading and perfecting his draughtsman-ship. He put together a portfolio of graphics on erotic themes entitled The Book of Idolatry and tried to sell copies, with some diffidence and not much success.
    Unable to make a living as an artist, saddled, after his father's death, with a houseful of ailing relatives to support, he took a job as an art teacher at a local school, a position he held until 1941.
Though respected by his students, he found school life stultifying and wrote letter after letter imploring the authorities for time off to pursue his creative work, pleas to which, to their credit, they did not always turn a deaf ear.
[suite]
J.M. Coetzee: Inner Workings, essays 2000-2005

HNT không nghĩ ông viết cho tuổi thơ, có thể còn là do ông viết “khác” những ông chuyên viết về tuổi thơ, vào thời của ông. Duyên Anh có Con Sáo Của Em Tôi, nhưng dưới cái nick Thương Sinh, ông chửi suốt thiên hạ, nhất là những tên mang danh là “phê bình gia”, như Gấu chẳng hạn, mà dám vờ ông, đếch thèm nâng bi ông!
Quê quá, sau ông phải kêu bạn quí của Gấu, đi cùng với ông, tới 1 tên đầu nậu và ra lệnh, phát cho nó 1 tí tiền còm, để nó nâng bi ta!
Tiền còm, do chính HPA nói với Gấu, là 300 ngàn, và sau đó, HPA cho ra đời, "Duyên Anh, tưổi trẻ, mộng và thực", sau khi nướng hết món tiền ở Trường Đua Phú Thọ!
Còn Lê Tất Điều mà không khủng sao. Ông còn viết dưới cái tên Kiều Phong, rồi ra hải ngoại, thêm cái nick "Kiều Phong Trừ Tà", Tà ở đây là Tà Cúc, khi bà này dám đụng tới ông!
GCC thực sự không biết, mấy vị viết cho tuổi thơ sau 1975, có lâm vào trường hợp nhị phân, như vậy, hay không. Tuy nhiên, trường hợp Con Dế Mèn, là quái dị nhất. Giả như không có Cách Mạng Mùa Thu, có thể Tô Hoài vẫn chỉ là 1 tác giả viết cho tuổi thơ, và nhờ Cách Mạng của Vẹm, con quỉ chuồng heo ở nơi ông xổng chuồng, đúng cái ý bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" của Tolstaya, hay "Y Sĩ Đồng Quê" của Kafka, và chúng ta được thưởng thức Ba Người Khác. Cuốn này đúng là đỉnh cao của Cái Ác Bắc Kít, có thể nói như thế!
Hoàng Ngọc Tuấn theo GCC là 1 nhà văn tuyệt vời nhất, trong số họ. Ông không có 1 tí ác nào trong khi viết. Chính vì thế, sau 1975, ông đành im tiếng. Viết lăng nhăng để khỏi chết đói, OK. Nhưng viết, như trước, no way!



Oh my August, how could you give me such news
As a terrible anniversary?


Akhmatova: A Dream
(August 14, 1956),

ON THE BROOKLYN BRIDGE

Perhaps you're one of the many dots at sunset
I see moving slowly or standing motionless,
Watching either the gulls in the sky or the barge
With a load of trash passing on the river below.

The one, whose family doesn't want to hear from,
On his way to a night class in acting, passing
An old Chinese waiter going in the opposite direction,
And a bodybuilder and a nurse holding hands.

And what about the one I'm always hoping to run into?
Though I barely remember what she looked like?
She could be one of the few that have lingered on,
Or the one that vanished since I last glanced that way.

Charles Simic: The Lunatic

Trên cầu Brooklyn Bridge

Có lẽ em là một cái chấm nhỏ trong rất nhiều chấm chấm vào lúc mặt trời lặn
Mà anh nhìn thấy đang chuyển động
Hay đang đứng bất động
Nhìn những con hải âu trên bầu trời
Hay con thuyền chở rác trên dòng sông bên dưới

Hay là một cái chấm mà gia đình không thèm muốn nghe nói tới
Đang loay hoay, len lỏi
Trên con đường tới lớp đêm
Hay tên bồi người Tàu đi ngược lại
Và một tên lực sĩ và một cô y tá, tay trong tay.

Nhưng mà này, còn cái người mà anh luôn luôn mong muốn chạy tới ôm chầm lấy?
Tuy nhiên chán làm sao anh không làm sao nhớ ra nổi khuôn mặt em
Ở tiệm cà phê Starbucks buổi sáng bữa đó
Em có thể là một trong vài người lần lữa,
Hay cái người mà đã biến mất từ MCNK [một chủ nhật khác] không hề có?
Cái người mà anh lần cuối nhìn lại
Như nhìn lại Xề Gòn
Đã mất?


To Whoever Is Reading Me

You are invulnerable. Have they not granted you,
those powers that preordain your destiny,
the certainty of dust? Is not your time
as irreversible as that same river
where Heraclitus, mirrored, saw the symbol
of fleeting life? A marble slab awaits you
which you will not read-on it, already written,
the date, the city, and the epitaph.
Other men too are only dreams of time,
not indestructible bronze or burnished gold;
the universe is, like you, a Proteus.
Dark, you will enter the darkness that awaits you,
doomed to the limits of your traveled time.
Know that in some sense you are already dead.
-A.R.
J.L. Borges

Gửi bất cứ ai đang đọc GCC

Bạn thì “đả biến thiên hạ vô địch thủ, kim cương bất hoại..”
Hẳn là những vị thần đã ban cho bạn quyền lực vô biên: Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?
Hay là thời gian của bạn,
Không phải thứ "bất phản hồi", mà thằng cha Gấu ngồi ở bờ sông Mekong thấy xác của nó trôi qua?
Hay Heraclitus, nhìn qua gương, thấy hình ảnh cuộc đời bóng câu qua cửa sổ?
Một miếng đá cẩm thạch đang đợi bạn.
Bạn sẽ không đọc – trên miếng đá đã được viết ra, ngày tháng, thành phố, và mộ chí, tức câu văn ngắn nhất, gói trọn đời bạn.
Những con người khác, cũng thế, chỉ là những giấc mơ của thời gian
Không phải đồng không bị huỷ diệt, hay vàng bị đốt cháy
Vũ trụ thì cũng như bạn, một Proteus.
Tối thui, bạn sẽ đi vào bóng đen đang đợi bạn,
Thứ bóng đen bị trầm luân bởi những giới hạn của thời gian viễn du của bạn
Biết, theo 1 nghĩa nào đó, bạn đã chết từ đời nào rồi.


V/v : Ngựa Ngụy hí gió Bắc Kít
Thank God I was left on this earth without a homeland.

Trở lại nơi một thời vang bóng

Volkov: Do you mean the line, "Thank God I was left on this earth without a homeland?” Those words proved prophetic. How did they pop out of you then, in 1962?
Brodsky. Well, there was this idea of solitude ... of detachment. After all, in that Leningrad topography, there is really a very powerful split. There's a tremendous difference between the center and the outskirts. And suddenly I realized that the outskirts were the beginning of the world, not the end. 'They were the end of the familiar world but the beginning of the unfamiliar world, which is much bigger, much vaster. In principle the idea was that, in leaving for the outskirts, you're distancing yourself from everything you know and setting out for the real world.

Volkov: Bạn tính nói cái dòng thơ “Cám ơn Trời tôi bị bỏ lại trên thế gian này đếch có quê hương?” Đúng là dòng thơ tiên tri. Quái làm sao, nó lại bật ra vào năm 1962?
Brodsky: Chắc là do cô đơn, tách rời. Nói cho cùng, cái địa thế của Leningrad gây chia lìa, (đi hay ở là chọn lựa chết người. TTT). Có 1 sự khác biệt khủng giữa trung tâm và ngoại vi. Và bất thình lình tôi nhận ra, ngoại vi là khởi đầu của thế giới, không phải tận cùng. Chúng là tận cùng của thế giới quen thuộc, nhưng là bắt đầu của thế giới không quen thuộc, lớn hơn, rộng hơn. Khi rời bỏ trung tâm tới ngoại vi, là bạn tự tách mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và bước vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện trò với Brodsky

Robert Melancon

French, born 1947

AUGUST

I wander beneath the serenity
of the moon as it withdraws
 its stars from the night. A shadow
goes with me in which I do not
know myself. Only these trees
nearest to me, the grass, the washed darkness
exist. A cry
of a night jar, the murmur of leaves.
Summer consents absently to the night.

Tháng Tám

Tớ lang thang dưới vừng trăng thanh thản
Nó rút những vì sao của nó ra khỏi đêm.
Một cái bóng cùng đi với tớ, và tớ không làm sao phân biệt, tớ là bóng, hay bóng là tớ.
Chỉ cây cối cận sát tớ, cỏ, và bóng tối được rửa sạch, hiện hữu
Đêm, như cái bình, kêu 1 phát,
Lá thì thầm
Mùa hè, bèn bằng lòng, tự vắng mình trong đêm.


Phố Hàng Lờ
Phải đến khi được vô xứ Nam Kỳ, rồi làm quen Huỳnh Phan Anh, những ngày làm trang văn nghệ của tờ Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, cùng với Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, thời gian đang học trường Quốc Gia Bưu Điện, cc 1958, 1959, lần lãnh nhuận bút đầu tiên, cả bọn kéo nhau lên xóm, hai thằng kia bỏ mặc Gấu ngồi bên ngoài, chúng vô liền bên trong, và Gấu còn lắc đầu, khi Má Mì hỏi, còn cậu, có đi không, và khi Gấu lắc đầu, tôi không “đi”, và vỡ ra liền tù tì, “đi” nghĩa là gì, và sau đó được 1 em dậy bài học thực hành, và nếu như thế, con đường để được chiêm ngưỡng bướm, đúng là chiều dài của xứ Mít!
Thì vẫn giấc mơ của xứ Mít, giấc mơ cuốn tiểu thuyết đầu tay, nối liền hai thành phố, Hà Nội và Sài Gòn.
Vẫn còn nhớ, em vừa nói vừa mở hai cánh đùi ra, phải như thế này này....
Ôi chao, nhớ hoài!
GCC bị em mắng hoài, anh ấy hiền lắm.

Quả thế thực. Hai cái thú thần sầu ở trên đời, “khám phá ra bản thân”, “may tay” và “đưa em vào hạ”, Gấu đều được người khác dậy bảo, chỉ cho biết.
Một, nhờ ông cậu, Cậu Hồng, đấng con trai độc nhất của Bà Trẻ của Gấu, và một, nhờ một em, lần tới xóm cùng HPA và DVB, thời gian phụ trách trang văn học của báo Mã Thượng, học trường Bưu Điện, cc 1959-60.

Vargas Llosa có 1 bài viết về đề tài này, rất OK, trên tờ Harpers, Tin Văn đã giới thiệu, trong đó, ông phán, phải để cho tụi trẻ tự chúng khám phá ra.
Masturbation does not have to be taught; it can be discovered in private.
GCC thực sự không hiểu bằng cách nào, ông cậu của Gấu, vốn rất ngù ngờ, học hành cực dở, mà lại khám phá ra cái thú cực thú như thế.

https://harpers.org/archive/2015/07/ars-erotica/

In the darkness of earliest times, animals and humans alike engaged in a physical coupling without mystery, without grace, without subtlety, and without love. The humanization of the lives of men and women was a long process in which the advance of scientific knowledge and philosophical and religious ideas all played their parts, as did the development of arts and letters. But nothing changed as much as our sex lives did. This change has been a stimulus of artistic and literary creation; in reciprocal fashion, painting, literature, music, sculpture, and dance — all the artistic manifestations of human imagination — have contributed to the enrichment of pleasure in sexual activity. It would not be outrageous to say that eroticism marks a high point of civilization or that it is one of civilization’s defining characteristics. There is no better way to gauge how primitive a community is or how far it has advanced in civilization than to scrutinize the secrets of the bedroom and to find out how its inhabitants make love.

Vào cái thời mông muội, loài vật và con người làm cái việc xục xạo lẫn nhau, không bí hiểm, không ân sủng, không "tế vi", và, không tình yêu. Cái tiến trình dài thật dài, để tới được giai thoại, được kể trong Bông Hồng của Coleridge, về 1 chàng trai, đến được thiên đường, và được em trao cho 1 bông hồng, và khi tỉnh dậy, thấy bông hồng vẫn còn nguyên trong tay, và hiểu ra rằng thì là tình yêu là báu vật có thật ở trên đời, như Borges phán. Cách giải thích của Borges, tuyệt vời hơn nhiều, so với Vargas Llosa, như trên


FB lại bị error, không làm sao post hình được!

  *

hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn


và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn:  

Tuyệt!

Tks
NQT

Nhớ là Kundera có nhận xét, cái gì gì, "chúng ta có một đời để sống", nhảm. Một đời thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải qua. Luôn cả 1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời như thế, khủng nhất là cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….

Ui chao, Vargas Llosa cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả 1 cuốn tiểu thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái Nhĩ Lan.

Each one of us is, successively, not one but many. And these successive personalities that emerge one from the other tend to present the strangest, most astonishing contrasts among themselves.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                               -Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
“The Dream of the Celt” is a moral tale. It is about the choice between denial or denunciation in the face of evil, and the fine line between activism and fanaticism. That makes an old story strikingly contemporary.

 “Giấc mơ của tên Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện đạo đức. Đó là về sự chọn lựa giữa nói “Không” với cái Cái Ác Bắc Kít – hay là ị vào mặt Bắc Bộ Phủ như 1 bà nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm – và sợi dây mỏng dính, đẹp tuyệt vời, như sợi sữa, trong 1 bức danh họa,  (2) giữa hành động và cuồng tín.

Mỗi tên GCC trong chúng ta, là tiếp diễn của, không phải một, mà là nhiều tên GCC. Trong số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như thế đó, sẽ có 1 tên cực là khủng, chứa chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất, kinh ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.


Chắc là tên GCC làm trang Tin Văn?
Hay là tên chạy theo em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng Hòa, bên ngoài cổng trường Đại Học Khoa Học?
Hay là tên khóc thằng em trai, tử trận, khiến một em không làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!

(1)
Ui chao, đọc ba chớp ba nháng, as always, tưởng em không nỡ bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con khóc, khát sữa, đi lấy sữa cho con!

    Khiem Do
1 hr

các bạn hỏi mình về hưu sao ko ở cali hay paris?

mình sống giỏi là 20 năm nữa nhé, ko muốn mất 2 năm để lái xe ở cali hay 10 tháng của cuộc đời còn lại ở paris tìm
chỗ đỗ!

LikeShow more reactions
Comment
Comments
Tien Dang Sống, là mất thì giờ, Khiem Do
LikeShow more reactions
Reply 1 hr
Manage
Quynh Vu Ngoc Paris, bạn ơi.
LikeShow more reactions
Reply 1 hr



Note: Ng
ựa Hồ hí Gió Bắc, Hà Nội là tốt nhất!
Đừng nghĩ là Gấu chọc quê.
Me-xừ TYT đã từng phán như thế.

Tôi đứng nhìn sững hai vết hõm sâu hoắm lở lói trên mặt cổng thành. Cổng Bắc thành Hà Nội. Hai vết hõm như vết thương con thú bị đâm rồi kẻ đâm cứ thế chọc ngoáy cho đến khi con thú gầm thét rũ ra chết thảm. Con thú đây là thành Hà Nội và hai vết thương là vết đạn đại bác quân Pháp bắn vào trong lần chiếm thành lần thứ hai năm 1882. Quân Pháp, với chừng hai trăm lính thuỷ và vài trăm lính bộ, dưới quyền chỉ huy của Trung tá hạm trưởng Henri Rivière, chiếm thành sau gần ba giờ đồng hồ nã súng. Đọc sử, tôi biết như thế và đấy là trang sử bi thảm, đau buồn của dân tộc, bắt đầu cho nhiều trang sử đau buồn khác tiếp theo sau…. 

Với Hà Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có người bạn hỏi đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.” Không kịp suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
GCC c
ũng đã từng được BVVC "bạn văn VC" đề nghị, chọn quách 1 cái nhà gần nhà Nguyễn Huy Thiệp, dưỡng già!

Vả chăng "tìm chỗ đỗ", Nam Chi... chọn Hà Nội là đúng quá rồi!

Bất giác lại nhớ 1 em bướm Bắc Kít, lần đầu về Hà Nội, mắng Gấu, mi là thằng Nam Kít bày đặt nói giọng Bắc, cực tởm!

Lần đó, đúng là đi thăm Thánh Địa, vì bà cô của Gấu, người nuôi Gấu ăn học, ở Hà Nội, là 1 Me Tây!
NQT

Gấu có nhớ nhà không?
Gấu có nhớ xứ Đoài không?
Thư tín,

Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.

Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.
Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.

Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.

Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.


Note: SN Tám Bó, nhân K dịch Tuổi Thiên Tài, như 1 quà tặng GCC, và để cám ơn tất cả, GCC bèn đi 1 đường về Tuổi Thiên Đường, hay là "Những ngày ở Phố Hàng Lờ", Hà Nội.
Và cùng trong 1 dòng như vậy, Tin Văn đi thêm 1 bài essay, của Schulz, trong đó, ông trình bày nghệ thuật của ông, mà với nó, Tuổi Cô Đơn, mới cực kỳ quan trọng:

In a way these "stories" are real, represent my way of living, my personal fate. The overriding motif of this fate is profound loneliness, isolation from the stuff of daily life.
Loneliness is the catalyst that makes reality ferment, precipitates its surface layer of figures and colors.

Tuổi thiên đường

Nhà văn Nam Phi J. M. Coetzee, trong bài điểm cuốn tiểu sử nhà văn Ba Lan, Bruno Schulz (Regions of Great Heresy: Bruno Schulz, A Biographical Portrait, nguyên tác tiếng Balan của Jerzy Ficowski; Theodosia Robertson dịch qua tiếng Anh, nhà xb Norton, 255 trang, $25.95), đã kể ra, một trong những đam mê từ những ngày còn con nít của Bruno Schulz, là ngồi lê la trên sàn nhà, mải mê vẽ, hết bức họa này tới bức họa khác, trên những tờ báo cũ. Sau này, trong những chuyến di chuyển vào thế giới sáng tạo, chỉ là một đứa trẻ vẫn sống cái "tuổi thiên tài" (the age of genius), vẫn cố – một cách vô thức - tìm cách tiếp cận cõi huyền đó (the realm of myth). Và hình như, đây là người đàn ông mà đứa trẻ ngày xưa đã trở thành. Và tất cả những gì mà người đàn ông này hăm hở đòi cho được, chỉ là tái sở hữu những quyền năng đầu đời của mình, hay nói một cách khác, là để "trưởng thành ở trong tuổi thơ" ("mature into childhood").
 

          Lần trở về Hà Nội, thằng bé ngày xưa và là tui ngày nay, một ông già, cũng cố đòi cho được, không phải tuổi thiên tài như me-xừ Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên đường, sau bao phen dọ dẫm về nó.

Trong một lần dọ dẫm, tôi đã kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội học, nhờ có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa Đông Dương.

Tôi viết, làm me Tây, vì thực sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi Nhật chiếm Đông Dương, họ phải chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô tôi nói, cái ông Tây trẻ ở cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà, nhưng tình nghĩa những ngày hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn hơn bà tệ lắm cũng hơn chục tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm giá thú, để hoàn tất thủ tục nhập nước Pháp.

Cái villa mà hai ông Tây ở đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu khi nghe tôi hỏi thăm về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên khác, và rồi ông ghé sát tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ.

Ngày xưa, đứng trên đường Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một viện bảo sanh, bên trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma ám, cứ ngày xây, đêm đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai bên, tôi đều gây chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia đình nghèo, là một chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự trước, và khi xẩy chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.

Còn bên trái, là vào những ngày Hà Nội nhốn nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả một khu phố quanh hồ Hallais, ban ngày biến thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm. Đêm nào cũng nghe tiếng người la, Cướp, Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi kiếm một góc khuất khuất ở sân trước, để săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.

Đi đêm mãi có ngày gặp ma. Một bữa trộm vào nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường thấp, nơi tôi thường leo vô, mỗi lần trốn nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra là chúng chỉ mượn đường, để viếng nhà bảo sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy bà đẻ la, tôi giật mình chồm dậy, thấy mấy tên trộm đang leo tường ra ngoài đường. Đuổi theo, chúng làm rớt một chiếc bàn ủi, như để chia phần cho tôi.

Đúng là để gieo họa, bởi vì sáng hôm sau, mấy bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công nhìn sang thằng bé bằng những cặp mắt nghi kỵ. Thế là bà cô tôi tế cho một trận. Bà chửi cháu thì ít, nhưng hàng xóm thì nhiều. Sau thằng con ông chủ viện bảo sanh, hình như cũng học trường Nguyễn Trãi với tôi, nói cho ông bố biết, và ông sang tận nhà xin lỗi.
Bài học đầu tiên trong đời, do bà cô dậy, chớ ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang họa, tôi đã không học được, bởi vì, mãi sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập lại y chang sự ngu ngốc kể trên. Chuyện này, tôi đã kể trong truyện ngắn Lần Cuối, Sài Gòn. Nay xin trích đăng ở đây, để độc giả cười thêm một trận.

*

"Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em ngày sắp tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền).

Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonnard, nơi có bót Hàng Ken (1), chú bé di cư ngày nào ngơ ngác rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì tới mày, hả thằng con nít? Đồ Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen thành phố, được thời gian gọt rũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là chừng nào, trên khuôn mặt "cô bé". (2)

Trên khuôn mặt Sài Gòn.

 

Nguyễn Quốc Trụ

Chú thích:

(1) Bót Lê Văn Ken, như bạn Thảo Trường còn nhớ, và cho biết.
Tks. NQT
(2) BHD. Em không có nốt ruồi son mà là cái răng khểnh! 

Phố Hàng Lờ

Phải đến khi được vô xứ Nam Kỳ, rồi làm quen Huỳnh Phan Anh, những ngày làm trang văn nghệ của tờ Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, cùng với Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, thời gian đang học trường Quốc Gia Bưu Điện, cc 1958, 1959, lần lãnh nhuận bút đầu tiên, cả bọn kéo nhau lên xóm, hai thằng kia bỏ mặc Gấu ngồi bên ngoài, chúng vô liền bên trong, và Gấu còn lắc đầu, khi Má Mì hỏi, còn cậu, có đi không, và khi Gấu lắc đầu, tôi không “đi”, và vỡ ra liền tù tì, “đi” nghĩa là gì, và sau đó được 1 em dậy bài học thực hành, và nếu như thế, con đường để được chiêm ngưỡng bướm, đúng là chiều dài của xứ Mít!
Thì vẫn
giấc mơ của xứ Mít, giấc mơ cuốn tiểu thuyết đầu tay, nối liền hai thành phố, Hà Nội và Sài Gòn.
Vẫn còn nhớ, em vừa nói vừa mở hai cánh đùi ra, phải như thế này này....
Ôi chao, nhớ hoài!


Bruno Schulz

AN ESSAY FOR S. I. WITKIEWICZ
1935
The beginnings of my graphic work are lost in mythological twilight. Before I could even talk, I was already covering every scrap of paper and the margins of newspapers with scribbles that attracted the attention of those around me. At first they were all horses and wagons. The action of riding in a wagon seemed to me full of weight and arcane symbolism. From age six or seven there appeared and reappeared in my drawings the image of a cab, with a hood on top and lanterns blazing, emerging from a nocturnal forest. That image belongs to the basic material of my imagination; it is a kind of node to many receding series. To this day I have not exhausted its metaphysical content. To this day the sight of a carriage horse has lost none of its fascination and troubling power. Its schizoid anatomy; sprouting antlers, whorls, knotholes, outcroppings at every extremity, was arrested in its development, as it were, at a time when it still wanted to reproduce and branch into other forms. And the wagon is a schizoid structure, too, derived from the same anatomical principle – multi-articulated, fantastic, made up of sheet metal warped into flipper shapes, of horse hides and huge clattering wheels.
I don't know how we manage to acquire certain images in childhood that carry decisive meanings for us. They function like those threads in the solution around which the significance of the world crystallizes for us. Another of those images for me is that of a child carried by its father through the spaces of an overwhelming night, conducting a conversation with the darkness. The father caresses the child, folds him in his arms, shields him from the natural element that chatters on and on, but to the child these arms are transparent; the night cuts straight through them, and over the father's soothing words he hears its sinister blandishments without interruption. And oppressed, full of fatalism, he answers the night's importunities with tragic readiness, wholly surrendered to the mighty element from which there is no escape.
    There are texts that are marked out, made ready for us somehow, lying in wait for us at the very entrance to life. This is how I absorbed Goethe's ballad, with all its metaphysics, at age eight. Through the half-understood German I caught, or divined, the meaning, and cried, shaken to the bottom of my soul, when my mother read it to me.
    Such images amount to an agenda, establish an iron capital of the spirit, proffered to us very early in the form of forebodings and half-conscious experiences. It seems to me that all the rest of one's life is spent interpreting these insights, breaking them down to the last fragment of meaning we can master, testing them against the broadest intellectual spectrum we can manage. These early images mark out to artists the boundaries of their creative powers. The works they create represent drafts on existing balances. They do not discover anything new after that, they only learn how to understand better and better the secret entrusted to them at the outset; their creative effort goes into an unending exegesis, a commentary on that one couplet of poetry assigned to them. Art, for that matter, does not resolve that secret completely. The secret stays in a tangle. The knot the soul got itself tied up in is not a false one that comes undone when you pull the ends. On the contrary, it draws tighter. We handle it, trace the path of the separate threads, look for the end of the string, and out of these manipulations comes art.
    If I am asked whether the same thread recurs in my drawings as in my prose, I would answer in the affirmative. The reality is the same; only the frames are different. Here material and technique operate as the criterion of selection. A drawing sets narrower limits by its material than prose does. That is why I feel I have expressed myself more fully in my writing.
    The question of whether I'd be able to interpret the reality of Cinnamon Shops in philosophical terms is one I would much rather avoid. It is my opinion that rationalizing one's awareness of what inheres in a work of art is like unmasking actors, means the end of enjoyment and impoverishes the problems inherent in the work. The reason is not that art is a crossword puzzle with the key hidden, and philosophy the same crossword puzzle solved. The difference lies deeper than that. In a work of art the umbilical cord linking it with the totality of our concerns has not yet been severed, the blood of the mystery still circulates; the ends of the blood vessels vanish into the surrounding night and return from it full of dark fluid. A philosophical interpretation only gives us an anatomical sample dissected from the total body of the problems involved in the work. Just the same, I am curious how the philosophical credo of Cinnamon Shops would sound in the form of discourse. It would have to be an attempt to describe the reality given there rather than a justification of it.
    Cinnamon Shops offers a certain recipe for reality, posits a certain special kind of substance. The substance of that reality exists in a state of constant fermentation, germination, hidden life. It contains no dead, hard, limited objects. Everything diffuses beyond its borders, remains in a given shape only momentarily, leaving this shape behind at the first opportunity. A principle of sorts appears in the habits, the modes of existence of this reality: universal masquerade. Reality takes on certain shapes merely for the sake of appearance, as a joke or form of play. One person is a human, another is a cockroach, but shape does not penetrate essence, is only a role adopted for the moment, an outer skin soon to be shed. A certain extreme monism of the life substance is assumed here, for which specific objects are nothing more than masks. The life of the substance consists in the assuming and consuming of numberless masks. This migration of forms is the essence of life. Thus an all-pervading aura of irony emanates from this substance. There is an ever-present atmosphere of the stage, of sets viewed from behind, where the actors make fun of the pathos of their parts after stripping off their costumes. The bare fact of separate individual existences holds an irony, a hoax, a clown's stuck-out tongue. (Here, it seems to me, we have a point of contact between Cinnamon Shops and the world of your paintings and plays.)
    What the meaning of this universal disillusioning reality is I am not able to say. I maintain only that it would be unbearable unless it was compensated for in some other dimension. In some sense we derive a profound satisfaction from the loosening of the web of reality; we feel an interest in witnessing the bankruptcy of reality. There has been talk about the book's destructive tendency. From the viewpoint of certain established values, this may be true. But the work operates at a premoral depth, at a point where value is still in statu nascendi.
    As a spontaneous utterance of life, a work of art poses tasks for ethics, not the reverse. If art were merely to confirm what had already been established elsewhere, it would be superfluous. The role of art is to be a probe sunk into the nameless. The artist is an apparatus for registering processes in that deep stratum where value is formed. Destructive? But the fact that these contents express themselves as a work of art means that we affirm them, that our deep perception has spontaneously declared in their favor.
    To what genre does Cinnamon Shops belong? How should it be classified? I think of it as an autobiographical narrative. Not only because it is written in the first person and because certain events and experiences from the author's childhood can bediscerned in it. The work is an autobiography, or rather a spiritual genealogy, a genealogy par excellence in that it follows the spiritual family tree down to those depths where it merges into mythology, to be lost in the mutterings of mythological delirium. I have always felt that the roots of the individual spirit, traced far enough down, would be lost in some matrix of myth. This is the ultimate depth; it is impossible to reach farther down.
    I later found an imposing artistic realization of this idea in Thomas Mann's Joseph and His Brothers, where it is carried out on a monumental scale. Mann: shows that beneath all human events, when the chaff of time and individual variation is blown away, certain primeval patterns, "stories," are found, by which these events form and re-form in great repeating pulses. For Mann, these are the Biblical tales, the timeless myths of Babylon and Egypt. On my more modest scale I have attempted to uncover my own private mythology, my own "stories," my own mythic family tree. Just as the ancients traced their ancestry from mythical unions with gods, so I undertook to establish for myself some mythical generation of forebears, a fictitious family from which I trace my true descent.
    In a way these "stories" are real, represent my way of living, my personal fate. The overriding motif of this fate is profound loneliness, isolation from the stuff of daily life.
    Loneliness is the catalyst that makes reality ferment, precipitates its surface layer of figures and colors.

Translated by Walter Arndt and Victoria Nelson


FB lại bị error, không làm sao post hình được!

  *

hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn


và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn:  

Tuyệt!

Tks
NQT

Nhớ là Kundera có nhận xét, cái gì gì, "chúng ta có một đời để sống", nhảm. Một đời thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải qua. Luôn cả 1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời như thế, khủng nhất là cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….

Ui chao, Vargas Llosa cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả 1 cuốn tiểu thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái Nhĩ Lan.

Each one of us is, successively, not one but many. And these successive personalities that emerge one from the other tend to present the strangest, most astonishing contrasts among themselves.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                               -Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
“The Dream of the Celt” is a moral tale. It is about the choice between denial or denunciation in the face of evil, and the fine line between activism and fanaticism. That makes an old story strikingly contemporary.

 “Giấc mơ của tên Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện đạo đức. Đó là về sự chọn lựa giữa nói “Không” với cái Cái Ác Bắc Kít – hay là ị vào mặt Bắc Bộ Phủ như 1 bà nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm – và sợi dây mỏng dính, đẹp tuyệt vời, như sợi sữa, trong 1 bức danh họa,  (2) giữa hành động và cuồng tín.

Mỗi tên GCC trong chúng ta, là tiếp diễn của, không phải một, mà là nhiều tên GCC. Trong số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như thế đó, sẽ có 1 tên cực là khủng, chứa chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất, kinh ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.


Chắc là tên GCC làm trang Tin Văn?
Hay là tên chạy theo em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng Hòa, bên ngoài cổng trường Đại Học Khoa Học?
Hay là tên khóc thằng em trai, tử trận, khiến một em không làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!

(1)
Ui chao, đọc ba chớp ba nháng, as always, tưởng em không nỡ bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con khóc, khát sữa, đi lấy sữa cho con!

    Khiem Do
1 hr

các bạn hỏi mình về hưu sao ko ở cali hay paris?

mình sống giỏi là 20 năm nữa nhé, ko muốn mất 2 năm để lái xe ở cali hay 10 tháng của cuộc đời còn lại ở paris tìm
chỗ đỗ!

LikeShow more reactions
Comment
Comments
Tien Dang Sống, là mất thì giờ, Khiem Do
LikeShow more reactions
Reply 1 hr
Manage
Quynh Vu Ngoc Paris, bạn ơi.
LikeShow more reactions
Reply 1 hr



Note: Ng
ựa Hồ hí Gió Bắc, Hà Nội là tốt nhất!
Đừng nghĩ là Gấu chọc quê.
Me-xừ TYT đã từng phán như thế.

Tôi đứng nhìn sững hai vết hõm sâu hoắm lở lói trên mặt cổng thành. Cổng Bắc thành Hà Nội. Hai vết hõm như vết thương con thú bị đâm rồi kẻ đâm cứ thế chọc ngoáy cho đến khi con thú gầm thét rũ ra chết thảm. Con thú đây là thành Hà Nội và hai vết thương là vết đạn đại bác quân Pháp bắn vào trong lần chiếm thành lần thứ hai năm 1882. Quân Pháp, với chừng hai trăm lính thuỷ và vài trăm lính bộ, dưới quyền chỉ huy của Trung tá hạm trưởng Henri Rivière, chiếm thành sau gần ba giờ đồng hồ nã súng. Đọc sử, tôi biết như thế và đấy là trang sử bi thảm, đau buồn của dân tộc, bắt đầu cho nhiều trang sử đau buồn khác tiếp theo sau…. 

Với Hà Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có người bạn hỏi đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.” Không kịp suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
GCC c
ũng đã từng được BVVC "bạn văn VC" đề nghị, chọn quách 1 cái nhà gần nhà Nguyễn Huy Thiệp, dưỡng già!

Vả chăng "tìm chỗ đỗ", Nam Chi... chọn Hà Nội là đúng quá rồi!

Bất giác lại nhớ 1 em bướm Bắc Kít, lần đầu về Hà Nội, mắng Gấu, mi là thằng Nam Kít bày đặt nói giọng Bắc, cực tởm!

Lần đó, đúng là đi thăm Thánh Địa, vì bà cô của Gấu, người nuôi Gấu ăn học, ở Hà Nội, là 1 Me Tây!
NQT

Gấu có nhớ nhà không?
Gấu có nhớ xứ Đoài không?
Thư tín,

Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.

Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.
Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.

Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.

Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.


Note: SN Tám Bó, nhân K dịch Tuổi Thiên Tài, như 1 quà tặng GCC, và để cám ơn tất cả, GCC bèn đi 1 đường về Tuổi Thiên Đường, hay là "Những ngày ở Phố Hàng Lờ", Hà Nội.
Và cùng trong 1 dòng như vậy, Tin Văn đi thêm 1 bài essay, của Schulz, trong đó, ông trình bày nghệ thuật của ông, mà với nó, Tuổi Cô Đơn, mới cực kỳ quan trọng:

In a way these "stories" are real, represent my way of living, my personal fate. The overriding motif of this fate is profound loneliness, isolation from the stuff of daily life.
Loneliness is the catalyst that makes reality ferment, precipitates its surface layer of figures and colors.

Tuổi thiên đường

Nhà văn Nam Phi J. M. Coetzee, trong bài điểm cuốn tiểu sử nhà văn Ba Lan, Bruno Schulz (Regions of Great Heresy: Bruno Schulz, A Biographical Portrait, nguyên tác tiếng Balan của Jerzy Ficowski; Theodosia Robertson dịch qua tiếng Anh, nhà xb Norton, 255 trang, $25.95), đã kể ra, một trong những đam mê từ những ngày còn con nít của Bruno Schulz, là ngồi lê la trên sàn nhà, mải mê vẽ, hết bức họa này tới bức họa khác, trên những tờ báo cũ. Sau này, trong những chuyến di chuyển vào thế giới sáng tạo, chỉ là một đứa trẻ vẫn sống cái "tuổi thiên tài" (the age of genius), vẫn cố – một cách vô thức - tìm cách tiếp cận cõi huyền đó (the realm of myth). Và hình như, đây là người đàn ông mà đứa trẻ ngày xưa đã trở thành. Và tất cả những gì mà người đàn ông này hăm hở đòi cho được, chỉ là tái sở hữu những quyền năng đầu đời của mình, hay nói một cách khác, là để "trưởng thành ở trong tuổi thơ" ("mature into childhood").
 

          Lần trở về Hà Nội, thằng bé ngày xưa và là tui ngày nay, một ông già, cũng cố đòi cho được, không phải tuổi thiên tài như me-xừ Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên đường, sau bao phen dọ dẫm về nó.

Trong một lần dọ dẫm, tôi đã kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội học, nhờ có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa Đông Dương.

Tôi viết, làm me Tây, vì thực sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi Nhật chiếm Đông Dương, họ phải chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô tôi nói, cái ông Tây trẻ ở cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà, nhưng tình nghĩa những ngày hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn hơn bà tệ lắm cũng hơn chục tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm giá thú, để hoàn tất thủ tục nhập nước Pháp.

Cái villa mà hai ông Tây ở đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu khi nghe tôi hỏi thăm về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên khác, và rồi ông ghé sát tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ.

Ngày xưa, đứng trên đường Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một viện bảo sanh, bên trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma ám, cứ ngày xây, đêm đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai bên, tôi đều gây chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia đình nghèo, là một chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự trước, và khi xẩy chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.

Còn bên trái, là vào những ngày Hà Nội nhốn nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả một khu phố quanh hồ Hallais, ban ngày biến thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm. Đêm nào cũng nghe tiếng người la, Cướp, Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi kiếm một góc khuất khuất ở sân trước, để săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.

Đi đêm mãi có ngày gặp ma. Một bữa trộm vào nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường thấp, nơi tôi thường leo vô, mỗi lần trốn nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra là chúng chỉ mượn đường, để viếng nhà bảo sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy bà đẻ la, tôi giật mình chồm dậy, thấy mấy tên trộm đang leo tường ra ngoài đường. Đuổi theo, chúng làm rớt một chiếc bàn ủi, như để chia phần cho tôi.

Đúng là để gieo họa, bởi vì sáng hôm sau, mấy bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công nhìn sang thằng bé bằng những cặp mắt nghi kỵ. Thế là bà cô tôi tế cho một trận. Bà chửi cháu thì ít, nhưng hàng xóm thì nhiều. Sau thằng con ông chủ viện bảo sanh, hình như cũng học trường Nguyễn Trãi với tôi, nói cho ông bố biết, và ông sang tận nhà xin lỗi.
Bài học đầu tiên trong đời, do bà cô dậy, chớ ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang họa, tôi đã không học được, bởi vì, mãi sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập lại y chang sự ngu ngốc kể trên. Chuyện này, tôi đã kể trong truyện ngắn Lần Cuối, Sài Gòn. Nay xin trích đăng ở đây, để độc giả cười thêm một trận.

*

"Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em ngày sắp tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền).

Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonnard, nơi có bót Hàng Ken (1), chú bé di cư ngày nào ngơ ngác rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn bạt tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì tới mày, hả thằng con nít? Đồ Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen thành phố, được thời gian gọt rũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là chừng nào, trên khuôn mặt "cô bé". (2)

Trên khuôn mặt Sài Gòn.

 

Nguyễn Quốc Trụ

Chú thích:

(1) Bót Lê Văn Ken, như bạn Thảo Trường còn nhớ, và cho biết.
Tks. NQT
(2) BHD. Em không có nốt ruồi son mà là cái răng khểnh! 

Phố Hàng Lờ

Phải đến khi được vô xứ Nam Kỳ, rồi làm quen Huỳnh Phan Anh, những ngày làm trang văn nghệ của tờ Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, cùng với Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, thời gian đang học trường Quốc Gia Bưu Điện, cc 1958, 1959, lần lãnh nhuận bút đầu tiên, cả bọn kéo nhau lên xóm, hai thằng kia bỏ mặc Gấu ngồi bên ngoài, chúng vô liền bên trong, và Gấu còn lắc đầu, khi Má Mì hỏi, còn cậu, có đi không, và khi Gấu lắc đầu, tôi không “đi”, và vỡ ra liền tù tì, “đi” nghĩa là gì, và sau đó được 1 em dậy bài học thực hành, và nếu như thế, con đường để được chiêm ngưỡng bướm, đúng là chiều dài của xứ Mít!
Thì vẫn
giấc mơ của xứ Mít, giấc mơ cuốn tiểu thuyết đầu tay, nối liền hai thành phố, Hà Nội và Sài Gòn.
Vẫn còn nhớ, em vừa nói vừa mở hai cánh đùi ra, phải như thế này này....
Ôi chao, nhớ hoài!


Bruno Schulz

AN ESSAY FOR S. I. WITKIEWICZ
1935
The beginnings of my graphic work are lost in mythological twilight. Before I could even talk, I was already covering every scrap of paper and the margins of newspapers with scribbles that attracted the attention of those around me. At first they were all horses and wagons. The action of riding in a wagon seemed to me full of weight and arcane symbolism. From age six or seven there appeared and reappeared in my drawings the image of a cab, with a hood on top and lanterns blazing, emerging from a nocturnal forest. That image belongs to the basic material of my imagination; it is a kind of node to many receding series. To this day I have not exhausted its metaphysical content. To this day the sight of a carriage horse has lost none of its fascination and troubling power. Its schizoid anatomy; sprouting antlers, whorls, knotholes, outcroppings at every extremity, was arrested in its development, as it were, at a time when it still wanted to reproduce and branch into other forms. And the wagon is a schizoid structure, too, derived from the same anatomical principle – multi-articulated, fantastic, made up of sheet metal warped into flipper shapes, of horse hides and huge clattering wheels.
I don't know how we manage to acquire certain images in childhood that carry decisive meanings for us. They function like those threads in the solution around which the significance of the world crystallizes for us. Another of those images for me is that of a child carried by its father through the spaces of an overwhelming night, conducting a conversation with the darkness. The father caresses the child, folds him in his arms, shields him from the natural element that chatters on and on, but to the child these arms are transparent; the night cuts straight through them, and over the father's soothing words he hears its sinister blandishments without interruption. And oppressed, full of fatalism, he answers the night's importunities with tragic readiness, wholly surrendered to the mighty element from which there is no escape.
    There are texts that are marked out, made ready for us somehow, lying in wait for us at the very entrance to life. This is how I absorbed Goethe's ballad, with all its metaphysics, at age eight. Through the half-understood German I caught, or divined, the meaning, and cried, shaken to the bottom of my soul, when my mother read it to me.
    Such images amount to an agenda, establish an iron capital of the spirit, proffered to us very early in the form of forebodings and half-conscious experiences. It seems to me that all the rest of one's life is spent interpreting these insights, breaking them down to the last fragment of meaning we can master, testing them against the broadest intellectual spectrum we can manage. These early images mark out to artists the boundaries of their creative powers. The works they create represent drafts on existing balances. They do not discover anything new after that, they only learn how to understand better and better the secret entrusted to them at the outset; their creative effort goes into an unending exegesis, a commentary on that one couplet of poetry assigned to them. Art, for that matter, does not resolve that secret completely. The secret stays in a tangle. The knot the soul got itself tied up in is not a false one that comes undone when you pull the ends. On the contrary, it draws tighter. We handle it, trace the path of the separate threads, look for the end of the string, and out of these manipulations comes art.
    If I am asked whether the same thread recurs in my drawings as in my prose, I would answer in the affirmative. The reality is the same; only the frames are different. Here material and technique operate as the criterion of selection. A drawing sets narrower limits by its material than prose does. That is why I feel I have expressed myself more fully in my writing.
    The question of whether I'd be able to interpret the reality of Cinnamon Shops in philosophical terms is one I would much rather avoid. It is my opinion that rationalizing one's awareness of what inheres in a work of art is like unmasking actors, means the end of enjoyment and impoverishes the problems inherent in the work. The reason is not that art is a crossword puzzle with the key hidden, and philosophy the same crossword puzzle solved. The difference lies deeper than that. In a work of art the umbilical cord linking it with the totality of our concerns has not yet been severed, the blood of the mystery still circulates; the ends of the blood vessels vanish into the surrounding night and return from it full of dark fluid. A philosophical interpretation only gives us an anatomical sample dissected from the total body of the problems involved in the work. Just the same, I am curious how the philosophical credo of Cinnamon Shops would sound in the form of discourse. It would have to be an attempt to describe the reality given there rather than a justification of it.
    Cinnamon Shops offers a certain recipe for reality, posits a certain special kind of substance. The substance of that reality exists in a state of constant fermentation, germination, hidden life. It contains no dead, hard, limited objects. Everything diffuses beyond its borders, remains in a given shape only momentarily, leaving this shape behind at the first opportunity. A principle of sorts appears in the habits, the modes of existence of this reality: universal masquerade. Reality takes on certain shapes merely for the sake of appearance, as a joke or form of play. One person is a human, another is a cockroach, but shape does not penetrate essence, is only a role adopted for the moment, an outer skin soon to be shed. A certain extreme monism of the life substance is assumed here, for which specific objects are nothing more than masks. The life of the substance consists in the assuming and consuming of numberless masks. This migration of forms is the essence of life. Thus an all-pervading aura of irony emanates from this substance. There is an ever-present atmosphere of the stage, of sets viewed from behind, where the actors make fun of the pathos of their parts after stripping off their costumes. The bare fact of separate individual existences holds an irony, a hoax, a clown's stuck-out tongue. (Here, it seems to me, we have a point of contact between Cinnamon Shops and the world of your paintings and plays.)
    What the meaning of this universal disillusioning reality is I am not able to say. I maintain only that it would be unbearable unless it was compensated for in some other dimension. In some sense we derive a profound satisfaction from the loosening of the web of reality; we feel an interest in witnessing the bankruptcy of reality. There has been talk about the book's destructive tendency. From the viewpoint of certain established values, this may be true. But the work operates at a premoral depth, at a point where value is still in statu nascendi.
    As a spontaneous utterance of life, a work of art poses tasks for ethics, not the reverse. If art were merely to confirm what had already been established elsewhere, it would be superfluous. The role of art is to be a probe sunk into the nameless. The artist is an apparatus for registering processes in that deep stratum where value is formed. Destructive? But the fact that these contents express themselves as a work of art means that we affirm them, that our deep perception has spontaneously declared in their favor.
    To what genre does Cinnamon Shops belong? How should it be classified? I think of it as an autobiographical narrative. Not only because it is written in the first person and because certain events and experiences from the author's childhood can bediscerned in it. The work is an autobiography, or rather a spiritual genealogy, a genealogy par excellence in that it follows the spiritual family tree down to those depths where it merges into mythology, to be lost in the mutterings of mythological delirium. I have always felt that the roots of the individual spirit, traced far enough down, would be lost in some matrix of myth. This is the ultimate depth; it is impossible to reach farther down.
    I later found an imposing artistic realization of this idea in Thomas Mann's Joseph and His Brothers, where it is carried out on a monumental scale. Mann: shows that beneath all human events, when the chaff of time and individual variation is blown away, certain primeval patterns, "stories," are found, by which these events form and re-form in great repeating pulses. For Mann, these are the Biblical tales, the timeless myths of Babylon and Egypt. On my more modest scale I have attempted to uncover my own private mythology, my own "stories," my own mythic family tree. Just as the ancients traced their ancestry from mythical unions with gods, so I undertook to establish for myself some mythical generation of forebears, a fictitious family from which I trace my true descent.
    In a way these "stories" are real, represent my way of living, my personal fate. The overriding motif of this fate is profound loneliness, isolation from the stuff of daily life.
    Loneliness is the catalyst that makes reality ferment, precipitates its surface layer of figures and colors.

Translated by Walter Arndt and Victoria Nelson

MILONGA OF
THE TWO BROTHERS


Let the guitar bring us tales
Of when the knives used to flash,
Tales of gambling and of dice,
Horse races and hard drinking,
Tales of the Costa Brava
And of the old Drovers' Trail.

A story of yesterday
Of appeal to all comers;
No deals can be made with fate,
So no one should reproach it-
I'm aware now that tonight
Memories come from the South.

Gentlemen, here's the story
Of the Iberra brothers-
Men of loving and fighting,
The first to rush to danger,
Flower of all knife fighters,
And now they're six feet under.

Things like pride and avarice
Always lead a man astray;
Courage will also corrupt
If pursued both night and day.
The younger of the two had
More killings to his credit.

When Juan Iberra noticed
The younger was way ahead,
His patience reached its limit
And he set a trap for him.
Laid him dead with a bullet
There on the Costa Brava.

So in a truthful manner
I've told the tale to its end;
It is the story of Cain
Who goes on killing Abel.
[Norman Thomas di Giovanni]

J.J. Borges

Note: Milonga là 1 điệu nhảy tiền thân của tango

Bài Milonga về Cain làm thịt Abel

Hãy để cho cây đàn guitar tấu,
Chuyện ngọn dao loé lên
Chuyện Trường Sơn ào ào lá đỏ
Đường ra trận mùa này đẹp lắm

Một câu chuyện của ngày hôm qua
Không có mà cả nào mà không có bàn tay của số mệnh
Bởi thế, đừng trách móc, đổ vạ –
Gấu bèn “trải lòng” ra đêm nay,
Những hồi ức, kỷ niệm
Đến từ Phiá Nam.

Hỡi những vì phong nhã, trong và ngoài nước,
Đây là câu chuyện
Của hai anh em thằng cu Mít
Những tên đàn ông của yêu đương và chém lộn
Những kẻ đầu tiên lao vào hiểm nguy
Bông hoa của tất cả những cuộc chiến đấu kẻ thù nào cũng đánh thắng!
Và bây giờ chúng đều ngỏm củ tỏi!

Những điều như kiêu hãnh và hám lợi
Luôn làm con người lầm lạc
Can đảm cũng làm ung thối
Nếu ngày đêm ăn nằm với nó
Thằng em coi bộ bảnh
So với thằng anh.

Khi Cu Mít Anh nhận thấy
Cu Mít Em tính làm tới
Hắn hết chịu nổi
Bèn đặt 1 cái bẫy
Và để cho thằng em chết, với viên đạn
Ở trên Đỉnh Trường Sơn
Hay Đèo Charlie?

Như thế,
Một cách chân thực
Gấu kể câu chuyện cho tới kết cục của nó:
Đây là câu chuyện Thằng Anh Bắc Kít
Xẻ dọc Trường Sơn cái con mẹ gì đó
Đi làm thịt Thằng Em Nam Kít!


Bruno Schulz

MILONGA OF
THE TWO BROTHERS


Let the guitar bring us tales
Of when the knives used to flash,
Tales of gambling and of dice,
Horse races and hard drinking,
Tales of the Costa Brava
And of the old Drovers' Trail.

A story of yesterday
Of appeal to all comers;
No deals can be made with fate,
So no one should reproach it-
I'm aware now that tonight
Memories come from the South.

Gentlemen, here's the story
Of the Iberra brothers-
Men of loving and fighting,
The first to rush to danger,
Flower of all knife fighters,
And now they're six feet under.

Things like pride and avarice
Always lead a man astray;
Courage will also corrupt
If pursued both night and day.
The younger of the two had
More killings to his credit.

When Juan Iberra noticed
The younger was way ahead,
His patience reached its limit
And he set a trap for him.
Laid him dead with a bullet
There on the Costa Brava.

So in a truthful manner
I've told the tale to its end;
It is the story of Cain
Who goes on killing Abel.
[Norman Thomas di Giovanni]

J.J. Borges

Note: Milonga là 1 điệu nhảy tiền thân của tango

Bài Milonga về Thằng Anh Bắc Kít - Cain - làm thịt Thằng Em Nam Bộ -Abel

Nhạc Đỏ

Chuyên gia làm xúc xích lịch sử
Thứ máu me
Tất cả các bạn được dân làng chào đón
Nơi, chó sủa trăng,
Là vị thi sĩ độc nhất

Ô Hoàng Đế Ơ Đíp, Ô Hoàng Tử Hâm Liệt
Rớt như ruồi
Lên nồi xúp cải
Đừng dùng cùi chỏ đập
Hay le lưỡi liếm

Nhện mặt Chúa trên tường
Chiều tối làm tối thui
Gấu trải qua thời thơ ấu
Trên cây thập tự
Ở một cái sân cỏ tùm lum
Bướm trắng
Gà trắng 

FOLK SONGS
Sausage-makers of History,
The bloody kind,
You all hail from a village
Where the dog barking at the moon
Is the only poet.
*
O King Oedipus, O Hamlet,
Fallen like flies
In the pot of cabbage soup,
No use beating with your fists,
Or sticking your tongues out.
*
Christ-faced spider on the wall
Darkened by evening shadows,
I spent my childhood on a cross
In a yard full of weeds,
White butterflies, and white chickens.

PENAL ARCHITECTURE

School, prison, state orphanage,
I walked your gray hallways,
Stood in your darkest corners
With my face to the wall.

The murderer sat in the front row.
A mad little Ophelia
Wrote the date on the blackboard.
The executioner was my best friend.
He already wore black.

Cracked, peeling walls
With every window barred,
Not even a naked lightbulb
For the boy left in the solitary
And the old master
Putting on his eyeglasses.

In that room with its red sunsets,
It was eternity's turn to speak,
So we listened breathlessly
Even though our hearts
Were made of stone.

Kiến Trúc Hoả Lò

Trường học, nhà tù, cô nhi viện “nhà lước”
Gấu rảo qua những hành lang xám của các bạn
Đứng ở góc tối nhất
Đối mặt với tường

HPNT ngồi ở dẫy thứ nhất
Một cô bé Ophelia khùng
Ghi ngày tháng lên tấm bảng đen
Tên đao phủ, HPNT, ư?
Bạn quý nhất của Gấu Cà Chớn!
NXH, HPA, NDT, ba thứ đồ bỏ, so với anh!
Bạn quí của quí – cái này thuổng Minh Ngọc, đã từng gọi Gấu Cái là, "Gấu của Gấu" –
Đã chơi 1 bộ đồ đen tuyền rồi!

Tường nứt, loang lổ
Cửa sổ nào thì cũng thanh sắt, hoặc, dây kẽm gai
Không 1 bóng đèn nào để trần
Cho 1 đứa bé nào bị bỏ mặc một mình
Và ông thầy già
Thì đã chơi cặp kiếng.

Trong căn phòng với hoàng hôn đỏ rực
Đã đến lượt vĩnh cửu lên tiếng
[Cái gì gì, Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!]
Thế là cả bọn, im thin thít, nín cả thở
Ngay cả trái tim của lũ Ngụy
Thì cũng biến thành đá!

Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Note: Câu chót, có sửa chút đỉnh, không đúng ý nguyên tác.

Comments
LikeShow more reactions
Reply
1
5 hrs
Manage
Quoc Tru Nguyen Câu chót có sửa chút đỉnh. Trong nguyên tác, tên sát nhân và đao phủ là hai người khác nhau. Trong bản "lộng dịch", cả hai là 1, theo ý của Kundera.
Trong thời kinh hoàng, Văn Cao đóng hai vai, vừa là thi sĩ, vừa là đao phủ.
Cũng thế, HPNT. Sợ HPNT bảnh hơn Văn Cao.  

« Ce n'était pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau ".

Đâu chỉ là thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm, mà còn là thời của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm.

Thời Của Văn Cao: Thi sĩ lên ngôi trị vì cùng với đao phủ.

LikeShow more reactions
Reply 5 hrs
Manage
Trieu Duong 2 poems as things shift from black-and-white to red-vs-grim-black
LikeShow more reactions
Reply
1
2 hrs
Manage
Quoc Tru Nguyen Tks All. Dịch thần sầu. Bảnh hơn nguyên tác, theo Borges. Mô phỏng Tổ quốc ơi ăn khoai mì chán quá vs Tổ quốc ơi ta yêu người mãi mãi!
LikeShow more reactions
Reply22 mins

Cái giả bảnh hơn cái thực. Bạn có thể nói như thế, cũng được.
Nhìn xuyên suốt lịch sử Mít, thì nó đúng là như thế. Bao nhiêu cái đẹp, cái lý tưởng, cái giấc mộng tuyệt vời của cái giống Mít, được Vẹm dùng làm mồi nhử cả lũ Mít, đưa đến 1 đất nước như hiện nay.

Mới bệ tờ Người Kinh Tế, số mới nhất, điểm cuốn The Unwomanly Face of War, của nhà văn Nobel Svetlana Alexievic, thần sầu, và đụng đúng tim đen của lũ Vẹm.
Chúng cố tình vờ vĩnh, lầm cái giả với cái thực.
Ngay tên già NN, khoe dịch cuốn đó, đọc cuốn đó từ hồi nảo hồi nào, thì cũng khốn nạn y chang.
Tên này khoe cởi mặt nạ nhìn tên cựu binh Mẽo, nhưng chưa hề dám cởi mặt nạ nhìn 1 tên Ngụy.
Chưa hề có 1 tên VC nào dám thú nhận, chúng lầm cả.

Tin Văn sẽ có bản tiếng Việt liền tù tì

Memory as a weapon
Remembering the Great Patriotic War was a political act
Svetlana Alexievich’s “The Unwomanly Face of War” was part of a peculiarly Soviet debate about the past
https://www.economist.com/news/books-and-arts/21725273-svetlana-alexievichs-unwomanly-face-war-was-part-peculiarly-soviet-debate


Tác giả cuốn sách, tức Bà Nobel, chửi thẳng tên già NN, khi tên này vinh danh Uỷ Ban Nobel, cho 1 tác giả phi hư cấu. Bà viết, ta đếch cần 1 sự sắp loại, gọi tên: Her work has been called journalism, or history, but it defies easy classification.
Tài năng lớn alo nhất của bà có thể không phải là viết, nhưng mà là lắng nghe và cho người chứng nói. Cuốn sách có hơn 200 giọng. Tuy nhiên nó được lọc bằng cái tai người, yet, filtered by the human ear.
Câu viết này chửi bố lũ Vẹm: The fight for memory began as soon as the war stopped.
Cuộc chiến Mít chấm dứt hơn 40 năm rồi, cuộc chiến, the fight, hồi ức, chưa hề có! 
Vẫn 1 thứ nhơ bửn vinh danh ca ngợi.
Quá lắm thì cởi mặt nạ nhìn kẻ thù cũ, Yankee mũi tẹt NN cởi mặt nạ nhìn 1 tên Yankee mũi lõ, cựu thù.
Đâu có dám nhìn 1 tên Ngụy!



SN_GCC_201



SN_GCC_2017

&
Bruno Schulz


Quà Sinh Nhật sớm đến GNV .

Văn của Schulz khó dịch quá, không những vì chữ dùng, ý tưởng mà luôn cả cách sắp xếp câu văn thật là khác với văn Việt . Câu nào cũng là câu so sánh cái này với cái khác, có khi so sánh hai ba tầng . Hèn gì bà Zofia Nalkowska cả buổi chiều mà chỉ đọc xong 30 trang còn chưa hiểu hết !!! Có những đoạn K phải dịch xong rồi để đó, chừng hôm sau mới quay lại đọc cả phần nguyên tác lẫn phần dịch soát lại . Có lúc phải ngừng giữa câu, đứng lên đi một vòng ra sân rồi mới ngồi xuống làm việc tiếp. Vấn đề không phải không hiểu ý trong câu, mà không biết làm sao dịch cho gọn và chính xác .
Chọn bài này vì cái tựa đề của nó là August cho đúng Tháng Tám, chứ thực tình, truyện này rừng rực nóng bỏng quá, không hợp với lối viết của K . Sau bài này phải kiếm một bài khác dễ nuốt hơn .

Happy 80th Birthday .

K

"Parfois il écrivait comme Kafka, parfois comme Proust, et il a fini par atteindre des profondeurs auxquelles ni l'un ni l'autre n'avaient accédé.”
“Đôi khi ông ta viết như Kafka, đôi khi như Proust, và sau cùng ông đạt tới những chiều sâu mà cả hai ông kia, chẳng ai đạt tới”



The Street of Crocodiles
First edition

Ôi chao, nhớ ra rồi, Gấu đọc Coetzee, biết tới Schulz, rồi khám phá ra 1 điều thật là tuyệt vời về tác giả Cô Gái Treo Mùng, tức Hoàng Ngọc Tuấn.

HNT rất giống Schulz, [đọc Tuổi thiên tài], ở đời thường, khoan nói chuyện văn chương, nghệ thuật. Cả hai đều khốn khổ khốn nạn, sinh ra đời là đã chỉ muốn xin lỗi cuộc đời, xin lỗi, tớ tới nhầm chỗ, đúng ra tớ không nên bò ra cõi đời này!



Bruno Schulz 
(1892-1942)

Born in Drohobycz, a town not far from Lvov, a place that had its moment of economic boom (with petrol) but then slumbered in the reminiscences of past glory, Bruno Schulz made his living as a modest art teacher at a local high school. The publication of his prose made him well known, however, and he suddenly found himself among the elite of Polish writers. He traveled to Warsaw and attracted many admirers-some of whom would later become apostles of his work (Jerzy Ficowski, for instance, would become the future editor of Schulz's letters and a great connoisseur of his oeuvre).
    The fantastic world of Schulz's prose, his lush poetic language, the slowness and improbability of his narration, set him radically apart from other fiction writers. His is the narration of a poet, of a painter (or draftsman) who is more interested in the act of displaying his unique props than in efficient storytelling. His writing polarizes readers; you can only worship or reject him-no leafing through his books is possible.
His tragic death in the Drohobycz ghetto-he was Jewish-at the hand of an SS man occurred apparently on the eve of Schulz's planned escape. This death was turned into a spiritual victory by those who spent their lives saving Schulz's work from oblivion. One of the most relevant programmatic texts written by Schulz was a result of a half-humorous, half-serious exchange of letters with Witold Gombrowicz. In this chapter we include both Gornbrowicz's provocative note and Schulz's response.

AZ: Polish Writers on Writing

Sinh tại Drohobycz, một thành phố không xa Lvov, 1 nơi chốn đã có 1 thời thịnh vượng nhờ dầu hoả, nhưng sau tàn lụi, Bruno Schulz sống khiêm tốn bằng nghề dạy vẽ tại 1 trường trung học địa phương. Ông cho in thơ, và nổi tiếng, và bất thình lình thấy mình ở trong giới tinh anh nhà văn Ba Lan. Ông du lịch Warsaw và có cả 1 mớ những người ái mộ mình, và một số trong họ, sau trở thành những tông đồ của tác phẩm của ông (Jerzy Ficowski, thí dụ, trở thành người biên tập tương lai của những thư từ của Schulz và là 1 tay thật sành điệu về tác phẩm của ông.
Cái sự kỳ quái của văn xuôi, cái ngôn ngữ thơ đầy men say, đầy nhựa sống, cái sự chậm rề rề và không ra làm sao, không chắc xẩy ra, không chắc thực… của cung cách tự sự, dòng kể…. khiến Schulz tách hẳn ra, 1 cách thật là triệt để, với những nhà văn giả tưởng khác. Ông là 1 cách kể của thi sĩ, của họa sĩ (hay của draftsman, kẻ phác hoạ, phác thảo), người quan tâm nhiều đến “tuồng ảo hoá đã bày ra đó”, sự bày biện độc nhất vô nhị của riêng ông – hơn là hiệu ứng của câu chuyện kể. Cách kể của ông phân cực người đọc - bạn chỉ có thể thờ phụng, hoặc đá cho ông ta 1 phát – vô phương chôm chĩa, bắt chước, mô phỏng.
Cái chết bi thương của ông ở ghetto – ông là Do Thái - ở 1 tay SS có vẻ như xẩy ra vào đúng đêm trước ngày hôm sau ông tính tẩu thoát. Cái chết của ông, hoá ra lại trở thành một chiến thắng tinh thần của những người trải qua đời họ để cứu tác phẩm của ông thoát khỏi tiêu trầm, quên lãng. Một trong những bản văn có tính “chương trình thích đáng” nhất, do ông viết, là hiệu quả của 1 cuộc trao đổi thư từ, nửa tiếu lâm, nửa nghiêm trọng, giữa ông, và Witold Gombrowicz. Chúng tôi cho in trong chương này, cái note, và câu trả lời gay cấn & gây hấn, của cả hai.
   
THE MYTHOLOGIZING OF REALITY

1936

The essence of reality is Meaning or Sense. What lacks Sense is, for us, not reality. Every fragment of reality lives by virtue of partaking in a universal Sense. The old cosmogonists expressed this by the statement, "In the Beginning was the Word." The nameless does not exist for us. To name something means to include it in some universal Sense. The isolated word as a mosaic piece is a late product, an early result of technology. The primeval word was a shimmering 'aura circling around the sense of the world, was a great universal whole. The word in its common usage today is only a fragment, remnant of some former all-embracing, integral mythology. That is why it possesses a tendency to grow back, to regenerate and complete itself in full meaning. The life of the word consists in tensing and stretching itself toward a thousand connections, like the cut-up snake in the legend whose pieces search for each other in the dark. This thousand-formed but integral organism of the word was torn apart into syllables, sounds, everyday speech; and in these new forms, adapted to practical needs, it was handed down to us as a handy code of communication. In this way the life of the word, its development, was shunted onto a new track, the track of mundane life, and subjected to new rules of order. But if for some cause the restrictions of pragmatic reality loosen their grip, if the word, released from its restraint, is left to itself and restored to its own laws, then a regression, a reversal of current, occurs; the word strives for is former connections, wants to complete itself with Sense. And this striving of the word toward its matrix, its yearning for the primeval home of words, we call poetry.
    Poetry happens when short-circuits of sense occur between words, a sudden regeneration of the primeval myths.
    As we manipulate everyday words, we forget that they are fragments of lost but eternal stories, that we are building our houses with broken pieces of sculptures and ruined statues of gods as the barbarians did. Even the soberest of our notions and categories are remote derivatives of myths and ancient oral epics. Not one scrap of an idea of ours does not originate in myth, isn't transformed, mutilated, denatured mythology. The most fundamental function of the spirit is inventing fables, creating tales. The driving force of human knowledge is the conviction that at the end of its researches the sense of the world, the meaning of life, will be found. It seeks out sense at the very top of its scaffoldings and artificial stackings of level upon level. Yet the building materials it uses were used once before; they come from forgotten, fragmented tales or "histories." Poetry recognizes these lost meanings, restores words to their places, connects them by the old semantics. In the poet's mind, the word remembers, so to speak, its essential meaning, blossoms, unfolds spontaneously according to its own inner laws, regains its wholeness. Thus all poetry is mythologizing and strives to restore myths to the world. The mythologizing of the world is not over yet; the process was only halted by the development of knowledge, scientia, diverted into a side channel where it courses on without understanding its identity. But science, too, only fabricates its own world myth because myth is embodied in the very elements themselves, and there is no way going beyond myth. Poetry reaches the meaning of the world intuitively, deductively, with large, daring shortcuts and approximations. Knowledge seeks the same meaning inductively, methodically, taking into account all the materials of experience. Fundamentally, one and the other are bound for the same goal.
    The human spirit is indefatigable in supplying glosses to life by means of myths, in "making sense" of reality. The word itself, left to its own devices, gravitates toward sense.
    Sense is the element that involves mankind in the process of realization. It is an absolute given that cannot be derived from other givens. Therefore what makes sense to us cannot be defined. The process of imparting meaning to the world is closely bound up with the word. Language is man's metaphysical organ. Nonetheless, in the course of time the word becomes static and rigid, stops being the conductor of new meanings. The poet restores conductivity to words by new quasi-electric tensions that are produced by an accumulation of charges. Mathematical symbols are the extensions of the word into new realms. The image, too, derives from the primal word, the word that was not yet a sign but myth, story, sense.
    We usually regard the word as the shadow of reality, its symbol. The reverse of this statement would be more correct: reality is the shadow of the word. Philosophy is actually philology, the deep, creative exploration of the word.
Bruno Schulz
Translated by Walter Arndt and Victoria Nelson

Tuổi Thiên tài : Một truyền thuyết về Schulz  ( David Grossman / Đặng Lệ Khánh)

Từ khi tôi biết mình sẽ trở thành một nhà văn, tôi cũng biết rằng tôi sẽ viết về Lò Thiêu. Càng lớn, tôi càng vững tin rằng tôi sẽ không thể hiểu được cuộc đời mình ở Israel, như một con người, một người cha, một nhà văn, một công dân Israel, một người Do thái, cho đến khi nào tôi can dự vào được đời sống trong Thời Gian của Lò Thiêu, trong không gian của Lò Thiêu. Tôi muốn tìm biết tôi sẽ ứng xử, lợi dụng hết khả năng mình có như thế nào để chống lại nỗ lực của Đức Quốc Xã trong việc tẩy xóa người Do Thái. Làm thế nào tôi có thể duy trì được ngọn lửa nhân tính trong một thực tế đã được thiết kế một cách toàn diện để dập tắt nó?

Hôm nay, tôi có thể nói rằng tác phẩm của Schulz đã hướng dẫn cho tôi một cách để viết về Lò Thiêu, và trong một nghĩa nào đó cũng là một cách để sống thời Hậu Lò Thiêu. Thỉnh thoảng cũng có những khoảnh khắc ân sủng như thế: bạn mở một quyển sách của một tác giả bạn không biết, và đột nhiên bạn cảm thấy như đang băng ngang qua một từ trường dẫn đưa bạn theo một chiều hướng mới, dậy lên những cơn lốc bạn gần như chưa từng cảm nhận trước đây và cũng không biết tên chúng là gì. Tôi đã đọc những truyện Schulz viết và cảm nhận được đời sống cuồn cuộn. Trên từng trang viết, cuộc đời chảy xiết, bứt phá linh động, thật xứng đáng với danh tiếng của nó; Nó bày ra ở mọi tầng ý thức cũng như tiềm thức, trong giấc mơ, trong ảo tưởng, và trong ác mộng. Tôi cảm thấy các câu truyện kể có khả năng đưa tôi vượt ra khỏi sự tê liệt và tuyệt vọng đã từng ghìm lấy tôi bất cứ khi nào tôi suy nghĩ tới Holocaust hoặc khi chạm đến những khía cạnh của bản chất con người đã rốt cuộc cho phép chuyện ấy xảy ra .

David Grossman, đã viết văn, và trở thành nhà văn rồi, ông mới đọc Schulz, khi nghe 1 vị quen biết phán, ông viết có mùi Schulz!
Thoạt nghe, bực lắm, nhưng khi đọc Schulz 1 phát, thì bèn quỳ xuống tạ ơn ông Trời, và phán, đây là Thầy của ta!


Bài viết này, Gấu đọc 1 phát thì bèn mê quá, dịch, dịch được 1 đoạn, rồi lu bu quên luôn, cho tới khi đưọc K lôi ra dịch tiếp.
Số phận bài viết như thế, cũng có gì giống như là 1 truyền thuyết!
Hà, hà!
Schulz với Grossman, như thế, có gì tương tự với trường hợp Steiner với Gấu.
Ông trao cho Gấu gánh nặng Lò Thiêu, như Gấu đã từng viết. 
Lần đầu, được bạn Chất đưa về nhà bạn, thấy TTT ngồi chồm hỗm ở 1 góc nhà, viết, thì bèn nhìn ra hình ảnh của Gấu sau này.
Rồi khám phá ra Faulkner, dậy cách viết, nhưng phải đến khi ra được hải ngoại, thì mới ngộ ra Cái Độc Bắc Kít, nhờ nếm mùi Cái Độc Nazi, qua Steiner, đại khái đời văn của Gấu là như thế!


Phải đọc Tin Văn trong tinh thần chờ đợi, tự mình khám phá ra, một định luật văn học, định luật này chẳng thua gì định luật “vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý học, của Newton!
Ấy là Gấu mô phỏng Koestler, khi ông coi Newton như là một ông nhạc trưởng của một dàn nhạc đại hoà tấu. Theo nghĩa:
Những hiện tượng vật lý, thí dụ như thuỷ triều, làm sao anh qua nổi con trăng này?, trái sầu riêng rớt trúng đầu… chúng có vẻ như chẳng ăn nhập gì với nhau, cho đến khi Newton xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, thế là mọi thứ y khuôn một phép, ai vào vị trí đó, cùng tấu bản đại hoà tấu “vạn vật hấp dẫn”!
Những trang Tin Văn tản mạn, không đầu không đuôi, làm xàm, bá láp…  cũng đang chờ một độc giả xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, và thế là bản “Diệt Cái Ác Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa vừa thôi cha nội!
Sắp chết - chết đến đít rồi, sắp gì nữa - hiền đi là vừa rồi!
*
Nếu vậy, thì lấy câu dưới đây, làm "blast" cho Tin Văn:
"These fragments I have shored against my ruins”
[Những mảnh miểng này, tôi vun vén nhằm chống lại nỗi điêu tàn của tôi:
Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới].

Đây là câu thơ – These fragments…  - kết thúc Hoang Địa, The Waste Land, của Eliot.

Câu thơ đưa chúng ta trở về với Xuân Sách, khi ông hỏi Chế Lan Viên:

Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có Điêu Tàn? (1)

Nhân nhắc tới Xuân Sách. Theo GCC, sở dĩ những bức chân dung nhà văn của XS, “cực” ăn khách, đến nỗi có những vị thèm được ông chiếu cố, để mắt tới, là do tính “tiên tri” của chúng.
Thí dụ như “điêu tàn ư, đâu chỉ  điêu tàn”, tiên tri ở chỗ, “đâu chỉ điêu tàn?”.
XS nhìn quá chân dung, tới cái bóng của chúng, và trong đó, có, của chế độ, được phóng chiếu lớn ra, rõ ra.

Sự kiện, NL chê đám trong nước không biết gì đến Steiner, theo GCC, đáng chê trách hơn nhiều, ở cái khiá cạnh này: S. là chuyên gia về văn học Nga. Lũ phê bình gia ở trong nước như Vương Đại Gia, tự hào, chúng rành văn học Nga. Chúng chẳng biết gì về văn học Nga, như những Steiner, hay Remnick, hay Wilson... Trong cuốn “Steiner ở tờ the New Yorker, S. at the New Yorker” có hai bài về Liên Xô, đúng hơn, về Solz, quá tuyệt. Do Cô Út làm từ thiện, Gấu đành phải order, mua lần thứ nhì, và sẽ giới thiệu mấy bài viết mà GCC quá mê, ở trong đó, thí dụ, bài tưởng niệm Koestler, bài viết về BB [Bertold Brecht]….

Tuy nhiên, cách Grossman đọc S. theo Gấu, bị khoanh vùng vào Lò Thiêu. Như bài essay của chính S. hay như AZ, hay Coetzee đọc S. thì cách viết của S, đúng như Coetzee nhận xét, "trưởng thành trong thơ ấu", 'mature into childhood'.
S viết, "We usually regard the word as the shadow of reality, its symbol. The reverse of this statement would be more correct: reality is the shadow of the word", là thế!
Cũng nhờ thế, mà Gấu nhận ra kết nối giữa S và Hơàng Ngọc Tuấn.
Có 1 cái gì đó làm chúng ta nhận ra phần số của văn chương và cuộc đời của họ:

HNT rất giống Schulz, [đọc Tuổi thiên tài], ở đời thường, khoan nói chuyện văn chương, nghệ thuật. Cả hai đều khốn khổ khốn nạn, sinh ra đời là đã chỉ muốn xin lỗi cuộc đời, xin lỗi, tớ tới nhầm chỗ, đúng ra tớ không nên bò ra cõi đời này!










*

Ông anh khác thằng em, viết hoài được hoài!
Ham hố hoài nữa chứ!
[Note: Mấy cái hình 'kiều nữ' Playboy, Tháng Tám 2017, mừng SN/GCC, click 1 phát, không dám để ở frontpage]

*

*
Chuyện Tình
Chỉ có truyện tình là vĩ đại thôi. K phán.

Image may contain: text

Gấu mua cuốn Into The Looking-Glass Wood của Alberto Manguel cũng lâu rồi, có đọc lai rai, vì là 1 tác giả Gấu mê, ngay từ lúc vừa ra hải ngoại, qua sự giới thiệu của Nguyễn Tiến Văn, với cuốn A History of Reading của ông. Bữa nay lôi ra đọc, vớ đúng 1 bài thật là thần sầu “Borges in Love”.
Manguel đã từng hân hạnh là người đọc truyện cho Borges, khi ông bị mù. Bài viết kể về cuộc tình của Borges với Estela Canto, và Borges viết truyện The Aleph, là để tặng vị này.
Sau đây là link bản tiếng Anh, và bản tiếng Việt (Da Màu).
Tiép đó, Gấu bèn lai rai về truyện ngắn The Aleph.

http://damau.org/archives/43270

http://www.phinnweb.org/links/literature/borges/aleph.html

In a 1970 commentary on the story, Borges explained, "What eternity is to time, the Aleph is to space." As the narrator of the story discovers, however, trying to describe such an idea in conventional terms can prove a daunting—even impossible—task.

Trong 1 lần còm, Borges giải thích, "cái" là "vĩnh cửu" với thời gian, thì với The Aleph, "nó" là "không gian".
Món quà của Borges tặng em, đúng là như thế, cái "nơi chốn của tất cả nơi chốn"

Bạn đọc Tin Văn hẳn cũng đã đọc MCNK của TTT, trên Tin Văn, và chắc hẳn cũng khổ tâm như Duy, 1 nhân vật ở trong truyện. Duy băn khoăn, thế rồi Hiền đi đâu. Kiệt thì giải thích với vợ là, anh đưa Hiền tới đó, rồi lại về với em.
Chỗ đó là chỗ nào?

Có lần Gấu gọi nơi chốn đó, là Lost Domain, muợn từ Anh Môn. Nhưng Manguel cho biết, đó là Ithaca: The place that is all places, tức là The Aleph.
Borges cho biết, ông cảm thấy định mệnh của ông, là, đếch được hạnh phúc, that it was not his destiny to be happy. Quái làm sao, Gấu cũng đã từng bị phán như thế, qua ông bạn chưa từng được gặp là nhà văn Doãn Dân, sĩ quan VNCH, đã tử trận. Nhớ là, Nguyễn Tân Văn, bạn thời còn đi học của Gấu, có lần đưa cho anh đọc cuốn “Những ngày ở Sài Gòn”, đọc xong, anh phán, thằng cha này quá sợ hạnh phúc! (1)

Doãn Dân: Tên Trần Doãn Dân, sinh năm 1938 tại Nam Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày 29.4.1972
Tác phẩm: Chỗ của Huệ, 1968; Tiếng gọi thầm, 1972
Võ Phiến VHTQ


(1)

Once again, Borges felt that it was not his destiny to be happy. Literature provided consolation, but never quite enough, since it also brought back memories of each loss or failure, as he knew when he wrote the last lines of the first sonnet in the diptych "1964":

No one loses (you repeat in vain)
Except that which he doesn't have and never
Had, but it isn't sufficient to be brave
To learn the art of oblivion,
A symbol, a rose tears you apart
And a guitar can kill you.

Bài viết "Borgres Iêu" thật là tuyệt vời. Từ từ tính.

Solitude

There now, where the first crumb
Falls from the table
You think no one hears it
As it hits the floor,

But somewhere already
The ants are putting on
Their Quaker hats
And setting out to visit you.

Charles Simic:  Selected Early Poems

Cô đơn

Chủ nhật, sáng nay, ở một Starbucks, ở Tiểu Sài Gòn
Mẩu bánh sừng trăng đầu tiên rớt khỏi mặt bàn em đang ngồi
Em nghĩ, chắc là chẳng ai nghe tiếng rớt của nó, khi chạm sàn gỗ,

Nhưng đâu đó, ở một thành phố khác
Đàn kiến đội lên đầu chiếc nón Quaker
Và lên đường, thăm em giùm anh. 

History

On a gray evening
Of a gray century,
I ate an apple
While no one was looking.

A small, sour apple
The color of wood fire
Which I first wiped
On my sleeve.

Then I stretched my legs
As far as they'd go,
Said to myself
Why not close my eyes now

Before the late
World News and Weather.

Charles Simic

Lịch sử

Vào một buổi chiều xám
Thế kỷ xám
Gấu xực 1 trái táo
Khi không ai nhìn

Một trái táo nhỏ
Chua ơi là chua
Màu lửa củi
Gấu lấy tay áo lau miệng
Rồi, ruỗi cẳng ra
Mặc sức chúng ruỗi
Rồi Gấu nói với Gấu
Tại sao mi không nhắm mắt lúc này

Trước bản tin trễ
Tin thế giới và thời tiết

Thơ RC rất đỗi thê lương, và nỗi cô đơn đến với chúng ta, rất đỗi bất ngờ. Trong thơ ông có nỗi buồn cháy da cháy thịt, nhưng không phải là do mất 1 người thân, thí dụ như bài sau đây, GCC thật mê.

http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Carver_Poems.html

I fished alone that languid
autumn evening.
Fished as darkness kept coming
on.
Experiencing exceptional loss and
then
exceptional joy when I brought a
silver salmon
to the boat, and dipped a net
under the fish.
Secret heart! When I looked into
the moving water
and up at the dark outline of the
mountains
behind the town, nothing hinted
then
I would suffer so this longing
to be back once more, before I
die.
Far from everything, and far from
myself

("Evening")

Chiều tối

Tôi câu cá 1 mình
vào buổi chiều tối mùa thu tiều tụy đó,
Cá như màn đêm cứ thế mò ra.
Cảm thấy,
mất mát ơi là mất mát
và rồi,
vui ơi là vui,
khi tóm được một chú cá hồi bạc,
mời chú lên thuyền
nhúng 1 cái lưới bên dưới chú.
Trái tim bí mật!
Khi tôi nhìn xuống làn nước xao động,
nhìn lên đường viền đen đen của rặng núi
phiá sau thành phố,
chẳng thấy gợi lên một điều gì,
và rồi
tôi mới đau đớn làm sao,
giả như sự chờ mong dài này,
lại trở lại một lần nữa,
trước khi tôi chết.
Xa cách mọi chuyện
Xa cả chính tôi.


Image may contain: outdoor, water and nature



[Note: Mấy cái hình 'kiều nữ' Playboy, Tháng Tám 2017, mừng SN/GCC, click 1 phát, không dám để ở frontpage]


SN_GCC_2017

Grandpa's Spells
I hate to hear birds sing
Come spring, the wood turn green
And little flowers sprout
Along the country roads.

Bleak skies, short days,
And long nights please me best.
I like to cloister myself
Watching my thoughts roam

Like a homeless family
Holding on to their children
And their few possessions
Seeking shelter for the night.

And I love most of all knowing
I'm here today, gone tomorrow,
The dark sneaking up on me,
To blowout the match in my hand.

Charles Simic: New and Selected Poems (1962-2012)

Thần Chú của Gấu Già

Gấu ghét chim hót đón chào mùa xuân
Rừng trở nên xanh lá
Và hoa hiếc nở lôm côm ven đường làng

Bầu trời âm u, ngày ngắn
Và đêm dài
Là Gấu khoái nhất
Gấu thích tự giam mình, theo cái kiểu tu kín
Ngắm tư tưởng của Gấu lang thang

Như 1 gia đình không nhà
Cố bám con cái và ba thứ đồ lỉnh kỉnh nồi niêu xoong chảo của họ
Trong khi kiếm nơi trú ẩn trong đêm

Gấu mê nhất trong mọi thứ mà Gấu mê
Là biết mình có hôm nay, là để “mai anh đi rồi”!
Đêm đen lậm mãi vào trong Gấu
Cái gì gì, khi anh đi anh đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết.
[Cái này thuổng ông anh nhà thơ TTT]
Và thổi tắt mẹ cây đèn cầy Gấu cầm trong tay!

tt  
    Lê Minh Hà & Thảo Trần
    [Đức quốc,
cuối thế kỷ, 1999]

*


When You are Old

When you are old and grey and full of sleep,
And nodding by the fire, take down this book,
And slowly read, and dream of the soft look
Your eyes had once, and of their shadows deep;

How many loved your moments of glad grace,
And loved your beauty with love false or true,
But one man loved the pilgrim soul in you,
And loved the sorrows of your changing face;

And bending down beside the glowing bars,
Murmur, a little sadly, how Love fled       
And paced upon the mountains overhead
And hid his face amid a crowd of stars.

W.B. Yeats: The Collected Poems, ed by Richard J. Finneran

Khi Em của Gấu già

Khi Em của Gấu già, tóc xám, lúc nào cũng thèm ngủ
Ngồi gật gù bên bếp lửa, và bèn lôi cuốn Istanbul ra
Đọc từ từ, mơ ánh mắt dịu dàng và những bóng huyền sâu thẳm của chúng
Ánh mắt thời Em của Gấu còn đương thời

Ôi chao, bao nhiêu tên đã yêu những khoảnh khắc ân sủng đó
Và yêu vẻ đẹp của Em, với tình yêu, giả hay thực
Nhưng chỉ có một thằng cha Gấu
Là cực mê những nét buồn trên khuôn mặt thay đổi của Em thôi!

Và cúi đầu bên thành giường sáng ngời
Thì thầm, hơi có tí buồn,
Như thế nào, Gấu bỏ chạy
Lên những ngọn đỉnh trời,
Giấu mặt giữa những chùm sao

Chưa kể lần xém chết,
Giữa những pho tượng Phước Lộc Thọ.

Nothing Else

Friends of the small hours of the night:
Stub of a pencil, small notebook,
Reading lamp on the table,
Making me welcome in your circle of light.

I care little the house is dark and cold
With you sharing my absorption
In this book in which now and then a sentence
Is worth repeating in a whisper.

Without you, there'd be only my pale face
Reflected in the black windowpane,
And the bare trees and deep snow
Wailing for me out there in the dark.

H/A thôi, đủ rồi

Bạn của những giờ nhỏ trong đêm:
Mẩu viết chì, cuốn sổ nhỏ
Đèn bàn
Chúng chào anh khi nhập vô vòng ánh sáng quanh em

Anh không để ý gì nhiều về căn nhà thì tối và lạnh
Với em cùng nhập vô cuốn sách
Lúc này, hay lúc nọ, một câu văn
Thì thật đáng lập lại trong lời thầm

Không có em, sẽ chỉ có bộ mặt lợt lạt của anh
Phản chiếu trong khung cửa tối
Và cây trần, tuyết sâu
Đợi anh ở bên ngoài, trong bóng đêm.

*

Ancient Autumn

Is that foolish youth still sawing
The good branch he's sitting on?
Do the hills wheeze like old men
And the few remaining apples sway?
Can he see the village in the valley
The way a chicken hawk would?

Already smoke rises over the roofs,
The days are getting short and chilly.
Even he must rest from time to time,
So he's lit a long-stemmed pipe
To watch a chimneysweep at work
And a woman pin diapers on the line
And then step behind some bushes,
Hike her skirt so her bare ass shows
While on the common humpbacked men
Roll a barrel of hard cider or beer,
And still beyond, past grazing cattle,
Children play soldier and march in step.

He thinks, if the wind changes direction,
He'll hear them shouting commands,
But it doesn't, so the black horseman
On the cobbled road remains inaudible.
One instant he's coming his way,
In the next he appears to be leaving in a hurry ...
It's such scenes with their air of menace,
That make him muddled in the head.
He's not even aware that he has resumed sawing,
That the big red sun is about to set.

Charles Simic

Thu Cũ

Liệu cái tuổi trẻ khùng điên ba trợn vưỡn kưa kưa
Cái cành cây bảnh nhất anh đang ngồi?
Những ngọn đồi vưỡn khò khè như những ông già
Và mấy cây táo còn lại, vưỡn “nắc nư”?
Liệu anh có thể nhìn ngôi làng ở bên dưới thung lũng
Vưỡn cái nhìn của con chim ưng thèm gà con?

Khói đã bốc lên từ những mái nhà
Ngày mới ngắn và lạnh làm sao
Ngay cả như thế thì anh vưỡn thèm ngồi lại
Thì cũng phải nghỉ ngơi, lúc này lúc nọ
Và thế là anh lấy cái tẩu dài thòng ra
Và đốt thuốc
Trong khi nhìn một tay thông ống khói làm việc
Và 1 người đàn bà treo mấy cái tã con nít lên sợi dây
Và rồi lui lại, sau mấy bụi cây
Kéo cái váy lên, phô cái chảo trắng ngần ra
Trong khi ở chỗ công cộng những người đàn ông gù
Vần 1 cái thùng tô nô rượu táo, thứ nặng đô, hay là bia
Và vẫn quá, quá bầy trâu bò gặm cỏ
Lũ con nít chơi trò lính tráng, xếp hàng diễn hành

Anh nghĩ, nếu ngọn gió đổi chiều
Thì có thể nghe chúng hô, Bác Hồ muôn năm, một, hai, một, hai
Nhưng gió không làm cái chuyện bậy bạ như thế
Và thế là người kỵ sĩ đen
Trên con lộ sỏi
Không làm sao nghe được
Trong 1 thoáng, người kỵ sĩ đi theo con đường của anh ta
Trong thoáng kế, anh ta có vẻ bỏ đi trong vội vã
Những xen như thế thật đe dọa
Khiến cho anh mụ cái đầu
Anh cũng chẳng nhận ra là mình lại tiếp tục kưa kưa
Và cái ông mặt trời đỏ bự thì đang tính đi ngủ.

Austerities
From the heel
Of a half-loaf
Of black bread,
They made a child's head.
Child, they said,
We've nothing for eyes,
Nothing to spare for ears
And nose.
Just a knife
To make a slit
Where your mouth
Ought to be.
You can grin,
You can eat,
Spit the crumbs
Into our faces.

Khổ hạnh
Từ 1 tí đầu thừa đuôi thẹo
Của một nửa lát bánh mì đen
Chúng làm nên cái đầu đứa bé
Nè, thằng bé, chúng nói
Chúng ta chẳng còn gì để làm hai con mắt
Cũng chẳng còn gì cho hai cái tai
Và cái mũi
Chỉ còn lát dao
Để đi 1 đường
Làm thành cái miệng của mi
Mi có thể méo xệch nó 1 phát
Mi có thể ăn
Và nhổ mấy mẩu vụn
Vào mặt chúng ta

The city had fallen. We came to the window of a house drawn by a madman. The setting sun shone on a few abandoned machines of futility. "I remember," someone said, "how in ancient times one could turn a wolf into a human and then lecture it to one's heart's content."

Charles Simic: New and Selected Poems (1962-2012)


Two (Scholarly) Love·Poems

1. Dead Sea Scrolls
I was like the words
on a papyrus apocryphon
buried in a cave at Qumran,
and you were the scholar
I had been waiting for
all my life, the one reader
who unravelled the scrolls
and understood the language
and deciphered its mysteries.

Edward Hirsch: The Living Fire

Rừng Tin Văn
 
GCC thì như là những từ
Được chôn ở trong rừng Tin Văn
Em của Gấu thì là nhà học giả mà Gấu đợi suốt cả đời
Khám phá ra khu rừng
Và giải ra được những bí ẩn của nó (1)

(1)

22/01/2010

Tôi được đọc bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trang Tin Văn của ông thật bổ ích và thú vị. Chỉ có điều tôi không biết cái index, map của website Tin Văn như thế nào, vì trong "Nhật Ký" chỉ lưu từ 2003 đến 2007, mong ông chỉ cho. Tôi nhiều khi bị lạc vì các ngã ba ngã tư trong bài, nhưng lại bắt gặp thêm nhiều kỳ thú.
Chân thành cảm ơn ông.

H/A

ELEGY FOR A PARK

The labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night

Bi Khúc Công Viên

Mê cung biến mất
Cũng biến mất, là,
Những đại lộ với những hàng me ngay ngắn
Những mái hiên buổi chiều
Và tấm gương hằng chăm chú theo dõi
Nhân lên mọi khuôn mặt mỗi người
Mọi thứ, mọi điều thoáng chốc, trôi tuột.
Đồng hồ ngừng,
Mớ kim ngân mọc lộn xộn
Công viên Chi Lăng với những hàng cây, những pho tượng bất thường
Phiá bên kia của buổi chiều, sự rùng mình của những chú chim
Bao lơn, tiếng lào xào lười biếng của con suối
Đều là những điều của quá khứ
Những điều của quá khứ nào?
Nếu không có bắt đầu, thì cũng chẳng hề có tận cùng hiển nhiên sắp hiển hiện
Nếu nằm ườn trong kho, với chúng ta, là một vô cùng tận
Của những ngày trắng xen những đêm đen
Thì
Chúng ta bây giờ đang sống cái quá khứ chúng ta sẽ trở thành
Chúng ta là thời gian, chính nó
Là con sông không thể nào chia cắt ra được
Chúng ta là Sài Gòn, là Carthage, là Uxmal
Là những bức tường đã thành bụi
Của những người Sài Gòn ngày nào, trước 1975
Là công viên Chi Lăng trước Quán Chùa
Đã biến mất
Công viên biến mất mà,
Những dòng thơ này của GCC
Đang tưởng nhớ, hoài niệm.


*

Bên kia đường, phiá bên phải, là Quán Chùa, La Pagode
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/

Quán Chùa
 [source: Net, manhhai]


To TN:
Tôi đâu có dám về Việt Nam?
Về Lào rồi về lại Canada.
Tks.
Take Care
NQT

Note: Gấu về VN hai lần, ngay từ hồi đầu, cc 2000, khi chưa tên Mít viết văn nào ở hải ngoại, dám về. Chủ yếu là để tới nơi ông cụ Gấu bị tên học trò làm thịt, thẩy xác xuống sông, để thắp 1 cây nhang cho Bố, và sau đó, tìm hiểu, ông mất đúng ngày nào, và tại làm sao ông không theo Vẹm.
Ôi chao, hóa ra đó là món quà quí hóa nhất, ông để lại cho con cái: Bố của tụi mi không phải là 1 tên Vẹm, tức 1 tên sát nhân!
Chúng giết, đâu chỉ 1 người, mà là 1 đất nước.

Mừng Tám Bó bằng bài thơ sau đây, mà không "Nghị Hách" (1) sao ?

Kyrie

Sometimes my life opened its eyes in the dark.
A feeling as if crowds drew through the streets
in blindness and anxiety on the way toward a miracle,
while I invisibly remain standing.

As the child falls asleep in terror
listening to the heart's heavy tread.
Slowly, slowly until morning puts its rays in the locks
and the doors of darkness open.

Tomas Transtromer: the great enigma

Kyrie

Đôi khi đời tớ mở những con mắt đen thui của nó vào trong bóng tối
Cảm giác như thể lũ người ngoài đường xô đẩy nhau, chèn ép nhau, trên con đường tới thiên đường - tới phép lạ thì cũng rứa -
Trong mù lòa trong xốn xang
Trong khi GCC, vô hình, bèn đứng lại.

Như Anh Cu Gấu thiu thiu ngủ trong ghê rợn
Từ từ, chầm chậm,
Cho tới khi buổi sáng nhét những tia sáng của nó vô ổ khoá
Và những cánh cửa của bóng tối bèn mở ra.

(1)
.... thì vẫn mơ và tiếc rằng SN 80 không post được hình những nàng kiều nữ trang trong của PlayBoy kia kìa !!
Tks.

Tuổi Thiên tài : Một truyền thuyết về Schulz  ( David Grossman / Đặng Lệ Khánh)

Trong cuốn Nhà văn Ba Lan, do AZ biên tập, có 1 số thư từ trao đổi giữa S. và Witold Gombrowicz, và trong 1, S trình bày quan điểm nghệ thuật của ông, thứ mà Coetzee gọi là “trưởng thành trong ấu thơ”.
K, vị bằng hữu, chủ nhân trang art2all, đã từng nhận xét về sự liên tưởng “quái dị” của GCC. THNM, nhìn đâu cũng thấy VC, đọc ai cũng thấy BHD, thí dụ, như K phán.
S. đẩy cái sự liên tưởng quái dị, thành nghệ thuật, th
của ông. Ông viết, chúng ta thường coi từ, word , như là cái bóng của thực tại, biểu tượng của nó, as the shadow of reality, its symbol. Ngược lại mới đúng: thực tại là cái bóng của từ. Triết học thực sự là philology, ngữ văn, sự khai phá sâu thẳm có tính sáng tạo của từ, the deep, creative exploration of the word.
Tin Văn sẽ post mấy cái thư, và mấy trang nhật ký của Anna Kamienska, trong có trang về "Thơ là nghĩa địa". Thứ này lũ thi sĩ Mít cần. Nhất là mấy tên thi sĩ Vẹm, rất cần.

Chuyện Tình
Phong cảnh có bàn ủi

GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK.
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký! 
Tiểu Thu

Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư…   và trong những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
Note: Mấy dòng trên, khi viết, GCC tính đặt cục gạch, để sau đó, viết tiếp.
Viễn ảnh của bài viết, thì có rồi, chôm từ Schulz. Trong 1 bài essay, huyền thoại hóa thực tại, hay nói kiểu GCC: THNM thực tại.
Bài viết này cũng thật thần sầu. Từ từ tính!

Simic: Scribbled in the Dark

BELLADONNA

A word that comes to mind tonight
Strolling past red paper lanterns,
Bead curtains, and Oriental carpets
In a softly lit window of a fortune-teller.

A pretty girl in white evening gown
Seated at a small round table
Awaiting the arrival of the oracle
With tears streaking down her face.

A sight the live parrot on the premises
May want to comment on from his perch,
And the devil himself display tonight
To a young monk kneeling in prayer.
Belladona

Một từ tới với cái đầu tối nay
Rảo bộ quá mấy cái đèn lồng đỏ bằng giấy
Những bức màn hột soàn và những tấm thảm Đông Phương
Ở cái cửa sổ có ánh đèn dìu dịu của bà thầy bói.

Một em xinh đẹp trong cái áo dài buổi tối màu trắng
Ngồi ở cái bàn tròn, nhỏ
Đợi quẻ thánh
Với những dòng lệ chảy dài trên mặt.

Con vẹt đậu trên cây sào gần đó
Hình như tính đi 1 đường còm
Và tên quỉ, chính nó, bèn đi 1 đường trình diễn đêm nay
Với vì tu sĩ trẻ đang quì cầu kinh.

ON CLOUD NINE
Most days I'm airborne.
Nights too.
One foot before the other
On a thread so thin
A spider couldn't tell it from its own,
I promenade unseen
Over your heads.
You who are always ready
To applaud a fireman
Saving a child from a burning building,
Look up now and then
And try to catch my act.

Chín Đường Mây
Hầu như tất cả mọi ngày, tớ chơi trò airborne
Đêm, luôn.
Một chân, trước, một chân
Trên sợi dây mỏng dính
Một con nhện cũng chào thua luôn
Tớ dạo chơi trong cái thế vô hình như thế
Ở trên đầu mấy bạn
Bạn, vốn lúc nào cũng sẵn sàng
Để vỗ tay chào mừng người lính cứu hoả
Cứu đứa trẻ khỏi toà nhà đang cháy
Thỉnh thoảng, lâu lâu, lại ngước mắt nhìn
Và cố bắt chước tớ.

STAR ATLAS
The madness of it, Miss Dickinson!
Then the dawning suspicion-
We are here alone ventriloquizing
For the one we call God.

Just to be sure, I lifted my eyes
From the star atlas to the night sky
And found one tiny star in it
Above a field covered in snow.

One more mystery for some boy
To ponder as he closes his schoolbook,
Sleepy boy chewing a thumb
As he rests his head on a table.

His tomorrow's classroom empty;
Its huge blackboard wiped clean.
Just a low voice talking on TV
In the janitor's quarters down the hall.

A quick tour by weather satellite
Of the bleak and desolate northern regions
Of our planet, predicting dropping
Temperatures and a blizzard or two

Someplace out there hard to imagine,
Like these photos of distant nebulae-
Blurry remains where portraits of old gods
Once hung hiding the horror from us.

The once popular sitcom everyone watched
Recounting their furies and squabbles
Regarding the fate of their terrestrial subjects,
Has been canceled, some say indefinitely.

The huge cast joining the line of the unemployed
Winding around the globe, stamping
Their feet and blowing on their hands
To keep warm as the long freeze sets in.
STAR ATLAS

Đúng là khùng rồi, Miss Dickinson
Thế rồi hồ nghi len lén xuất hiện, như tia sáng vào lúc rạng đông
Chúng mình có ở đây, cô đơn,
Là để nói bằng bụng
Về một đấng cà chớn mà chúng ta gọi là Ông Giời

Để cho chắc ăn, tớ bèn ngước mắt
Nhìn lên bầu trời đầy sao, cẩm như Mai Thảo, chắc thế
Và kiếm thấy 1 vì, nhỏ xíu
Ở phiá bên trên 1 cánh đồng phủ tuyết.

Thêm một bí ẩn cho 1 cậu học trò nào đó
Để cậu ngạc nhiên, khi đóng lại cuốn tập
Cậu buồn ngủ, miệng ngậm ngón tay cái
Đầu gục lên mặt bàn.

Cái phòng học của cậu ngày mai trống vắng
Cái bảng đen to tổ bố thì đã được lau sạch
Chỉ có tiếng rì rầm từ cái TV
Ở khu người gác trường, cuối hành lang.

Một tua ngắn bằng vệ tinh khí hậu
Ở vùng phía bắc âm u, hoang vắng của hành tinh chúng ta
Tiên đoán, nhiệt độ xuống và 1 hay 2, trận bão.

Một nơi nào đó, ở ngoài đó, thật khó mà tưởng tượng
Như những bức hình về những thiên hà xa vời
Dấu mờ vẫn còn, nơi chân dung những vị thần cổ lỗ sĩ
Có một thời được treo, giấu chúng ta sự ghê rợn.

Một show hài, phổ thông có thời mọi người đều coi
Kể những cơn giận dữ, cãi cọ của họ
Liên quan đến phần số của những đề tài trần tục
Đã bị hủy bỏ, một số người cho biết, vĩnh viễn.

Cái sân khấu rộng lớn bèn gia nhập hàng ngũ những người thất nghiệp
Lang thang khắp trái đất
Chân nện rầm rầm, thổi lòng bàn tay phù phù
Để giữ hơi ấm, chừng nào lạnh giá còn dài dài

BLACK BUTTERFLY

Ghost ship of my life,
Weighed down by coffins
Sailing out
On the evening tide.

Bướm Đen

Con thuyền ma của đời Gấu Cà Chớn
Chở khẳm hòm
Ra khơi
Vào con nước buổi chiều.

A QUIET AFTERNOON

Generously donated for our use
By an unknown benefactor
Who made sure the sky is blue,
The breeze mild and caressing

As we lie in the shade of a tree,
Our eyelids heavy, our yawns
Lengthening and lengthening
In the stillness of the afternoon,

As the last leaf falls quiet
And time itself comes to a stop
With its brightly colored circus wagons
Far from any village or town.

Every card in the caravan lying facedown,
Only a horse in a field permitted
To flick his tail and a woman
Sunbathing in the nude to swat a fly.

Một buổi chiều yên tịnh

Được hào phóng tặng, bởi 1 vị ân nhân
Chúng ta tha hồ muốn làm gì thì làm
Với sự bảo đảm của vị này,
Rằng bầu trời thì xanh
Gió mát nhẹ, đầy mơn trớn, nhạy cảm.

Chúng ta bèn nằm dưới bóng cây
Mi mắt nặng, ngáp thật dài,
Thật dai
Trong cái sững lặng của buổi chiều.

Khi cái lá cuối cùng lặng lẽ rớt xuống
Và thời gian, đích thị xừ lủy, đi đến 1 cú ngừng
Với con tầu sặc sỡ sáng ngời nhiều toa của 1 gánh xiệc của nó
Xa bất cứ một làng, một thành phố

Mọi cây bài trong đoàn xe thì đều nằm sấp
Trừ con ngựa ở nơi cánh đồng thì được phép
Hích hích cái tai
Và một người đàn bà
Tắm nắng, khoả thân,
Để đập 1 con ruồi.

Charles Simic: The Lunatic

Thơ Mỗi Ngày

Anna Kamrenska

Under the Nazi occupation of Poland, Anna Karnieriska participated as a teacher in underground education. Before the war she had studied pedagogy; after the war she graduated from the classics department at Lodz University.
She then moved to Warsaw, where she collaborated with several literary magazines. Kamieriska published many volumes of poetry. She was also active as a translator of poetry. Later on, she also published books of essays, commenting on poetry from biblical and classical perspectives.
    The history of Karnieriska's poetry is a history of a slow, honest evolution toward religious conversion. Her poetry has nothing to do with any intellectual fashion, although the twentieth century knew some moments when religion was hip. Her religious leanings were accompanied by intense reading of the Bible and Christian and Judaic philosophy, and were deepened by mourning the death of her husband, Jan Spiewak, also a poet.
    The pages presented in this chapter are taken from Karnieriska's beautiful Diary (or Notebook-Notatnik in Polish) of which there are two volumes.
These volumes count among the most moving and perspicacious poets' diaries.
Short entries having to do with poetry and spiritual life radiate force and freshness that only genuine contemplation can convey.

Poetry is not liked in Poland. What are the reasons for this? Maybe one of them is that we always associate poetry with slavery. Its function has been too closely tied to recompensation for all the losses of the age of slavery.
Thơ không được yêu thích ở Ba Lan. Lý do? Có lẽ 1 trong những lý do là chúng ta luôn kết hợp thơ với nô lệ.
Chức năng của nó rất gần gũi với sự đền đáp cho tất những mất mát của thời nô lệ.
Câu trên, áp dụng cho thơ Mít VC quá đúng.
Cái sự nô lệ của thơ Mít có cái tên thật là mĩ miều, là, viết dưới ánh sáng của Đảng.

READING THE NOTEBOOK OF
ANNA KAMIENSKA

 

Reading her, I realized how rich she was and myself, how poor
Rich in love and suffering, in crying and dreams and prayer.
She lived among her own people who were not very happy but
supported each other,
And were bound by a pact between the dead and the living renewed
at the graves.
She was gladdened by herbs, wild roses, pines, potato fields
nd the scents of the soil, familiar since childhood.
She was not an eminent poet. But that was just:
A good person will not learn the wiles of art.
 

Đọc Sổ Ghi của Anna Kamienska (1)

Đọc bà, tôi nhận ra bà giầu biết bao, còn tôi, nghèo làm sao.
Giầu có trong tình yêu, và đau khổ, trong than khóc và mơ mộng, cầu nguyện .
Bà sống giữa những con người của riêng bà, không rất hạnh phúc, nhưng giúp đỡ lẫn nhau,
Và được gắn bó bằng 1 hợp đồng giữa người chết và người sống được làm mới ở những nấm mồ.
Bà thì thật vui với cỏ, hoa, thông, cánh đồng khoai tây
Và mùi của đất, quen thuộc từ khi còn là con nít.
Bà không phải là 1 nhà thơ uyên bác. Nhưng đúng là như thế này:
Một con người tốt sẽ không học những mưu ma chước quỉ của nghệ thuật.

Note: Trong cuốn Nhà văn Balan về viết, Polish Writers on Writing, Adam Zagajewski có dành 1 số trang cho Bà này, và cho nhật ký của Bà.
Trong 1 trang nhật ký, bà coi thơ là…  nghĩa địa.
THNM, Gấu bèn nghĩ đến Đà Lạt, nghĩa địa voi của TTT, trong MCNK
Câu này của Bà, cũng thật tuyệt:
Thơ là dự báo sự thực.
Poetry is a presentiment of the truth.
Gấu bèn nghĩ đến dòng thơ tự do của TTT. Nó dự báo cuộc chiến sau đó, như có lần Gấu đã từng phán, từ trước 1975, khi đọc Bếp Lửa.
Tin Văn sẽ đi 1 đường về thơ như là nghĩa địa.


Nghe Nói Mùa Thu Ở Đây Đẹp Lắm




Playboy Tháng Tám 2017



Quán Chùa
 [source: Net, manhhai]


TN: Tôi đâu có dám về Việt Nam?
Về Lào rồi về lại Canada.
Tks.
Take Care
NQT

Note: Gấu về VN hai lần, ngay từ hồi đầu, cc 2000, khi chưa tên Mít viết văn nào ở hải ngoại, dám về. Chủ yếu là để tới nơi ông cụ Gấu bị tên học trò làm thịt, thẩy xác xuống sông, để thắp 1 cây nhang cho Bố, và sau đó, tìm hiểu, ông mất đúng ngày nào, và tại làm sao ông không theo Vẹm.
Ôi chao, hóa ra đó là món quà quí hóa nhất, ông để lại cho con cái: Bố của tụi mi không phải là 1 tên Vẹm, tức 1 tên sát nhân!
Chúng giết, đâu chỉ 1 người, mà là 1 đất nước.

Mừng Tám Bó bằng bài thơ sau đây, mà không "Nghị Hách" (1) sao ?

Kyrie

Sometimes my life opened its eyes in the dark.
A feeling as if crowds drew through the streets
in blindness and anxiety on the way toward a miracle,
while I invisibly remain standing.

As the child falls asleep in terror
listening to the heart's heavy tread.
Slowly, slowly until morning puts its rays in the locks
and the doors of darkness open.

Tomas Transtromer: the great enigma

Kyrie

Đôi khi đời tớ mở những con mắt đen thui của nó vào trong bóng tối
Cảm giác như thể lũ người ngoài đường xô đẩy nhau, chèn ép nhau, trên con đường tới thiên đường - tới phép lạ thì cũng rứa -
Trong mù lòa trong xốn xang
Trong khi GCC, vô hình, bèn đứng lại.

Như Anh Cu Gấu thiu thiu ngủ trong ghê rợn
Từ từ, chầm chậm,
Cho tới khi buổi sáng nhét những tia sáng của nó vô ổ khoá
Và những cánh cửa của bóng tối bèn mở ra.

(1)
.... thì vẫn mơ và tiếc rằng SN 80 không post được hình những nàng kiều nữ trang trong của PlayBoy kia kìa !!
Tks.

Tuổi Thiên tài : Một truyền thuyết về Schulz  ( David Grossman / Đặng Lệ Khánh)

Trong cuốn Nhà văn Ba Lan, do AZ biên tập, có 1 số thư từ trao đổi giữa S. và Witold Gombrowicz, và trong 1, S trình bày quan điểm nghệ thuật của ông, thứ mà Coetzee gọi là “trưởng thành trong ấu thơ”.
K, vị bằng hữu, chủ nhân trang art2all, đã từng nhận xét về sự liên tưởng “quái dị” của GCC. THNM, nhìn đâu cũng thấy VC, đọc ai cũng thấy BHD, thí dụ, như K phán.
S. đẩy cái sự liên tưởng quái dị, thành nghệ thuật, th
của ông. Ông viết, chúng ta thường coi từ, word , như là cái bóng của thực tại, biểu tượng của nó, as the shadow of reality, its symbol. Ngược lại mới đúng: thực tại là cái bóng của từ. Triết học thực sự là philology, ngữ văn, sự khai phá sâu thẳm có tính sáng tạo của từ, the deep, creative exploration of the word.
Tin Văn sẽ post mấy cái thư, và mấy trang nhật ký của Anna Kamienska, trong có trang về "Thơ là nghĩa địa". Thứ này lũ thi sĩ Mít cần. Nhất là mấy tên thi sĩ Vẹm, rất cần.

Chuyện Tình
Phong cảnh có bàn ủi

GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK.
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký! 
Tiểu Thu

Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư…   và trong những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
Note: Mấy dòng trên, khi viết, GCC tính đặt cục gạch, để sau đó, viết tiếp.
Viễn ảnh của bài viết, thì có rồi, chôm từ Schulz. Trong 1 bài essay, huyền thoại hóa thực tại, hay nói kiểu GCC: THNM thực tại.
Bài viết này cũng thật thần sầu. Từ từ tính!




*

16.8.2009 SN/GCC

Roque Dalton

Spanish

1935-1975

THE CONCEITED

I'd be wonderful at being dead.

Then my vices would shine like ancient jewels
with those delicious colors of poison.

There'd be flowers of every scent on my tomb
and the adolescents would imitate my expressions of joy,
my occult words of anguish.

Maybe somebody'd say I was loyal and good.
But you'd be the only one who'd remember
the way I looked into eyes.

1971

W.S Merwin [translated]

 

Gấu Cà Chớn, Tên Phách Lối

Gấu sẽ tuyệt vời, vào lúc ngỏm

Vào lúc đó, bao nhiêu cái xấu, cái cà chớn, cái phách lối....  của Gấu sẽ biến thành… Đỉnh Cao Thời Đại,
The Zenith, hay cái con mẹ gì gì đó
Giống nữ trang xưa, quí
Với những màu sắc tuyệt vời của thuốc độc

Sẽ có hoa với mọi mùi vị, hương thơm… ở mồ Gấu
Và đám trẻ, hậu huệ, đệ tử, cái con mẹ gì đó, của Gấu
Sẽ bắt chước biểu hiện vui mừng của Gấu, cái gì gì, cười như….  Phật,
Hay như thằng ngố, thằng cù lần!
Hay những từ ngữ thần bí của nỗi đau thương, cũng của Gấu

Có thể có một nguời nào đó, nói, thằng khốn đó “nhân hậu và cảm động”!
Nhưng chính kẻ nói như thế, sẽ nhớ hoài, cách mà Gấu nhìn vô mắt,
Lần gặp độc nhất, ở Tiểu Sài Gòn!

Ấy là bởi vì sau đó, Gấu tính đi xa thật!

Hà, hà!

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/14.html

THE ORTHODOX LITURGY

Deep voices beg insistently for mercy
and have no self-defense
beyond their own glorious singing-though no one
is here, just a disc spinning
swiftly and invisibly.

One soloist recalls the voice
of Joseph Brodsky reciting his poems
before Americans, unconvinced
by any sort of resurrection,
but glad that somebody believed.

It's enough-or so we think-
that someone believes for us.

Low voices still sing.
Have mercy on us.
Have mercy on me too,
unseen Lord.

Adam Zagajewski: Eternal Enemy

Liturgy chính thống giáo

Những giọng sâu, không tự vệ, cầu nài khoan dung
Quá tiếng hát chiến thắng của chính họ - Mặc dù,
Chẳng có ai ở đây
Chỉ là cái dĩa quay nhẹ nhàng, vô hình.

Một giọng đơn, làm nhớ giọng nhà thơ Joseph Brodsky
Đọc thơ của ông
Trước đám Mẽo, đếch tin tưởng
Bất cứ thứ gì được gọi là tái sinh
Nhưng hài lòng, khi có một ai đó, tin.
Vậy là OK rồi – thì chúng ta cứ nghĩ như thế cho tiện việc sổ sách
Rằng có kẻ nào đó tin giùm cho chúng ta 

Những giọng thấp vưỡn hát
Hãy rủ lòng khoan dung lên chúng tớ

Hãy rủ lòng khoan dung
Lên cả Gấu Cà Chớn nữa nhé,
Ui, những bạn bè Ky Tô của Gấu!

Ui, Chúa Ky Tô chẳng ai nhìn thấy!


IMPROVISATION

First you take the world's whole weight on yourself
and make it light, bearable.
Toss it on your shoulders
like a backpack and take to the road.
Best at evening, in the spring, when
trees breathe peacefully and the night promises
to be fine, in the garden elm branches crackle.
The whole weight? Blood and ugliness? Can't be done.
A taste of bitterness always stays in the mouth
and the contagious despair of the old woman
you saw yesterday in the tram.
Why lie? Rapture, after all,
lives only in imagination and quickly vanishes.
Improvisation-always just improvisation,
we know nothing else, small or large-
in music, when the jazz trumpet weeps gaily,
or when you look at a white sheet of paper
or also when you flee
from sorrow and open a favorite book of poems,
the telephone usually rings right then
and someone asks, would you consider, sir or ma'am,
our latest models? No, thank you.
Grayness and monotony remain; mourning
that the finest elegy can't heal.
Perhaps, though, there are hidden things before us
and in them sorrow blends with enthusiasm,
always, daily, like the birth of dawn
on the seashore, or no, hold on,
like the happy laughter of the two little altar boys
in white surplices, on the corner of Jan and Mark,
remember?

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Ứng Tác

Trước hết, bạn để trọn sức nặng của thế giới lên chính bạn
Và làm cho nó nhẹ, chịu đựng được
Quẳng nó lên vai bạn
Như cái túi và lên đường
Tốt nhất là vào buổi chiều, mùa xuân, khi
Cây thở bình an và đêm hứa hẹn rằng thì là
OK, có thể hơn OK nữa đấy, ở ngoài vườn, cành lá lách tách, lách tách.
Trọn sức nặng? Máu và sự xấu xí? Hơi bị khó đấy, không nổi đâu.
Một tí mùi vị của cay đắng luôn đọng ở miệng
Và cái nỗi chán ngán gây lây, làm nhiễm
Của bà già bạn gặp hôm qua, trên xe điện
Tại sao phải nói dối cơ chứ? Nỗi mê ly, sảng khoái, cái cực bảnh, nói cho cùng
Thì chuồn nhanh lắm
Và luôn cư ngụ ở miền tưởng tượng.
Ứng tác – Luôn luôn chỉ là ứng tác
Chúng ta đâu biết gì hơn, nhỏ hay lớn –
Trong âm nhạc, khi cây kèn Jazz khóc vui,
Hay là khi bạn nhìn tờ giấy trắng
Hay là khi bạn bỏ chạy
Khỏi nỗi buồn và mở ra 1 tập thơ
Điện thoại bèn reo, đúng vào lúc đó
Và một người nào đó nói, nè, có kiểu xịp mới tinh nè, có tính coi không?
Không, cám ơn bà!
Xám xịt và buồn tênh dài dài 1 điệu, cứ còn hoài,
Than thở rằng
Bi khúc bảnh nhất thì cũng không thể nào chữa lành.
Có lẽ, tuy nhiên có những điều ẩn giấu trước chúng ta
Và trong chúng, nỗi buồn dính lẹo với hào hứng
Luôn luôn, hàng ngày, như rạng đông nở ra
Ở bờ biển, hay là, không, chờ chút, giữ máy
Như tiếng cười hạnh phúc của hai chú bé giúp lễ
Trong áo tế thụng, trắng, ở góc Jan và Mark,
Nhớ chứ?

22/01/2010

Tôi được đọc bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trang Tin Văn của ông thật bổ ích và thú vị. Chỉ có điều tôi không biết cái index, map của website Tin Văn như thế nào, vì trong "Nhật Ký" chỉ lưu từ 2003 đến 2007, mong ông chỉ cho. Tôi nhiều khi bị lạc vì các ngã ba ngã tư trong bài, nhưng lại bắt gặp thêm nhiều kỳ thú.
Chân thành cảm ơn ông.

H/A

*

Mới đó mà 7 niên rồi!
Take Care
 

*

My Grandfather's' Poems 

I remember that he wrote them backwards,
In Yiddish, in tiny, slanting, bird-like lines
That seemed to rise and climb off the page
In a flurry of winged letters, mysterious signs. 

Scrupulously he copied them out
On the inside covers of his favorite books
While my sister and I romped through the house
Acting like cops and robbers, cowboys and crooks, 

Whooping, shouting, and gunning each other down
In the hallway between rooms, mimicking fright,
Staggering from wall to bloody wall before
Collapsing in wild giggles at his feet. 

Always he managed to quiet us again,
Kissing us each on the upper part of the arm,
Tucking us in ... We never said prayers,
But later I could hear him in the next room 

Talking to himself in a low, tearing whisper-
All I could fathom was a haunted sound
Like a rushing of waves in the distance,
Or the whoosh of treetops in the back yard. 

For years I fell asleep to the rhythm
Of my grandfather's voice rising and falling,
Filling my head with his lost, unhappy poems:
Those faint wingbeats, that hushed singing. 

Edward Hirsch: The Living Fire, New and Selected Poems

Thơ của Grandpa

Tớ nhớ là hồi đó đó, ông tớ thường mần thơ bằng tiếng Mít
Những dòng chữ nhỏ nhắn, nghiêng nghiêng như những chú chim sẻ
Chúng bò lên, leo lên, rồi té khỏi trang giấy
Những con chữ xôn xao, náo động, như có cánh, những ký hiệu bí ẩn.

Tỉ mỉ, ông tớ chép chúng vô
Những cuốn sổ “thần sầu” của ông
Trong lúc chị tôi và tôi đùa rỡn suốt căn phòng
Đóng vai cướp, cớm, cao bồi, kẻ lường gạt
Cho đến khi mệt nhoài té xuống 1 đống dưới chân ông tôi

Ông tôi vỗ về hai đứa tôi
Xốc mỗi đứa mỗi bên, kéo tới…
Hai đứa tôi chẳng bao giờ cầu nguyện
Nhưng sau đó, chúng tôi có thể nghe ông tôi trong phòng kế bên 

Nói với chính mình
Những tiếng thì thầm rời rạc, nhức nhối, có thể nói như thế
Thứ âm thanh ám ảnh
Giống tiếng nước suối ở 1 nơi thật xa
Hay tiếng sương rơi, từ những chiếc lá cây sau vườn 

Trong nhiều năm tôi ru tôi, bằng những tiếng thì thầm
Nó dâng lên, rồi trôi giạt
Những bài thơ mất tích, lạc loài, bất hạnh của ông tôi
Chắc là thứ nhạc sến mà ông tôi mang về từ nông trường cải tạo VC ở Đỗ Hòa?




bài bi ca này của Thanh Tâm Tuyền còn đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt vào tương lai, một hiện tượng rất quái gở.
Blog NL

Không hẳn như vậy, theo GCC.
Bài thơ này nằm trong dạng "lưu đày & quê nhà".
Hiện tại là Saigon.
Câu thơ Buồn như bàn ghế không bày, Gấu đã từng lèm bèm.
Saigon về khuya, các tiệm lật ngược ghế móc vô bàn, ai đã từng ở Saigon, là biết, và buồn.
Quá khứ là "nửa đêm Hanoi" - quê nhà ngày nào của thi sĩ -
Tương lai mà ai cũng thèm, là "cho tí Paris để được làm thi sĩ".

Cái tên thi sĩ chỉ biết làm thơ nhại, NDT, không đọc nổi bài thơ này, bèn giở giọng chê bai, cực nhảm:

Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT

Chúa ơi!

Anh ta tự nhận, thơ của anh ta là ngôn ngữ đời thường!
Thế ngôn ngữ đời tù, anh ta có "đọc" được không?
"Làm" không được, vì có đi tù VC đâu.

Thơ TTT, như Gấu đã từng lèm bèm, cái nhịp thơ của nó, trước nhịp đời, lúc mới xuất hiện, còn khó đọc, nhưng sau đó, nó thở hơi thở của cuộc chiến, thành ra thật dễ hiểu.
Đây là ý của Brodsky, khi phán về thơ, và về Tsvetaeva:

Volkov. When you and I spoke in connection with Auden about the neutrality of the poetic voice, at the time you defended this neutrality.
Brodsky. This is not a contradiction. The source of rhythm is time. Remember I said that any poem is reorganized time. The more technically diverse a poet is, the more intimate his connection with time, with the source of rhythm. And Tsvetaeva is one of the most rhythmically diverse poets. Rhythmically rich and generous. Actually, "generous" is a qualitative category: let's stick to quantitative categories, all right? Time speaks to the individual in various voices. Time has its own bass, its own tenor-and it has its own falsetto. If you like, Tsvetaeva is the falsetto of time. The voice that goes beyond the range of proper notation.

Tuyệt! Cội nguồn của nhịp là thời gian. Bất cứ bài thơ là thời gian được sắp xếp lại...  
Gấu đã từng chôm ý này, khi viết về thơ của Cô Tú, cái gì gì, giọt mưa trời khóc ngàn năm trước, sao lại ấm áp ở trong lòng bàn tay của ta, lại có tí mằn mặn, hà hà!

*

Bài thơ tù này, cũng âm vang cái "thème" bi khúc "lưu đày và quê nhà", nhưng Bắc Kít ở đây là lưu đày, quê nhà là Nam Kít và vợ con.


* *


Note: Bạn đọc TV, đọc truyện khùng, trong Kẻ Mạo Tiếng, chắc cũng hơi chan chán rồi?
Nếu vậy, mời đọc "Chuyện Tình", vừa điên, vừa khùng, vừa đáng sợ, của nhà văn "hàng đầu" - từ này thuổng, của ai, thì đừng bắt Gấu nói ra - của Liên Xô hiện đại.
Bèn giới thiệu 1 truyện, quá tình, quá thê lương, dưới đây.

Một em, già, không có lấy 1 mẩu tình yêu trong đời, năn nỉ bà mẹ rời căn phòng, đi hoang 1 bữa, để cô con gái mời anh bạn cùng làm trong sở về nhà…

A Murky fate

This is what happened. An unmarried woman in her thirties implored her mother to leave their studio apartment for one night so she could bring home a lover.
    This so-called lover bounced between two house-holds, his mother's and his wife's, and he had an over- ripe daughter of fourteen to consider as well. About his work at the laboratory he constantly fretted but would brag to anyone who listened about the imminent promotion that never materialized. The insatiable appetite he displayed at office parties, where he stuffed himself, was the result of undiagnosed diabetes that enslaved him to thirst and hunger and lacquered him with pasty skin, thick glasses, and dandruff. A fat, balding man-child of forty-two with end job and ruined health-this was the treasure our unmarried thirtysomething brought to her apartment for a night of love.
    He approached the upcoming tryst matter-of-almost like a business meeting, while she approached it from the black desperation of loneliness. She gave it the appearance of love or at least infatuation: reproaches and tears, pleadings to tell her that he loved her, to which he replied, "Yes, yes, I quite agree." But despite her illusions she knew there romance in how they moved from the office to her apartment, picking up cake and wine at his request; how her hands shook when she was unlocking the door, terrified that her mother might have decided to stay.
    The woman put water on for tea, poured wine, and cut cake. Her lover, stuffed with cake, flopped across the armchair. He checked the time, the fastened his watch and placed it on a chair. His underwear and body were surprisingly white and clean. He sat down on the edge of the sofa, wiped with his socks, and lay down on the fresh sheets. He did his business; they chatted. He asked again what she thought of his chances for a promotion and got up to leave. At the door, he turned back toward the cake and cut himself another large piece, then licked the knife. He asked her to change a three-ruble bill but, receiving no reply, pecked her on the forehead and slammed the door behind him. She didn't get up. Of course the affair was over for him. He wasn't coming back-in his childishness he hadn't understood even that much, skipping off happily, unaware of the catastrophe, taking his three rubles and his overstuffed belly.
    The next day she didn't go to the cafeteria but ate lunch at her desk. She thought about the coming evening, when she'd have to face her mother and resume her old life. Suddenly she blurted out to her officemate: "Well, have you found a man yet?" The woman blushed miserably: "No, not yet." Her husband had left her, and she'd been living alone with her shame and humiliation, never inviting any of her friends to her empty apartment. "How about you?" she asked. "Yes, I'm seeing someone," the woman replied. Tears of joy welled up in her eyes.
    But she knew she was lost. From now on, she understood, she'd be chained to the pay phone, ringing her beloved at his mother's, or his wife's. To them she'd be known as that woman-the last in a series of female voices who had called the same numbers, looking for the same thing. She supposed he must have been loved by many women, all of whom he must have asked about his chances for promotion, then dumped. Her beloved was insensitive and crude-everything was clear in his case. There was nothing but pain in store for her, yet she cried with happiness and couldn't stop.

LUDMILLA PETRUSHEVSKAYA
Phong cảnh có bàn ủi

GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký!
Tiểu Thu

Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư…   và trong những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….




FB lại not OK. Có mấy cái hình nuy thần sầu, trong số PlayBoy mới, tính post lên Tin Văn qua FB, chưa kịp, uổng quá!
Có gì trục trặc với FB, mở với Ipad thì được, nhưng không làm sao post bài, hình ảnh, chán thế!
Đành ngắm thứ 'second hand" vậy!

Một vị bằng hữu/độc giả TV, nhận xét, 1 tên già mà còn ham hố, thì đó là nỗi nhục nhã của đàn ông, một khi, đàn bà, tới 1 tuổi nào đó, họ sống vì con cái của họ.
Không hẳn như thế, mà vấn đề là, cái nhìn - hoặc chiêm ngưỡng, hay thèm muốn - cái đẹp.
Sartre phán, "địa ngục là kẻ khác", là theo ý, khi bạn nhìn người khác, là biến người đó thành đồ vật.

Khác cái nhìn "chiêm ngưỡng và kính trọng"

Mi được hết rồi còn muốn gì nữa, cô bạn phán, những ngày Mậu Thân căng thẳng, sống chết bất cứ lúc nào, là có ý của cô.
Nhưng Gấu cũng có ý của Gấu.

Sự thực, riêng với anh, có lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một đối đầu, thách đố. Như thể, anh may mắn được gặp em, vậy là quá đủ rồi.
Như thể anh quá sợ, cuộc chiến lúc nào cũng soi mói, rình mò. "Mày chê tao nhơ bẩn, chắc gì mày đã hơn tao?", anh nghe như nó nói, với ánh mắt cười cợt, với nụ cười đe dọa. Như thể, anh càng yêu em trong sạch, thánh thiện, nghĩa là bình thường, giản dị chừng nào, cuộc chiến thua chúng ta chừng đó.
Tất cả cái xấu trong cõi đời này, là do lơ là, đối với một chút chi mong manh, dễ vỡ. Cái xấu hoàn toàn là do sự bất cẩn của chúng ta. Và cái tốt chỉ nẩy sinh, do sự kháng cự, chống lại nó*... Nhiều lần anh tự hỏi, chẳng lẽ giản dị như vậy sao, chẳng lẽ chúng ta giản dị chọn lựa sự lãng quên?


Note: Đây có lẽ là cái mẩu viết "thần sầu" nhất - trong cái ý vinh danh người phụ nữ - của GCC, về cô phù dâu ngày nào.
Nhớ, là, PCL, chủ biên trang VHNT trên lưới, quá mê, nhất là câu Gấu chôm của Bobin:

Không phải người ta viết để trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu.
Cầm dương xanh

Đâu con phố đơn côi,
như tên thường gọi,
nơi
gương cũ
bóng xưa
gặp gỡ?

Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet? (1)


... Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.

Anh biết, chẳng ai tin đôi trai gái yêu thương nhau ngần ấy năm trời chẳng hề có chuyện chiếm đoạt.

Họa là thánh, ngay cả những người bình thường nhất cũng tỏ vẻ nghi ngờ.

Hoặc ngần ngại, khi phải đưa ra một lời kết luận.

Hay là anh không thương em. Hay là em không thương anh, những ngày đó.

Sau ba mươi năm, anh tự hỏi.

 

Có lẽ không phải vậy. Anh thương em, như bất cứ một người nam thương một người nữ. Muốn sở hữu. Muốn chỉ là của mình. Nhưng đó là những lúc xa, thật xa em, tưởng tượng nếu có em lúc này, lúc nọ...

Khi gặp, anh chỉ thấy em thân thương, giản dị, như một đứa em ruột thịt. Anh chỉ thấy em, như những đứa em gái của em. Anh yêu em như yêu tụi nó.

Anh yêu em, như một người thân thương ruột thịt, mỗi lần anh trở về; bởi vì, ngoài em ra, đâu còn nơi nào để mà trở về?

 

Sự thực, riêng với anh, có lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một đối đầu, thách đố. Như thể, anh may mắn được gặp em, vậy là quá đủ rồi. Như thể anh quá sợ, cuộc chiến lúc nào cũng soi mói, rình mò. "Mày chê tao nhơ bẩn, chắc gì mày đã hơn tao?", anh nghe như nó nói, với ánh mắt cười cợt, với nụ cười đe dọa. Như thể, anh càng yêu em trong sạch, thánh thiện, nghĩa là bình thường, giản dị chừng nào, cuộc chiến thua chúng ta chừng đó.

Tất cả cái xấu trong cõi đời này, là do lơ là, đối với một chút chi mong manh, dễ vỡ. Cái xấu hoàn toàn là do sự bất cẩn của chúng ta. Và cái tốt chỉ nẩy sinh, do sự kháng cự, chống lại nó*... Nhiều lần anh tự hỏi, chẳng lẽ giản dị như vậy sao, chẳng lẽ chúng ta giản dị chọn lựa sự lãng quên?

 

Có những lần, anh đã trách em. Hình như em quên tất cả những một tí, những một chút kỷ niệm, Đâu có nhiều, tuy mấy năm trời quen biết. Nhưng sau này anh hiểu. Một lần lên xe, là cả quãng đời cũ xưa coi như đoạn tuyệt. Cha mẹ, anh em, còn cũng đành nữa là...

 

Đã từ lâu, anh đi đâu cũng có em. Anh gói em, ở nơi nương náu giản dị nhất: anh giấu em trong nỗi vui của anh như một tờ thư ngập ánh mặt trời.

(Cela fait longtemps que je ne sors plus sans toi. Je t’emporte dans la plus simple cachette qui soit: je te cache dans ma joie comme une lettre en plein soleil)*

 

Anh vẫn phục người Tây phương. Họ rất kính trọng những kỷ niệm riêng tư của nhau.

 

Hình như chỉ có một lần độc nhất, anh hôn em, từ phía sau, bên dưới mớ tóc, trong dáng đi vội vàng của em, sau khi vừa đi đâu về. Anh vô tình đụng tới tâm hồn, thể xác em, khơi dậy ở em, nữ tính, và anh thấy toàn thân em run rẩy. Và anh tự nhủ, sẽ chẳng bao giờ, chẳng bao giờ... nữa.

 

Rồi một lần trong những ngày Mậu Thân cay nghiệt. Bữa đó khuya, hai đứa ngồi nơi phòng khách. Trong khi nói chuyện, như vô tình, hoặc làm như vô tình, tự nhiên em nói: Anh được tất cả rồi, còn muốn gì nữa? Thoạt đầu, anh ngạc nhiên, rõ ràng là anh đâu muốn gì... anh như ú ớ biện minh với chính mình. Rồi anh hiểu, và anh vô cùng cảm động. Anh biết, em muốn nói, em thương anh, vậy là đủ rồi. Như thể em muốn nói một điều thật là giản đơn, cho nên cũng thật khó hiểu: em trở thành đàn bà, ngay phút đầu tiên chúng ta nhìn thấy nhau.

 

Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?

 

Bao nhiêu năm, anh vẫn thường tự hỏi, nếu không có những ngày tháng cay nghiệt đó, anh có thương em nhiều đến như vậy không.

Anh viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta.

J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies. *

 

Không phải người ta viết để trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu.**

Cái phần thiếu vắng, có thể là tất cả những gì anh đang tự hỏi.

Nguyễn Quốc Trụ

___________


*Christian Bobin: L’inespérée.

** Christian Bobin: La part manquante.

(1) Lời nhạc, theo Trúc Chi.

 

LONELY STREET

Where's this place called "Lonely Street?"
I'm looking for that lonely street
I've got a sad, sad tale to tell
I need a place to go and weep
Where's this place called Lonely Street?

A place where there's just loneliness
Where dim lights bring forgetfulness
Where broken dreams and mem'ries meet
Where's this place called Lonely Street?

Perhaps upon that Lonely Street
There's someone such as I
Who came to bury broken dreams
And watch an old love die.

A place where there's just loneliness
Where dim lights bring forgetfulness
Where broken dreams and mem'ries meet
Where's this place called Lonely Street?

Where's this place called Lonely Street?

 

(Song written by Carl Belew, Kenny Sowder, and W.S. Stevenson

and performed by Andy Williams)

 
Note: Cái tít của bài viết, là từ thơ Joseph Huỳnh Văn. 

V/v Sự thực, riêng với anh, có lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em.

http://www.tanvien.net/Viet/Surf_Tinvan.html

Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở đâu đó? 

Tuyệt!

Đúng ‘air’ Lý Thương Ẩn:
Gặp đã khó, xa nhau càng khó;
Có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực khó! (a)

(a) Có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực khó!

Đây là cái cực khó, vị thân hữu K., gọi là “Rule number One” của trang art2all!
Nói thì nói thế, thế mà GCC đã được chiêm ngưỡ
ng dung nhan vị K này, khi còn là 1 cô thiếu nữ Huế, giữa đám bạn học của cô.
Hình như có post lên TV, và K mail
hỏi, nè sao post hình tui, THNM ư?
Hà, hà!


Hihi, a2a rule No.#1 :


K

Tks and Best Regards and Take Care
GCC

Tiền kiếp của Gấu

Đây là câu chuyện tiền kiếp của Gấu, mê một em nhà giầu, đài gương chẳng thèm soi đến dấu bèo, bèn bịnh đến đi tầu suốt, trước khi đi, chỉ xin được hửi tay người đẹp, đến mãi mãi kiếp sau sau, đúng vào khi xẩy ra cuộc chiến Việt Nam, trước khi lừng lững khốc liệt đi vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, thì được toại nguyện.


Chuyện Tình

* *


Note: Bạn đọc TV, đọc truyện khùng, trong Kẻ Mạo Tiếng, chắc cũng hơi chan chán rồi?
Nếu vậy, mời đọc "Chuyện Tình", vừa điên, vừa khùng, vừa đáng sợ, của nhà văn "hàng đầu" - từ này thuổng, của ai, thì đừng bắt Gấu nói ra - của Liên Xô hiện đại.
Bèn giới thiệu 1 truyện, quá tình, quá thê lương, dưới đây.

Một em, già, không có lấy 1 mẩu tình yêu trong đời, năn nỉ bà mẹ rời căn phòng, đi hoang 1 bữa, để cô con gái mời anh bạn cùng làm trong sở về nhà…

A Murky fate

This is what happened. An unmarried woman in her thirties implored her mother to leave their studio apartment for one night so she could bring home a lover.
    This so-called lover bounced between two house-holds, his mother's and his wife's, and he had an over- ripe daughter of fourteen to consider as well. About his work at the laboratory he constantly fretted but would brag to anyone who listened about the imminent promotion that never materialized. The insatiable appetite he displayed at office parties, where he stuffed himself, was the result of undiagnosed diabetes that enslaved him to thirst and hunger and lacquered him with pasty skin, thick glasses, and dandruff. A fat, balding man-child of forty-two with end job and ruined health-this was the treasure our unmarried thirtysomething brought to her apartment for a night of love.
    He approached the upcoming tryst matter-of-almost like a business meeting, while she approached it from the black desperation of loneliness. She gave it the appearance of love or at least infatuation: reproaches and tears, pleadings to tell her that he loved her, to which he replied, "Yes, yes, I quite agree." But despite her illusions she knew there romance in how they moved from the office to her apartment, picking up cake and wine at his request; how her hands shook when she was unlocking the door, terrified that her mother might have decided to stay.
    The woman put water on for tea, poured wine, and cut cake. Her lover, stuffed with cake, flopped across the armchair. He checked the time, the fastened his watch and placed it on a chair. His underwear and body were surprisingly white and clean. He sat down on the edge of the sofa, wiped with his socks, and lay down on the fresh sheets. He did his business; they chatted. He asked again what she thought of his chances for a promotion and got up to leave. At the door, he turned back toward the cake and cut himself another large piece, then licked the knife. He asked her to change a three-ruble bill but, receiving no reply, pecked her on the forehead and slammed the door behind him. She didn't get up. Of course the affair was over for him. He wasn't coming back-in his childishness he hadn't understood even that much, skipping off happily, unaware of the catastrophe, taking his three rubles and his overstuffed belly.
    The next day she didn't go to the cafeteria but ate lunch at her desk. She thought about the coming evening, when she'd have to face her mother and resume her old life. Suddenly she blurted out to her officemate: "Well, have you found a man yet?" The woman blushed miserably: "No, not yet." Her husband had left her, and she'd been living alone with her shame and humiliation, never inviting any of her friends to her empty apartment. "How about you?" she asked. "Yes, I'm seeing someone," the woman replied. Tears of joy welled up in her eyes.
    But she knew she was lost. From now on, she understood, she'd be chained to the pay phone, ringing her beloved at his mother's, or his wife's. To them she'd be known as that woman-the last in a series of female voices who had called the same numbers, looking for the same thing. She supposed he must have been loved by many women, all of whom he must have asked about his chances for promotion, then dumped. Her beloved was insensitive and crude-everything was clear in his case. There was nothing but pain in store for her, yet she cried with happiness and couldn't stop.

LUDMILLA PETRUSHEVSKAYA
Phong cảnh có bàn ủi

GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký!
Tiểu Thu

Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư…   và trong những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….


FB OK l
ại rồi. Tks God!

FB lại not OK. Có mấy cái hình nuy thần sầu, trong số PlayBoy mới, tính post lên Tin Văn qua FB, chưa kịp, uổng quá!
Có gì trục trặc với FB, mở với Ipad thì được, nhưng không làm sao post bài, hình ảnh, chán thế!
Đành ngắm thứ 'second hand" vậy!

V/v "secondhand".

Jul 5, 2017

Giữa X và Y

José Saramago là một trong những nhà văn lớn nhất thế giới của quãng nửa thế kỷ vừa rồi. Giải Nobel Văn chương, nói vậy thôi, đôi khi cũng trao được cho các nhà văn vĩ đại đích thực (vậy là cũng đủ để bù cho những pha nhầm lẫn liên tục, mà gần đây nhất là: 1) Wisława Szymborska và 2) Svetlana Alexievich). Saramago là một sự tiếp nối huy hoàng Eça de Queiroz vĩ đại, Pessoa rất vĩ đại; Saramago thuộc thế hệ ngay sau Miguel Torga và gần đây dòng giống huy hoàng Bồ Đào Nha đã được tiếp nối bởi một nhân vật lớn: xem ở kia.

Nhận xét của NL, theo GCC, đúng và cũng không đúng. Về Saramago, đúng. Cho Saramago, đúng theo tính truyền thống, sau ông là cả 1 truyền thống văn chương.
Nhưng cho hai vị kia, quá đúng, vì theo tinh thần "lịch sử viết từ đáy", từ sự can đảm của, chỉ 1 cá nhân nhà văn.
Camus được Nobel, theo GCC, là cũng theo tinh thần này, khi 1 mình ông chống lại cả thế giới, qua tinh thần bài viết của Milosz về Camus.
NL cũng chê rầm trời Camus!
Sự can đảm của chỉ "1" ngòi viết, là điều mà nhà văn Mít, nhất là nhà văn Bắc Kít, không có.
Với Ba Lan, cả hai người được Nobel, là Szymborska, và Milosz - Ba Lan Tam Kiệt , đều "không xứng đáng", nếu so với  Zbigniew Herbert.
Charles Simic cũng nhận ra điều này, khi đọc họ.

Thì thầm muộn trong đêm từ Ba Lan

Thực sự đáng kể, là con số khá nhiều nhà thơ tuyệt vời Ba Lan đã đến với thế giới trong thế kỷ vừa qua. Quả là 1 thành tựu lạ kỳ của một xứ sở được coi như là một “short cut” [đường cắt ngắn, lối đi tắt…] giữa hai cuộc thế chiến, bởi cả hai quân đội Đức và Nga, xâm lăng, rồi rút lui, và, không chỉ vẽ lại bản đồ biên giới, và chiếm giữ đất nước trong nhiều năm, mà còn làm thịt hàng triệu người Ba Lan, tống xuất, lưu đầy hàng triệu người Ba Lan khác. Có lẽ, như Czeslaw Milosz phán, vào năm 1965, trong lời tựa cho 1 tuyển tập thơ của ông, rất được ái mộ, Thơ Ca Hậu Chiến Ba Lan, một nhà thơ bò lồm ngồm ra khỏi đáy của con tầu lịch sử, thì đúng là đã được sửa soạn đầy đủ, thông tri đầy đủ… để đóng cái vai nhà thơ, và thi hành OK những trách nhiệm được trao cho anh ta, hơn là ba thứ cà chớn khác, tức những đồng nghiệp văn hữu, thi hữu của anh ta, ở trong những xứ sở hạnh phúc hơn. Đối với chúng ta, ông [Milosz] nói, “lịch sử thì thực cực kỳ thực. Điều này chưa chắc đã đúng, đối với những nhà thơ Mẽo, thí dụ, nhưng đối với chúng ta [những nhà thơ Ba Lan], nó quá đúng, quá đúng, là 1 phần của thực tại”.

Nghe thì có vẻ thật là bùi tai, nhưng cũng lại chính Milosz, ở 1 chỗ khác, phán, chỉ một phần trăm rất nhỏ của nhân loại đau khổ cực kỳ may mắn được bò vô văn chương, thơ ca, trong khi đa số, hoặc hầu hết nhân loại, biến mất, chẳng để lại 1 tí dấu vết. Rất nhiều quốc gia trải qua rất nhiều đau thương tang tóc, kinh hoàng, man rợ… tương tự như Ba Lan, nhưng mà sau đó trở thành câm, hoặc cả nước bị Sáu Dân, Tấn Dũng… bịt miệng, thành thử cái chuyện thơ ca bảnh tỏng như Ba Lan hậu chiến có thể còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác, ngoài yếu tố lịch sử của nó.

Mặc dù vậy, chỉ một cái nhìn thoáng qua cuộc đời ba nhà thơ Ba Lan được đề cập tới ở đây, là ngộ ra liền tù tì, là có ngay 1 kết luận không thể chệch đi đâu được: Sự chán chường, và sự vi phạm đạo đức, về những gì xẩy ra cho đất nước của họ, là yếu tố quyết định đối với mỗi một người trong cả ba.


Camus
by Milosz
Camus, Albert

Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con người tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết,  nói theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.

Trường hợp Svetlana Alexievich, theo GCC cũng quá xứng đáng.
Cái xã hội xứ Mít bây giờ, chẳng phải là thứ xài rồi, xài lại ư?
Trước 1975, chỉ có Miền Bắc sống cái xã hội này, sau 1975, họ sống lại nó 1 lần nữa.
Miền Nam sau 1975, được thưởng thức nó lần đầu.
Nhận xét của Bà, trong diễn văn Nobel, đúng là về xứ Mít:

During her Nobel lecture on Monday, the Belarusian journalist said “a time full of hope has been replaced by a time of fear”. Alexievich, whose oral histories tell the stories of thousands of individuals from the Soviet Union, said that “the era has turned around and headed back in time. The time we live in is secondhand.”

Thời mà chúng ta đang sống là thứ thời xài rồi, khi mà thay vì tràn trề hy vọng, thì là tràn trề sợ hãi.
Khi viết về lũ Ngụy bỏ chạy tán loạn, vào ngày 30 Tháng Tư, lũ Bắc Kít thường rất là tự hào, cái gì gì 1 triệu tên Ngụy tan tác, chúng không hề hiểu ra được, lũ Ngụy, nhìn chiến thắng của Bắc Kít, đúng như bà Nobel, nhìn, về xứ Liên Xô của Bà.
Cả một miền đất không nhận ra, khi chúng giết Miền Nam, chúng thay thế “tràn trề hy vọng” bằng “tràn trề sợ hãi”.
Vậy mà không xứng đáng được Nobel?


Happy Birthday to U, Richie
5.7.2017
To K. O.

M
ất hết e-mail?
Thảo nào no mail
How Can I Survive....?
Take Care
GCC

V/v Nhân vị bằng hữu Lan Nguyễn nhận xét, đàn bà không chung tình so với đàn ông; GCC không nghĩ vậy.

Đàn bà giấu kỹ lắm, tình yêu của họ. Bà má của em chủ trại Cây Sồi, trong Cuốn Theo Chiều Gió, trước khi chết, thì mới kêu tên người yêu đầu đời của bà, kêu lớn 1 phát, hay, hai phát, không nhớ rõ mấy phát, rồi đi!
Bài thơ Ti gôn mà không vậy ư? Rồi từng thu chết, từng thu chết, vẫn giấu trong tim một bóng người?
Quả có chuyện, chuyện tình, vĩ đại, nhưng GCC sợ rằng, đàn bà yêu bảnh hơn đàn ông!

Anh được hết rồi, còn muốn gì nữa?

Cái cô bạn của GCC, và của Gấu Cái, tức cô phù dâu, trong 1 đêm Mậu Thân, đã từng phán như thế, khi thấy Gấu quá cù lần, theo GCC thì cũng đâu thua gì... đàn ông, trong tình trường?
Cô cũng là tác giả câu thơ quá đỗi thần sầu, về thân phận người phụ nữ Việt ở hải ngoại:

Hồn Đông Phương thất lạc, buồn Tây Phương

Anh đâu phải là tôi, anh đâu phải là đàn bà, mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của tôi, như thế?

Cô đã từng nhận xét về bài viết đầu tay của Gấu, khi mới ra hải ngoại!
(1)

http://www.tanvien.net/Notes_2/souvenir_1.html

Cái mẩu sáng tác đầu tiên, khi tới xứ lạnh, Ký Ức Còn Mãi, Gấu viết theo ‘order’, của một đệ tử của NTV, tay này lúc đó phụ trách một đặc san sinh viên học sinh Mít, Gấu nhớ đại khái.
Cô bạn là người đầu tiên đọc bản thảo, than, anh đâu phải là tôi, anh đâu phải là đàn bà, mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của tôi, như thế?
Còn Gấu Cái, thì bực lắm, và, lẽ dĩ nhiên, chê, đúng là thứ văn cải lương, vãi lệ!
Mẩu văn sau mất tiêu luôn cùng tờ báo, và Gấu viết lại, nhưng, mất mát, phiêu lạc, quên lãng, tất cả, chỉ còn một câu độc nhất:
Tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con, với cuộc đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ tiếng vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ…(1)


Chuyện Tình

Thư Tình nơi Sofa

Phong cảnh có bàn ủi

GCC mê nhất 1 câu, nhớ đại khái, thằng cha này, sống đời với nó, cực khó, nhưng chết chung, thì OK
Có em nào muốn, chuyện này, thì đăng ký!

Tiểu Thu

Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư…   và trong những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….


Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.

"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.

Ai cho phép mi là thi sĩ?

Bữa này SN anh cu Lùn mà không làm sao upload pix lên Tin Văn
Và cũng không làm sao vô FB, để tks những vị mới cho phép GCC kết bạn
Tks all here.
NQT
Anh Cu Lùn sợ ông không về kịp Canada để
 Happy Birthday to U, Richie Hiếu!
5.7.2017

*

Tuổi Thiên tài : Một truyền thuyết về Schulz  ( David Grossman / Đặng Lệ Khánh)

Note: Quà SN năm nay
Tks
NQT

Tuổi thiên đường  ( Nguyễn Quốc Trụ)

Tuổi Thiên tài  ( Nguyễn Quốc Trụ)

Note: Đây là cái bản gốc, nhờ nó, vị chủ nhân trang art2all đành bỏ chút thì giờ dịch trọn bài trên NY của David Grossman.

(1) Ui chao bạn có nhớ cái đoạn TTT kể chuyện lần đầu tiên đọc MT, và sau đó, mời MT tới tòa soạn chơi, và MT tâm sự, anh mà chê nó, là tôi bỏ cái mộng “đành làm” nhà văn, “đành” đi buôn!
Ui chao, đọc một cái là Gấu nhớ đến cái lần gửi bản thảo truyện ngắn đầu tay xuống tòa soạn Sáng Tạo, và một buổi tối, tới nhà, nghe Cụ C. nói, mày viết truyện ngắn hả, tao nghe thằng T nói, mà nó còn nói, mày viết được lắm....
*
Gấu có tới ba cái truyện ngắn đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay, tính theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, trang VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel, theo nghĩa, chẳng có cái chó gì hết ở trong đó.

Quả thế thật. Đây là câu chuyện mà Gấu còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em mời ngồi bàn, ở hành lang căn nhà, một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi em ngồi cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ mình là những cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó trời mưa. Ra đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại sao trời mưa?



Tuổi Thiên tài : Một truyền thuyết về Schulz  ( David Grossman / Đặng Lệ Khánh)

Note: Quà SN năm nay
Tks
NQT

Trong bài Tuổi Thiên Đường, anh có nhắc về Schulz, và có dịch một đoạn nhỏ của bài Age of Genius . K xin tách bài này làm hai : Tuổi Thiên Đường và Tuổi Thiên Tài . Tuổi thiên đường chỉ nói về NQT thôi, và Tuổi Thiên Tài sẽ nói về Schulz . Bài trong NY hay quá, K sẽ gắng dành chút thì giờ ra dịch hết ( 22 trang!) để bổ túc cho bài Age of Genius anh dịch dở dang .

Đặng Lệ Khánh

David Grossman

TUỔI THIÊN TÀI *

Truyền thuyết về Bruno Schulz

 

Tuổi thiên đường  ( Nguyễn Quốc Trụ)

Tuổi Thiên tài  ( Nguyễn Quốc Trụ)

Note: Đây là cái bản gốc, nhờ nó, vị chủ nhân trang art2all đành bỏ chút thì giờ dịch trọn bài trên NY của David Grossman.

(1) Ui chao bạn có nhớ cái đoạn TTT kể chuyện lần đầu tiên đọc MT, và sau đó, mời MT tới tòa soạn chơi, và MT tâm sự, anh mà chê nó, là tôi bỏ cái mộng “đành làm” nhà văn, “đành” đi buôn!
Ui chao, đọc một cái là Gấu nhớ đến cái lần gửi bản thảo truyện ngắn đầu tay xuống tòa soạn Sáng Tạo, và một buổi tối, tới nhà, nghe Cụ C. nói, mày viết truyện ngắn hả, tao nghe thằng T nói, mà nó còn nói, mày viết được lắm....
*
Gấu có tới ba cái truyện ngắn đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay, tính theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, trang VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel, theo nghĩa, chẳng có cái chó gì hết ở trong đó.

Quả thế thật. Đây là câu chuyện mà Gấu còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em mời ngồi bàn, ở hành lang căn nhà, một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi em ngồi cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ mình là những cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó trời mưa. Ra đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại sao trời mưa?

*

@ Indigo, 30 Oct 2014

Nostalgia for the Present
At that very instant:
Oh, what I would not give for the joy
of being at your side in Iceland
inside the great unmoving daytime
and of sharing this now
the way one shares music
or the taste of fruit.
At that very instant
the man was at her side in Iceland.
-A.S.T.
J.L. Borges

Hoài nhớ hiện tại
Vào cái khoảnh khắc rất khoảnh khắc này
Ôi sung sướng làm sao
Nếu có em kế bên ở tiệm cà phê Starbucks
Trong cái buổi sáng lớn lao không chuyển động
Và chia sẻ điều này, bây giờ,
Cách người ta chia sẻ âm nhạc
Hay vị trái cây
Vào cái khoảnh khắc rất khoảnh khắc đó
GCC thì ngồi với em ở 1 tiệm cà phê Starbucks ở Tiểu Sài Gòn.

Note: Bài thơ này, đúng là ý của Brodsky, thơ là thời gian được cấu trúc lại, cái gì gì, "giọt mưa Trời khóc từ ngàn năm trước, sao lúc này lại ướt trên lưng bàn tay GCC?"

Nhưng, kỳ lạ thay, cái hoài nhớ hiện này, chính là ý của Nguyễn Du, khi ông viết, nhớ đại khái, mai sau dù có bao giờ, đốt lò hương cũ, so lại sợi giây đờn này.
Khi dịch từ Everness, của Borges, GCC chôm đại Nguyễn Du, không ngờ thật đắc địa.
Everness, là từ Borges chôm, để thay cho từ eternity. Trong Borges Tám Bó, ông đi 1 đường thần sầu về từ này.
There is also that wonderful word invented by Bishop Wilkins in the seventeenth century, a word so fine that no poet has ever dared to use it. He invented two words. One, everness, and I was bold enough to use that as the title for a sonnet of mine, "Everness." Because everness is better than eternity. It goes with the German Ewigkeit. Then another word like doom, a word far better than that line I like so much in Dante:
Lasciate ogni speranza voi ch'entrate "Abandon all hope you who enter here."

Nghe Nói Mùa Thu Ở Đây Đẹp Lắm

 *

*

L'AUTOMNE

Un cheval s'écroule au milieu d'une allée
Les feuilles tombent sur lui
Notre amour frissonne
Et le soleil aussi.

Mùa Thu

Ngựa quị giữa lối đi
Lá thu phủ lên ngựa
Tình đôi ta run run
Và mặt trời cũng rứa.

Paroles

BARBARA
Jacques Prévert
Nguồn

[Bài thơ này, TTT cũng đã từng dịch.
Bạn nào còn giữ được, thêm vô đây, làm thế chân vạc.
Thi sĩ còn viết tựa
Tựa cho tập thơ của Trần Lê Nguyễn,
cũng có tên như của Prévert. NQT] 


 Thơ Mỗi Ngày

Thu 2014

L'adieu

Apollinaire (1880-1918)

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

The Farewell

I picked this fragile sprig of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together

Translated from the French by Roger Shattuck

[Time of Grief]

Rilke

Robert Hass

SEPTEMBER 19

Rainer Maria Rilke: Herbsttag

Rainer Maria Rilke is one of the great poets of the twentieth century. He's also one of the most popular. He's been translated again and again, as if some ideal English version of his German poems haunted so many minds that writers have had to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some translations of a poem about the fall. He wrote it in Paris on September 21, 1902.

Autumn Day

Rilke là 1 trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông. Ông được dịch đi dịch lại, như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông ám ảnh rất nhiều cái đầu, và những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó. Đây là bài thơ cho mùa thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.

Note: Bài viết sau đây, của Bùi Giáng, về bài Mùa Thu Chết, trong Đười Ươi Chân Kinh. Do không vô được FB, và do Nestcape không cho post images nữa, cho nên Tin Văn đành type bài của BG. Thi sĩ kể, ông dịch bài thơ như thế nào

Apollinaire

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi

L’adieu

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó

Bài thơ vỏn vẹn chỉ có năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại – năm câu cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi \
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…

Dịch làm sáu câu, tôi có phần áy náy…
[suite]


 

Apollinaire: Alcools

 

 

Mùa thu bịnh

 

Mùa thu bịnh và đáng mê làm sao
Mi sẽ chết khi bão thổi qua những vườn hồng
Khi tuyết xuống
Trong những vườn cây

 

Mùa thu đáng thương, tội nghiệp
Chết trong cái màu trắng, trong cái giầu sang
Của tuyết và của trái chín
Ở nơi cuối trời
Những cánh chim bồ cắt bay lượn
Bên trên những thuỷ thần già, tóc xanh và lùn
chẳng bao giờ yêu

 

Ở nơi bìa rừng
Những con hươu thèm nhau, rền rĩ

 

Ui chao, mùa thu, mùa, tôi mới yêu làm sao
Những tiếng thì thầm của nó
Những trái cây rụng xuống, không ai hái
Gió và rừng đều thi nhau khóc


Tất cả những giọt nước mắt, mùa thu, lệ thu, từng chiếc, từng chiếc
Những chiếc lá con người dẫm lên
Một con tàu chạy
Và đời cứ thế mà trôi đi.

 

~~oOo~~

 

Automne

 

Dans le brouillard s'en vont un paysan cagneux
Et son bœuf lentement dans le brouillard d'automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux 

 

Et s'en allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d'amour et d'infidélité
Qui parle d'une bague et d'un cœur que l'on brise

 

Oh! l'automne l'automne a fait mourir l'été
Dans le brouillard s'en vont deux silhouettes grises

 

Apollinaire

 

 

Mùa Thu

 

Trong sương mù, một người nhà quê đi, chân liềng khiềng
Và con bò của anh ta lừng khừng đi trong sương mù mùa thu
Lấp ló trong lớp sương mù là những thôn xóm nghèo nàn và xấu hổ

 

Và trong khi đi như thế, anh nhà quê ư ử hát
Một bài tình ca và sự không trung thuỷ
Nói về một cái nhẫn và một trái tim mà người ta làm tan nát

 

Ôi mùa thu, mùa thu làm chết đi mùa hè
Trong sương mù cập kè hai cái bóng xám
 

Nguyễn Quốc Trụ dịch


To K: Hai bài về Thu, hình như bị bỏ sót, trên trang NQT, trên art2all.


Nghe Nói Mùa Thu Ở Đây Đẹp Lắm

THAT ELUSIVE SOMETHING

Was it in the smell of freshly baked bread
That came to greet you out of the bakery?
The sight of two girls playing with dolls
On the steps of a building blackened by fire?

In this city you might've seen once
In a dream or knew in another life,
This street calm as a sharpshooter
Taking his aim in the bright sunlight,

Perhaps at that woman turning a corner,
Pushing a baby carriage ahead of her,
You ran after, as if the child in it was you,
And found yourself lost afterwards

In a crowd of strangers, feeling like someone
Stepping out after a long illness
Who can't help but see the world with his heart
And hopes not to forget what he saw.

Điều khó nắm bắt

Mùi bánh nướng mới ra lò
Ở bên ngoài một tiệm nướng bánh
Chào mừng bạn?
Hai cô bé chơi đùa với búp bế
Ở bực thềm tòa nhà nám đen vì lửa?

Trong thành phố bạn có thể có lần đã nhìn thấy
Ở trong một giấc mơ
Hay trong một đời khác
Con phố này mới êm ả làm sao
Khi tay thiện xạ chỉnh tầm ngắm của mình
Trong ánh mặt trời rực rỡ

Có lẽ anh ta nhắm người đàn bà quẹo ở góc phố
Đẩy cái xe con nít trước bà ta
Bạn bèn chạy vội theo
Như thể, đứa bé chính là bạn
Và đúng lúc đó, thấy mình thất lạc, đời đời, sau đó.

Trong đám đông toàn người xa lạ
Cảm thấy mình là 1 người nào đó
Bước lại vào đời, sau trận đau dài - những tám mươi năm –
Một anh già cằn không thể nào không nhìn đời với trái tim cù lần của mình
Bèn hy vọng, chẳng bao giờ quên
Đời này.

To: DS, "vẽ nqt"
and Tks

FAIR-WEATHER FRIENDS

Eddie with flowing locks, plus Joey and me,
Like Jesus and two thieves
Crucified side by side on the blackboard,
Our backs slumped in defeat
While awaiting our punishment.

The Lord took pity on them, wiped
Their souls clean with a sponge.
Not mine. I remained where I was
Holding on to a piece of chalk
Long after they had all gone home.

Night already fallen everywhere,
Hard to be sure what numbers
Still remain there to be added
Or subtracted or whether someone
Is watching as I give them a last try.

Bạn quí
Definition of fair–weather
    1
    :  loyal only during a time of success a fair–weather friend
    2
    :  suitable for or done during fair weather a fair–weather sail

Ông chủ vựa than với mớ tóc lượn sóng, Khô Khốc Thiền Sư, và Gấu Cà Chớn
Như Chúa Jesus và hai tên trộm
Bị đóng đinh thập tự kế bên nhau trên tấm bảng đen
Lưng sụm xuống, trong thất thế
Chờ tới giờ trừng phạt

Chúa hãy thương hại chúng
Rửa sạch linh hồn chúng, với tấm bọt biển
Xin lỗi Chúa 1 phát
Không có GCC.
Thằng chả ở đâu vẫn ở đó
Tay khư khư mẩu phấn trắng
Lâu thật lâu,
Trong khi hai đấng bạn quí đã trở về nhà.

Đêm xuống mọi nơi
Thật khó mà nhớ được mấy con số
Chúng vẫn còn đó
Con nào thêm vô
Con nào gạch bỏ
Hay một người nào đó
Đang theo dõi GCC
Khi thằng chả cố gắng thử cú chót.

Simic: Scribbled in the Dark


*


Volkov. When you write poetry, are you addressing some assumed audience?
Brodsky. You know, how did Stravinsky answer a similar question? I believe Robert Craft asked Stravinsky, "Who do you compose for?" And he replied, "For myself and for my hypothetical alter ego." That's it.

Volkov. In your case, does this hypothetical alter ego speak Russian?
Brodsky. The hell if I know. That’s his business


Khi làm thơ, bạn nhắm thứ thính/khán/độc giả nào?
Bạn biết Stravinsky trả lời sao không? Được
Robert Craft phỏng vấn, soạn nhạc cho ai, ông ta trả lời, cho chính tôi và tên thế thân giả dụ của tôi.


 Thơ Mỗi Ngày

*

Chuyện
Chuyện đời chúng ta, hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào

Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may

Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là...  chuyện

Note: GCC dùng Ipod chôm bài thơ trên, tính không mua. nhưng lật lật, thấy được quá, bèn...

Simic: Scribbled in the Dark

http://tuvala.blogspot.ca/2012/04/jorge-luis-borges-everness.html

Tuesday, April 17, 2012

Jorge Luis Borges: "Everness"

Everness

One thing does not exist: Oblivion.
God saves the metal and he saves the dross,
And his prophetic memory guards from loss
The moons to come, and those of evenings gone.
Everything is: the shadows in the glass
Which, in between the day’s two twilights, you
Have scattered by the thousands, or shall strew
Henceforward in the mirrors that you pass.
And everything is part of that diverse
Crystalline memory, the universe;
Whoever through its endless mazes wanders
Hears door on door click shut behind his stride,
And only from the sunset’s farther side
Shall view at last the Archetypes and the Splendors.


Translated from Spanish by Richard Wilbur

This poem was given me by Jacques Felix, in his comment to my previous post on Borges' The Immortal. It bears the mark of Borges, all right. The first line unlocks the door into the Borgesian universe. 
Oblivion does not exist, because the universe is a memory, a consciousness. We are parts of the universe, meaning we are the universe itself, and are expressions of that memory, that consciousness. "Everything is".
The blankness of oblivion is mirrored by the sparkly, shiny image of the stars and moon, by mirrors themselves, and by crystal - "[a]nd everything is part of that diverse / Crystalline memory, the universe".
And the last line brings back the everness: the Archetypes and the Splendors.
This poem is so simple yet so intricate and deep. Time is nowhere - the universe is a memory, a consciousness.

Note: Bài thơ này, Tin Văn đã post & dịch cái tít là "Mai sau dù có bao giờ", thuổng Nguyễn Du. Thú vị là thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn, cũng có 1 bài thơ, sử dụng cụm từ Mai sau dù có bao giờ. Post sau đây, bonus cái note của Norman Thomas Di Giovanni, về từ Everness

Mai sau dù có bao giờ

Nguyễn Bắc Sơn

Đêm Phù Cát dù bên ngoài trời rất lạnh
Nhưng trong ngôi nhà tranh của thiếu úy Hồ Bang
Có tình bạn nồng nàn như rượu chôn nhiều năm dưới đất
Có câu chuyện tình thi vị mang mang

Vì đàn bà người nào cũng như người nấy
Nên ta bảo mình thôi hãy quên em
Nhưng đàn bà đâu phải người nào cũng như người nấy
Nên suốt đời ta nhớ nhớ quên quên

Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi

Dù mỗi ngày ta xé đi năm mười tờ lịch
Nhưng thời gian đâu có chịu trôi nhanh
Dù đen bạc là nơi cố xứ
Nhưng đi biền biệt cũng không đành…

EVERNESS, p. 187
The word "everness" was coined by John Wilkins, the seventeenth-century English churchman and inventor of a universal philosophical language.
The title of the companion sonnet, "Ewigkeit," is German for "eternity. "

Không làm sao kiếm thấy bản tiếng Mít!





The City

At least one crucified at every comer.
The eyes of a mystic, madman, murderer.
They know it's truly for nothing.
The eyes do. All the martyr's sufferings
On parade. Exalted mother of us all
Tending her bundles on the sidewalk,
Speaking to each as if it were a holy child.

There were many who saw none of this.
A couple lingered on kissing lustily
Right where someone lay under a newspaper.
His bloody feet, swollen twice their size,
Jutted out into the cold of the day,
Grim proofs of a new doctrine.

I tell you, I was afraid. A man screamed
And continued walking as if nothing had happened.
Everyone whose eyes I sought avoided mine.
Was I beginning to resemble him a little?
I had no answer to any of these questions.
Neither did the crucified on the next comer.

Thành Phố

Ít nhất một người bị đóng đinh thập tự ở mọi góc phố.
Những con mắt của một kẻ thần bí, một gã khùng, tên sát nhân.
Họ biết, ích chi đâu.
Ánh mắt nói lên điều đó.
Mọi khổ đau của kẻ tuẫn nạn
Diễu hành
Bà mẹ, huyền thoại, được tâng bốc, của tất cả chúng ta
Nâng niu những gói, bọc bên lề đường
Nói với chúng, như với 1 đứa bé thần thánh

Rất nhiều người chẳng nhìn thấy cảnh đó
Một cặp dính chặt vào nhau
Ngay chỗ 1 người nằm trên một tờ báo
Chân, máu me, trương gấp đôi 
Lòi ra ngoài, vào cái lạnh của ngày
Chứng cớ tàn nhẫn của một lý thuyết mới

Tớ nói cho bạn nghe này, tớ sợ.
Một người đàn ông la lớn
Và tiếp tục bước, như chẳng có gì xẩy ra
Bất cứ một ai, ánh mắt của tớ bắt gặp, thì đều tránh, ánh mắt của tớ.
Liệu chăng, tớ bắt đầu giống anh ta, tí tí?
Tớ không làm sao trả lời, cho bất cứ 1 câu hỏi
Cái gã bị đóng đính ở góc phố tới, cũng không.

Charles Simic:
from Hotel Insomnia, in New and Selected  Poems [1962-2012]




Không vô được FB. Không post bài mới được. Sorry. Rất mừng vì mới kết bạn fb với mấy vị bằng hữu. Tks & Take care
NQT
Tờ Playboy số mới nhất có những bức thần sầu, nhưng vô phương post trên Tin Văn, chán thế.
SN năm nay thiếu mấy cái hình "nuy" của Playboy quả là 1 thiếu sót lớn!

gửi chú, một mùa hè thật tươi khoẻ với cô chú
những dẫn nhập không số
thế là tháng tới thượng thọ. 80 có gì mới? 80 khoẻ mạnh. 80 cù nhầy. 80 tròn đầy. với 3 số 0. được xếp trên dưới trước sau. những chồng chất tháng ngày được làm giàu cho chữ nghĩa. chỉ là thế. đi hoài trên một con đường không cũ. cám ơn ông để cho viết. cảm ơn ông cho những (dẫn) nhập nhằng không số. được lằng nhằng một lần. được nhùng nhằng một chốc. và chỉ có vậy.
cho tôi thử vẽ ông. không bằng màu. không bằng sắc. chỉ bằng những con chữ mà ông đã nâng niu và yêu quí tự ngày nào. trong suốt 80 năm nay   

vẽ n.q.t
 
lăn. cù mèo. trong mớ giấy. vụn
những con đường. bác học
buổi sớm. có nghe tiếng. hót
những. con chim lạ. giờ. bay mất
ngang qua. ngôi nhà. bán ve chai
hầm bà lằng. xắn cấu
tiếng rít xe. điện
nóng. đến bỏng da. sa mạc
hằn những. ốc đảo cao. vợi
lúc nhúc bóng. người
cái chết. đã từ bỏ. loài người
qua một. nhánh sông nhớ
cây cầu đứng. đợi mùa lá. rơi
có quá là. ghê gớm
khi. đi qua. 80 lần. thời gian
những. mốc thời gian. tượng hình
tàu. há mồm
chiếc thang. treo lơ. lửng
trên nóc. toà đại sứ
và những. con tàu nhỏ. lẫn trong biển. đen
54 . 75. 94
nhìn ra. sự khâu vá. là không
cần thiết. trong. đêm
tiếng. xổn xoảng của. những gì gì
đi qua. cũ. mới
cái ác. không. bao giờ
đụng được. đáy
nghe tịch lặng. trong buổi chiều
gió biển. con hải âu già. khập khiễng
trang giấy. căng đầy. chữ
chỗ visit. của nghìn cái. đọc
ậm ự. trong câu nói. hờ
tuột con dốc. chí mạng
những công việc. đều giống. nhau
đầm đìa trong. kỷ niệm
thấy. một người. nhảy xuống. thác
niagara. tự vẫn
có ngưòi bảo. nguời tự vẫn
cố bơi vào. tôi thấy. dáng nằm của người
đang ngủ. đợi cái chết. dưới chân thác
cứ giả dụ. như
như ngày. hôm qua
giọt nước. nghìn năm
nhỏ xuống. nhánh hồng. đen
làm run lên. một giấc mơ
và ở lại. mãi đến. ngày mai
80 lần. thời gian trở lại. tìm. người
DS
 
Tks
NQT



Cuốn "Một con gió bụi", một cách nào đó, là bản cáo trạng Vẹm, ngay từ những ngày đầu tiên chúng có mặt ở trên cõi đời này, cái gì gì một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra.
Cái chuyện cấm nó, thì là tất nhiên rồi, nhưng cái chuyện cho in nó, mới thật là quái dị.
Thầy Kuốc đã từng phán, cả nước VC mù chữ, có thể đúng như thế.
GCC nhớ là, đọc lần đầu, khi còn học trung học, nhớ đại khái, TTK tả cái cảnh đến gặp lũ nhóc Vẹm, tên nào tên đó bặm chợn, chỉ có biết mỗi 1 chuyện giết người, và khi ra về, ông than, lũ này sẽ đánh thắng thằng Tẩy, công lớn, nhưng tội cũng lớn.
Câu than của ông, chỉ đúng có 1 nửa.
Nửa cái bánh mì!

Cuộc chiến chống Pháp, là cơ hội cho Vẹm giết sạch các đảng phái Cách Mạng. TTK không nhìn ra cái dã tâm của Vẹm. Thê thảm hơn nữa, do đánh Tẩy mà rước hoạ Tầu Phù vô giường!
Thay đế quốc Tẩy bằng thằng Tẫu Đỏ, hiện tình xứ Mít như hiện nay, theo GCC, vô phương cứu chữa.
Phải có 1 tên, phải 1 tên Bắc Kít, dám kết án cả hai cuộc chiến, chỉ là "Tội và Tội", thì mới có cơ may sám hối.
Sám hối đã, rồi tính tiếp.

GCC có đọc 1 vài tài liệu của Tẩy, thời kỳ 1945. Chúng gọi là hoà bình bỏ lỡ. Nên nhớ thằng Tẩy có lại được xứ Đông Dương, là nhờ Đồng Minh. Chúng cũng bị Nazi đô hộ vậy. Cái nhục đó, đến bây giờ, chưa xong với nó, chứng cớ là Nobel cho anh Tẩy, vì viết về những ngày đen tối của nước Pháp khi bị Nazi đô hộ. Chúng thực tình muốn hoà, không hề muốn đánh. Nhưng Vẹm, không thể không đánh. Chỉ có mỗi 1 đường đánh Tây, thì mới nhân đó làm cỏ sạch các đảng phái khác. Phạm Quỳnh chẳng đã than, không có thằng Tây, là thằng Mít chết. Ông hiểu rõ cái độc cái ác của Mít, của Á Châu, và cái gọi là văn minh Tây Phương, mà ông là 1 đứa học trò của nó, như nhiều người khác. GCC không tin, ông nhận ra cái bóng kẻ thù ngồi đằng sau vua, như trong truyện My Châu, Trọng Thủy. Nhưng Solzhenitsyn thì lại nhìn ra, bảnh thế.
Cuộc chiến chống Mỹ cũng do Bắc Kít tìm đủ mọi cách cho nó xẩy ra.
Cả hai cuộc chiến đều có thể tránh được hết. Nhưng làm sao tránh, Vẹm cố tình làm cho chúng phải xẩy ra.

On Foldenyi

Alberto Manguel
[Table Talk, from The Threepenny Review]

I owe the discovery of Laszlo Foldenyi to Cees Nooteboom, who, in one of his epistolary assaults, insisted that I should read him and sent me a Spanish translation of one of his essays, Dostoyevsky reads Hegel in Siberia and bursts into tears. Among the many paths that lead us to read a book (all of which have something mysterious about them) is that of the title. We may not be immediately attracted to a book called The Divine Comedy or Les contemplations, but only a soul of stone can resist Dostoyevsky reads Hegel in Siberia and bursts into tears. I read it immediately in one sitting, and then again, and then once again, for luck. The contents amply justified the magnificent title. My ignorance of Hungarian is word-perfect: my reading was therefore limited to only a few of Foldenyi's works in Spanish and German, and yet it was enough to judge him, in my view, a brilliant, original, clear-cut thinker whose illuminations I gladly followed through philosophical, historical, and aesthetic considerations. His books on melancholia, art, and criticism are masterworks.
    Long ago, Copernicus's discoveries shifted the self-centered vision of our world to a corner that has since constantly shifted further and further towards the margins of the universe. The realization that we human beings are aleatory, minimal, a casual convenience for self-reproducing molecules is not conducive to high hopes or great ambitions. And yet, what Nicola Chiaromonte called "the worm of consciousness" is also part of our being, so that, however ephemeral and distant, we, these particles of stardust, are also a mirror in which all things, ourselves included, are reflected. This modest glory should suffice us. Our passing (and, on a tiny scale, the passing of the universe with us) is ours to record: a patient and bootless effort begun when we first started to read the world. What we call history is that ongoing story which we pretend to decipher as we make it up. This Dostoyevsky fully understood when he said that, if our belief in immortality were destroyed, "everything would be permissible." Like history, immortality need not be true for us to believe in it.
    From the beginning, history is the story told by its witness, true or false. In the Book VIII of the Odyssey, Odysseus praises the bard who sings the misfortunes of the Greek" as if he had been there or heard it from the lips of another." The "as if" is of the essence. History then is the story of what we say has happened, even though the justifications we give for our testimony cannot, however hard we try, be justified. Centuries later, in a dusty German classroom, Hegel would divide this "invention of what took place" into three categories: first, history written by its assumed direct witnesses (ursprungliche Geschichte); second, history as a meditation upon itself (reflektierende Geschichte); third, history as philosophy (philosophische Geschichte), which eventually results in what we agree to call world history (Welt-Geschichte), the never-ending story that includes itself in the telling. Immanuel Kant had earlier imagined two different concepts of our collective evolution: Historie to define the mere recounting of facts and Geschichte, a reasoning of those facts- even a priori Geschichte, the chronicle of an announced course of events to come. For Hegel, what mattered was the understanding (or the illusion of understanding) of the entire flow of events as a whole, including the river bed and it coastal observers, and in order to better concentrate on the main, from this torrent he excluded the margins, the lateral pools and the estuaries.
    Foldenyi imaginatively suggests that this is the horror Dostoyevsky discovers: that history, whose victim he knows he is, ignores his existence, that his suffering goes on unnoticed or, worse, serves no purpose in the general flow of humankind. What Hegel proposes, in Dostoyevsky's eyes (and in Foldenyi's ), is what Kafka would later say to Max Brod: "There is hope, but not for us." Hegel's caveat is even more terrible than the illusion existence proposed by the idealists: we are perceived but we are not seen.
    Such an assumption is, for Foldenyi (as it must have seemed to Dostoyevsky), inadmissible. It's not just that history cannot dismiss anyone from its course; the reverse is also true- the acknowledgement of everyone is necessary for history to be. My existence, any man's existence, is contingent on your being, on any other man's being, and both of us must exist for Hegel, Dostoyevsky, Foldenyi to exist, since we (the anonymous others) are their proof and their ballast, bringing them to life in our reading. This is what is meant by the ancient intuition that we are all part of an ineffable whole in which every singular death and every particular suffering affects the entire human collective, a whole that is not limited by each material self. The worm of consciousness mines but also proves our existence; it is no use denying it, even as an act of faith. "The myth that denies itself" says Foldenyi wisely, "the faith that pretends to know: this is the grey hell, this is the universal schizophrenia with which Dostoyevsky stumbled on his way."
    Our imagination allows us always one hope more, beyond the one shattered or fulfilled, one as yet seemingly unattainable frontier that we'll eventually reach only to propose another lying further away. To forget this limitlessness (as Hegel tried to do by trimming down his notion of what counts as history) may grant us the pretty illusion that what takes place in the world and in our life is fully understandable. But this reduces the questioning of the universe to catechism and that of our existence to dogma. As Foldenyi argues, what we want is not the consolation of that which seems reasonable and probable, but the unexplored Siberian regions of the impossible.

-ALBERTO MANGUEL SPRING 2012

What we call history is that ongoing story which we pretend to decipher as we make it up. This Dostoyevsky fully understood when he said that, if our belief in immortality were destroyed, "everything would be permissible." Like history, immortality need not be true for us to believe in it.
Câu phán của Dos, còn được dịch là, "Nếu Thượng Đế đếch có, thì mọi chuyện đều được phép".
Sartre mở ra cuốn sách mỏng dính của ông, thế nào là chủ nghĩa hiện sinh, bằng câu này, theo ý, chủ nghĩa hiện sinh bắt đầu với Dos.
Bài viết ngắn của Manguel, đặt ngược lại vấn đề, khởi từ cái sự kiện, Foldenyi không chấp nhận ý của Dos: Such an assumption is, for Foldenyi (as it must have seemed to Dostoyevsky), inadmissible. It's not just that history cannot dismiss anyone from its course; the reverse is also true- the acknowledgement of everyone is necessary for history to be. Lịch sử không thể dimiss bất cứ 1 ai, trong chúng ta, và ý nghĩa cuộc đời, từ đó xuất hiện.
Cái chuyện lịch sử viết từ đáy, là cũng từ đó mà ra.

Gấu biết đến Kafka, là nhờ đọc Manguel. Cũng qua ông, Gấu biết Borges, và cả hai, đến cuối đời, sắp đi xa, Gấu ngộ ra, là 1, theo nghĩa, họ là thầy trò.
Cái gọi là “nightmare” ở Borges, tức là ở trong cõi mộng – cõi bất tử, như Naipaul đọc Borges – thì ở trong cõi thực, ở Kafka.
Đây là thai đố khủng khiếp nhất, và nó liên quan, mắc mớ tới câu phán khủng khiếp nhất, của Kafka, mà ngay cả Adam Zagajewski cũng không đọc ra, theo GCC, khi coi đây là trò masochism ở Kafka.
Bạn có thể đi hết cuộc chiến Mít, trong cái nhìn tiểu vi, micro, về cõi người, qua câu phán của Kafka:
Trong cuộc duel, giữa mi và cuộc đời, hãy ở về phía cuộc đời.

In the duel between you and the world, back the world.
Kafka 

Cái sự tương tự giữa Kafka, và Borges, với GCC, 1 kẻ bị THNM vì cuộc chiến Mít, là còn ở chỗ này: Tất cả những tác phẩm lớn của cả hai, đều là những ẩn dụ về cuộc chiến Mít. Phép Lạ Bí Ẩn, và quãng thời gian - khoảnh khắc - từ lúc tên trưởng toán hành quyết VC giơ tay ra lệnh, bắn, và tên Ngụy nhà văn ngã xuống, 1 năm trôi qua, là cả 1 nền văn học hải ngoại của chúng, dài dài, còn hoài.... ư?
Ẩn dụ Tháp Babel của Kafka, chẳng là nói về hãy đâm vào lưng mi, thay vì vào cuộc đời, khi lũ VC xây xong tháp Babel, tức là vào 30 Tháng Tư 1975 ư?
Làng Kế Bên, giá đừng bao giờ đến, cũng là 1 ẩn dụ về cuộc chiến Mít, hà, hà!

"In the duel with the world you should always take the world's part." At first I resisted this aphorism. Yet another case of Kafka's masochism, I thought. More precisely, I mocked, yes, I see now how you turn against yourself. It's easier to write it than to do it. Later I understood, though, that Kafka's idea could be interpreted in various ways. For example, "take the world's part" could mean that we shouldn't be governed by our impulses, whims, which are-may be-blind, arbitrary, short-lived, childish, frivolous. The task is rather to understand what the world is, how it's structured, what it expects of us, what it might offer.
Only then, when we've learned to recognize, however imperfectly, the world's nature-it is blind and deaf, mindless and cruel, or rather it can be cruel, of course, but it also emits a splendid spark from time to time-can we begin to act, new initiates into the world's secrets. Only then do we start imperceptibly to take our own part. We may also come to understand that there is in fact no conflict between world and us, we're made of the same substance, the same cosmic dust.
Moments of joy; but also the danger produced by a false poem, by what the English language calls cant ("insincere and sanctimonious speech, chiefly moral, religious or political in nature," the dictionary informs us), that is, duplicitous rhetoric, a kind of propaganda. Cant may turn up in poetry, and Polish priests rely on it all too frequently in their preaching.

ADAM ZAGAJEWSKI: SLIGHT EXAGGERATION

Roland Barthes là 1 trong những người thấu ngộ Kafka, qua câu phán khủng khiếp, trên, và ông bệ về ngay nhà của ông, dán lên tường bàn viết của ông, trong bài viết cực ngắn, nhưng cực thần sầu, Câu Trả Lời Của Kafka, Kafka’s Answer, khi ông đọc Marthe Robert, có nên đốt mẹ Kafka chăng, faut-il bruler Kafka?
Câu phán của Kafka, theo GCC, xẩy ra vào lúc sinh tử nhất của 1 kiếp người, và là cái lúc Thiện Ác đối đầu, và bạn đành phải hy sinh chính bạn, để vượt cuộc xét nghiệm, The Test.
Todorov thì coi đây là lúc tín hữu Ky Tô viện tới Chúa, và cầu Chuá hãy khu trục con quỉ ở nơi họ.
Lũ Bắc Kít không làm sao thấu ngộ được, 1 tác giả như Kafka, và chỉ 1 câu của ông, câu trên, là do chúng không hề có 1 niềm tin tôn giáo.
Ha Jin, khi viết cuốn Nhà Văn Kẻ Di Dân, là cũng đồng ý với cái chuyện, bạn muốn viết văn ư, thì hãy ôm lấy Lò Thiêu! (1)

(1)

David Grossman : Nghệ thuật giả tưởng

Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
Câu này, nhà văn Mít phải thuộc nằm lòng, và Lò Thiêu đối với chúng, là Trại Cải Tạo.

Chưa từng có đến 1 tên, đau cái đau, làm thịt cả 1 miền đất ruột thịt, và sau đó, như cục ung thư, làm thịt cả nước.

Note: Trên FB, vị bằng hữu Ngô Nhật Đăng, ông con trai lớn của Xuân Sách, có đưa ra đề xuất, chỉ xứ Đàng Trong, may ra mới có thể kíu xứ Mít khỏi họa Tẫu Đỏ.
Nhớ đại khái, không làm sao post lại được trên Tin Văn.

Nhưng quái làm sao, Borges đã từng đề nghị 1 giải pháp cho cuộc chiến Mít, qua 1 truyện ngắn mà ông, chính ông, coi là số 1 của mình, và GCC đã từng chôm, The Intruder.
Câu chuyện hai thằng anh và em cùng yêu 1 cô gái, và 1 trong hai thằng giết cô, để cả hai có bổn phận nhớ cô hoài hoài. [Với GCC]

Trong bài viết về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.

Tò mò, Gấu kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ cho đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên nàng”.

[Tin Văn đã kiếm thấy cái truyện ngắn này, và đã post trên Tin Văn, thong thả sẽ dịch hầu quí độc giả]

Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!

"The Intruder," a very short story recently translated into English, illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman. One of them kills her so that their fraternity may again be whole. They now share a new bond: "the obligation to forget her."

Borges himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after his rare voyage through languages, cultures, mythologies, had come home and found the Aleph in the next patio.

Trong The Last Interview, Borges xeo phi Borges, qua truy
ện ngắn thần sầu kể trên, và Gấu nghĩ, chưa từng có ai, kể cả GCC, vinh danh BHD, và Tứ Tấu Khúc của thằng khốn đó, đến mức tuyệt hảo như thế!

BORGES: But I think I've written a better story called "La intrusa" ("The Intruder") and you'll find that story in the last edition of El Aleph or of A Personal Anthology. I think that's better than the other. I think that's the best story I ever wrote. There's nothing personal about it; it's the story of two hoodlums. The intruder is the woman who comes into the lives of two brothers who are hoodlums. It isn't a trick story. Because if you read it as a trick story, then, of course, you'll find that you know what's going to happen at the end of the page or so, but it isn't meant to be a trick story. On the contrary. What I was trying to do was to tell an inevitable story so that the end shouldn't come as a surprise.
BURGIN: That's sort of like "The South," though. The sense of inevitability in the story.
BORGES: Yes, yes. But, I think that ‘La intrusa' is better, because it's simpler.
BURGIN: When did you write it?
BORGES: I wrote it about a year or so ago, and I dedicated it to my mother. She thought that the story was a very unpleasant one. She thought it awful. But when it came to the end there was a moment when one of the characters had to say something, then my mother found the words. And if you read the story, there's a fact I would like you to notice. There are three characters and there is only one character who speaks. The others, well, the others say things and we're told about them. But only one of the characters speaks directly, and he's the one who's the leader of the story. I mean, he's behind all the facts of the story. He makes the final decision, he works out the whole thing, and in order to make that plainer, he's the only character whose voice we hear, throughout the story.
BURGIN: Is it a very short story?
BORGES: Yes, five pages. I think it's the best thing I've done.

Bà mẹ của Borges, mới là người kiếm ra câu văn tuyệt hảo kết thúc câu chuyện.

Borges coi đây là tuyện ngắn tuyệt hảo của ông, bởi vì, nó không có tính "trick story", mà là 1 truyện ngắn không thể tránh được, "inevitable story", và với thứ thần sầu này, cái kết thúc của nó, không đến với bạn, như là 1 ngạc nhiên.

Bạn thử kiếm ra 1 thứ truyện ngắn như thế, để kết thúc cuộc chiến Mít?

BURGIN: What about "Death and the Compass"? Do you like the way you treat the local colour in that story?
BORGES: Yes, but in "Death and the Compass," the story is a kind of nightmare, no? It's not a real story. While in "La intrusa" things are awful, but I think that they are somehow real and very sad also.

Borges, khi phải so sánh BHD - La intrusa - với Thần Chết và Cái La Bàn, 1 truyện ngắn thần sầu của ông, đã coi Death giống như 1 cơn ác mộng, không phải truyện thực, trong khi BHD thì, 1 cách nào đó, somehow, thực, và rất ư là buồn!

Tks you, Mr. Borges!
.... somehow real and very sad also.
Mi không biết vác gạo đến nhà bố ta, những ngày Sàigòn rục rịch, nghe đồn... có đảo chánh, làm sao ta lấy mi?

My Old Saigon
http://www.tanvien.net/Viet/8.html

The Intruder

Note: GCC kiếm thấy The Intruder, trong cuốn Borges A Reader, mua xôn, từ đời nào. Bèn post ở đây, và sẽ dịch sau.

Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường.

Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy "Những Ngày Ở Sài Gòn", nằm trên bàn! (1)

*

THE INTRUDER

2 Samuel 1:26

[JLB 98]

They claim (improbably) that the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen brothers, at the wake for Cristian, the elder, who died of natural causes at some point in the 1890s, in the district of Moron. Someone must certainly have heard it from someone else, in the course of that long, idle night, between servings of mate, and passed it on to Santiago Dabove, from whom I learned it. Years later, they told it to me again in Turdera, where it had all happened. The second version, considerably more detailed, substantiated Santiago's, with the usual small variations and departures. I write it down now because, if I am not wrong, it reflects briefly and tragically the whole temper of life in those days along the banks of the River Plate. I shall put it down scrupulously; but already I see myself yielding to the writer's temptation to heighten or amplify some detail or other.

In Turdera, they were referred to as the Nilsens. The parish priest told me that his predecessor remembered with some astonishment seeing in that house a worn Bible, bound in black, with Gothic characters; in the end pages, he glimpsed handwritten names and dates. It was the only book in the house. The recorded misfortunes of the Nilsens, lost as all will be lost. The old house, now no longer in existence, was built of unstuccoed brick; beyond the hallway, one could make out a patio of colored tile, and another with an earth floor. In any case, very few ever went there; the Nilsens were jealous of their privacy. In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their indulgences were horses, riding gear, short-bladed daggers, a substantial fling on Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall, with red hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would never hear tell of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood feared them, as they did all red-haired people; nor is it impossible that they might have been responsible for someone's death. Once, shoulder to shoulder, they tangled with the police. The younger one was said to have had an altercation with Juan Iberra in which he did not come off worst; which, according to what we hear, is indeed something. They were cowboys, team drivers, rustlers, and, at times, cheats. They had a reputation for meanness, except when drinking and gambling made them expansive. Of their ancestry or where they came from, nothing was known. They owned a wagon and a yoke of oxen.

Physically, they were quite distinct from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their own bad name. This, and other things we do not know, helps to explain how close they were; to cross one of them meant having two enemies.

The Nilsens were roisterers, but their amorous escapades had until then been confined to hallways and houses of ill fame. Hence, there was no lack of local comment when Cristian brought Juliana Burgos to live with him. True enough, in that way he got himself a servant; but it is also true that he showered her with gaudy trinkets, and showed her off at fiestas-the poor tenement fiestas, where the more intimate figures of the tango were forbidden and where the dancers still kept a respectable space between them. Juliana was dark-complexioned, with  large wide eyes; one had only to look at her to make her smile. In a poor neighborhood, where work and neglect wear out the women, she was not at all bad looking.

At first, Eduardo went about with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some business or other; he brought back home with him a girl he had picked up along the way. After a few days, he threw her out. He grew more sullen; he would get drunk alone at the local bar, and would have nothing to do with anyone. He was in love with Cristian's woman. The neighborhood, aware of it possibly before he was, looked forward with malicious glee to then subterranean rivalry between the brothers. One night, when he came back late from the bar at the corner, Eduardo saw Cristian's black horse tethered to the fence. In the patio, the elder brother was waiting for him, all dressed up. The woman came and went, carrying mate. Cristian said to Eduardo:

"I'm off to a brawl at the Farias'. There's Juliana for you. If you want her, make use of her."

His tone was half-commanding, half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did not know what to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo but not to Juliana, who was an object to him, mounted, and trotted off, casually.

From that night on, they shared her. No one knew the details of that sordid conjunction, which outraged the proprieties of the poor locality. The arrangement worked well for some weeks, but it could not last. Between them, the brothers never uttered the name of Juliana, not even to summon her, but they sought out and found reasons for disagreeing. They argued over the sale of some skins, but they were really arguing about something else. Cristian would habitually raise his voice, while Eduardo kept quiet. Without realizing it, they were growing jealous. In that rough settlement, no man ever let on to others, or to himself, that a woman would matter, except as something desired or possessed, but the two of them were in love. For them, that in its way was a humiliation.

One afternoon, in the Plaza de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful "dish" he had fixed up for himself. It was then, I think, that Eduardo roughed him up. No one, in his presence, was going to make fun of Cristiano

The woman waited on the two of them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference, unquestionably for the younger one, who, although he had not rejected the arrangement, had not sought it out.

One day, they told Juliana to get two chairs from the first patio, and to keep out of the way, for they had to talk. Expecting a long discussion, she lay down for her siesta, but soon they summoned her. They had her pack a bag with all she possessed, not forgetting the glass rosary and the little crucifix her mother had left her. Without any explanation, they put her on the wagon, and set out on a wordless and wearisome journey. It had rained; the roads were heavy going and it was eleven in the evening when they arrived at Moron. There they passed her over to the patrona of the house of prostitution. The deal had already been made; Cristian picked up the money, and later on he divided it with Eduardo.

In Turdera, the Nilsens, floundering in the meshes of that outrageous love (which was also something of a routine), sought to recover their old ways, of men among men. They went back to their poker games, to fighting, to occasional binges. At times, perhaps, they felt themselves liberated, but one or other of them would quite often be away, perhaps genuinely, perhaps not. A little before the end of the year, the younger one announced that he had business in Buenos Aires. Cristian went to Moron; in the yard of the house we already know, he recognized Eduardo's piebald. He entered; the other was inside, waiting his turn. It seems that Cristian said to him, "If we go on like this, we'll wear out the horses. It's better that we do something about her."

He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred his horse so as not to see them. They returned to what has already been told. The cruel solution had failed; both had given in to the temptation to dissimulate. Cain's mark was there, but the bond between the Nilsens was strong-who knows what trials and dangers they had shared-and they preferred to vent their furies on others. On a stranger, on the dogs, on Juliana, who had brought discord into their lives.

March was almost over and the heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom to retire early), Eduardo, coming back from the corner bar, saw Cristian yoking up the oxen. Cristian said to him, "Come on. We have to leave some hides off at the Pardos'. I've already loaded them. Let us take advantage of the cool."

The Pardo place lay, I think, to the south of them; they took the Camino de las Tropas, and then a detour. The landscape was spreading out slowly under the night. They skirted a clump of dry reeds. Cristian threw away the cigarette he had lit and said casually, "Now, brother, to work. Later on, the buzzards will give us a hand. Today I killed her. Let her stay here with all her finery, and not do us any more harm."

They embraced, almost in tears. Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and the obligation to forget her.

Note: Đọc lại, thì lại nhớ đến em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh: Mi ngu quá, còn đêm nào như đêm nay.
“Chẳng còn đêm nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".
http://www.tanvien.net/ds/noi_buon_war.html