Chân
Dung Văn Học
Đỗ
Long Vân
Thủ bút JHV
Cầm Dương Xanh
|
Tưởng nhớ bạn JHV nhân tập thơ bạn
Cầm Dương Xanh mới ra lò
lộc khổ đau
để nhớ joseph…
1.
người đuối mộng đâu thiên trước
hồ quên con nước sang bờ
rờ rỡ lần trang cựu ước
xa. đồng vọng mãi tiếng thơ
2.
mưa xuống lềnh bềnh cỏ mộ
âm âm từ cõi sấm truyền
một sớm. về nương bóng cổ
kiếp khổ tu trút áo huyền
3.
trăng tàn. ai rải khúc sầu
ấm ức ngực cuồng thổ máu
huyết hoa đẫm giấc mộng đầu
lộc khổ đau đời thẩm thấu…
1996
Nguyễn
Thanh
Châu
Thơ
JHV
Thủ bút JHV
THE
LOST
DOMAINE OF ALAIN-FOURNIER
(1986)
I like the
marvelous only when it is strictly enveloped in reality; not when it
upsets or
exceeds it.
ALAIN-FOURNIER,
IN A LETTER OF 1911
The Lost Domaine (Le Grand
Meaulnes)
is, I suspect, one of the rare books
that a reader may well feel happier not to have analyzed. (1) I
remember
feeling
this myself when I first read it as a schoolboy, many years ago. It had
been an
experience of such strange force, touching so many secret places in my
own
nature, that I really did not want anyone to tell me what it meant. It
certainly wasn't that I then understood it, or its effect; but to treat
it
objectively, as just another book, seemed a sort of sacrilege, the
vulgar
throwing-open of a very special place.
Later in
life I wrote my own first novel, The
Magus, very much under its influence. Since then I have read almost
all
else of what Fournier wrote, and several books about him; and have been
a
pilgrim to most of the main places of both the book and its author's
life. I
am, in short, a besotted fan, and still feel closer to Fournier than to
any
other novelist, living or dead. This kind of self-elected "special
relationship" with him is not rare. Indeed it is typical of one side of
The Lost Domaine's fate over the years;
all those of us who were from the beginning literally set in a trance
by the
book
1. By good
fortune, for those who do like their texts explained, an excellent such
analysis is now avail· able: Robert Gibson's Le Grand
Meaules in the series Critical Guides to French Texts
(London: Grant and Cutler, 1986). The same author's The Land Without a
Name
(London: Paul Elek, 1975) is by far the best account in English of
Alain-Fournier himself.
*
Note: Dịch
bài này cũng là 1 cách nhớ bạn thơ!
Le Grand
Meaulnes, Tin Văn đánh máy lộn, thành Le Grand Maules, độc giả sửa giùm,
nếu gặp.
Gấu có những
kỷ niệm cực kỳ thê lương với JHV. Cứ mỗi lần bị cuộc đời hành hạ đến
mức phải bỏ
chạy, thì bèn mò đến anh. Hai anh em thường ngồi dưới nhà bếp, nhậu lai
rai, và
1 lần, chắc nhiều lần, Gấu chịu không nổi và khóc rống lên, khủng đến
nỗi bà xã
anh, và luôn cả mấy đứa nhỏ, không hiểu chuyện gì xẩy ra, đều chạy
xuống…
“Tội
thằng Trụ, tội thằng Trụ quá”, như những lần anh than thở khi ngồi lai
rai với
NLV là do như vậy. Anh người Huệ, những lúc đắc ý nhất về bạn bè, là
"ta ta mi
mi", là "thằng Trụ, thằng Trụ", đâu có phải ai cũng được anh gọi như
thế đâu.
Gấu
cũng bị tật đó y chang, mỗi lần thấy quá thân với 1 thằng bạn, là
mày tao,
cái anh Quan Tòa Mẽo, NTN, mũi tẹt, da vàng, từng là bạn của Gấu, qua
bạn C, ông
em nhà thơ TTT, từng lê la ở nhà bà cụ C. ngu quá, đâu có hiểu được.
So với TTT,
thì JHV quá mờ nhạt, và có thể, anh muốn như thế. Cõi thơ của anh, phải
đến lúc
gần mất Miền Nam thì mới trình ra, giữa một dúm bạn bè và một dúm
độc giả của
Tập San Văn Chương.
Anh biết, chúng "kén" độc giả?
Anh nhận xét
về Gấu, lụy tình cảm. Anh than với NLV trong những lần nhậu giữa
hai người,
“Tội thằng Trụ, tội thằng Trụ quá”.
Bà Trẻ của Gấu cũng nhận xét y
chang, mày lụy
vì tình, nếu không, đi tu được, thành con, thành đệ tử của Phật được
Ui chao, chính tình cảm làm lụy Gấu, nhưng cũng
chính nó, lại cứu Gấu vào lúc chót đời.
Sau 1975, có
1 thời gian Gấu hay gặp JHV, khi làm 1 anh đi mua thứ nước uống có mùi
bia, ba
thứ Nắng Mới, Lúa Mới gì gì đó, nhan nhản khắp thành phố Sài Gòn, trong
khi chờ đợi đất nước xuống hố sâu thêm một mức nữa, là cái thời kỳ mở
cửa về
kinh tế, nhưng
hãy bịt miệng mà sống, mà uống Hê Nê Ken, XO…
Chả là lúc đó,
có ông cán bộ, nhà ở phía bên ngoài chung cư 29/8D, trên con đường
Nguyễn Bỉnh
Khiêm, mở một quán nhậu, cần một người đi lấy ba thứ bia dởm nói trên.
Con bé lớn
thì đứng bán hàng, nó cũng giống mẹ, tức Gấu Cái, nghĩa là cũng có tí
nhan sắc, thế
là cũng có khá nhiều khách lui tới, Gấu Cái lúc này do làm ăn ba thứ
giấy tờ dởm,
bị Cớm VC truy lùng, đưa vô danh sách “Most Wanted”, đâu dám về nhà.
Một trong
những cơ sở sản xuất bia cà chớn trên, gần xưởng mộc của nhà thơ JHV.
Thế là Gấu,
sau đi nộp đơn, chờ đến phiên mình, cho thằng con trai đứng vô hàng,
còn Gấu ghé thăm JHV.
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
PHỐ CŨ DƯƠNG CẦM THU
Lá vàng rơi thương tưởng Dương
Cầm Thu
Phố ươm nắng vàng câm. Âm biếc nắng
Bờ bến gọi. Thức tròn mùa xa vắng
Em đi đâu?! Dương cầm réo sông xa
Dương Cầm Thu ngấm men rượu
Hoàng Hoa
Phố thầm nhắc một mái lầu phong nguyệt
Màu cổ điển. Rằm phơi âm bất tuyệt
Em đi đâu?! Cỏ ướt khúc tình sầu
Dương Cầm Thu tóc xõa Dương Cầm
Nâu
Phố khuya hát ngàn sông. Rêu nhớm rễ
Âm níu Nhạc. Ngàn sông bay nắng xế
Để ngàn khuya tan theo Dương Cầm Thu
Muốt tay em mềm hết dấu sương
mù
Phố điêu khắc. Dương Cầm Thu chín đỏ
Lá say hết âm vang chìm đáy mộ
Nắng vàng câm. Âm biếc nắng nhớ nhau
Nắng vàng câm. Vang bóng đến
ngàn sau
Phố ngực nõn dậy thì trăng ướt mượt
Phím chất ngất. Dương Cầm Thu hẹn ước
Trăng gọi nước xuôi ngàn. Đàn vang bước em đi…
8/2005
Quả là một khúc thần sầu. Chất
viril [chất đực], chất eros [chất
huê tình], chất sauvage [dã man, tàn bạo]... nhưng cũng thật thơ mộng:
Em đi đâu, cỏ ướt khúc tình sầu.
Thơ NLV âm vang thơ của những bậc đi trước ông.
Rõ nhất, là Joseph Huỳnh Văn, rồi tới Bùi Giáng, rồi tới Thanh Tâm
Tuyền [chất
đàn ông, hung bạo mà cả hai đấng kia không hề có].
Có lần, Gấu thú thực, chưa tìm ra chìa khoá vô cõi thơ NLV. Có NTN, lần
anh
viếng thăm Mẽo, và nhà thơ này gật gù, đúng, mỗi cõi thơ là mỗi chìa
khoá. Thơ
của tôi, chìa khoá nằm ở mãi cõi Thơ Đường.
Nói chung, thơ của mấy ông này, chìa khóa thì đều nằm trong Cõi Điên
cả.
Trừ Joseph HV, cõi thơ Ky Tô,
giống của Brodsky.
Trừ TTT, cõi thơ trí tuệ, gần cõi thơ Milosz, nhưng lại thiếu cõi quê
của
Milosz.
Cõi quê như chính ông tâng bốc:
It is good to be born in a small country where nature is on a human
scale,
where various languages and religions have coexisted for centuries. I
am
thinking here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le
với con
người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời.
Tôi đang
nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Với TTT, thì đây là Đất Bắc mà
ông đã từ bỏ, và khi trở về, thì như một tên tù:
Chiều cuối năm qua
xóm
nghèo
Mưa
bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78 (Thơ
ở đâu xa)
Note: Thơ NLV âm vang thơ của
những bậc đi trước ông.
Chúng ta phải hiểu câu này, trong cái dòng của câu của Dos, như bài
điểm cuốn
Dead Souls, dưới đây:
Chúng ta đều chui ra từ Chiếc Áo Khoác của Gogol:
The famous remark often attributed to Dostoevsky that "We all emerged
from
Gogol's overcoat" (a reference to Gogol's story of 1842) remains more
accurate.
Thơ NLV quả là đã chui ra
từ cái áo khoác, là cõi thơ Miền
Nam, tụ vào mấy đấng Joseph Huỳnh Văn, Bùi Giáng, và TTT.
Tại sao trong cõi thơ đó, không có, thí dụ TTY?
Thơ TTY, là dòng thơ cảm khái, có từ ngàn đời, và đời nào cũng có. Nhà
thơ giáo
chủ Tân Hình Thức gọi, đây là thơ biên tái, biên đình.
*
Nhà thơ Milosz viết, trong bài viết ‘Về Brodsky’ trong “Bắt đầu nơi tôi
là”:
Điều sâu thẳm nhất mà ông ta [Brodsky] nói về Akhamatova, và có lẽ đây
là những
từ sâu thẳm nhất, chưa từng được nói ra, về cái gọi là tiến trình sáng
tạo
nói
chung, là, rõ ràng là bà quá đau khổ khi viết Kinh Cầu. Nỗi đau con bị
tù của
bà là thực, nhưng khi viết về nó, bà cảm thấy như giả đò, giả vờ, gượng
gạo,
[falsehood], chính là do bà phải vận nỗi đau của mình thành vần thành
điệu [she
had to shape her emotions into forms]. Và chính cái gọi là “form”, sử
dụng tình
cảm đau thương cho mục đích của riêng nó, làm tê liệt nó, như nó vẫn là
như
vậy.
Source
Akhmatova bị
ông con trai từ, vì 'phổ thơ' nỗi đau khổ của gia đình, là cũng theo
nghĩa đó.
Trong Chuyện
trò với Volkov, Brodsky phán, tụi mũi lõ Tây Phương có thể hiểu
được Dos, và chính
vì thế mà ông rất ‘phổ thông’, đại chúng ở đó. Nhưng sức mấy mà hiểu
được
Akhmatova.
Nhân đó, ông nói về cái sự khác biệt giữa thường nhân và nghệ sĩ, thứ
như Akhmatova, mà, “Như một thi sĩ, qua cái miệng bị tra tấn của người
đó, hàng
trăm triệu con người than khóc… bà [Akhmatova] đã ghi nhận chuyện từng
ngày của
những năm tháng khủng khiếp. Thật nguy hiểm khi viết ra bài thơ [Kinh
Cầu].
Trên 5 năm trời, bài thơ được ghi vội vào những mẩu giấy nhỏ, được ghi
vào ký ức
của những người bạn tin cẩn, rồi đốt bỏ những mẩu giấy. Trở thành mục
tiêu chiến
dịch khủng bố mang tính ý thức hệ, do Stalin đề xướng vào năm 1946, bà
bị đối xử
tàn tệ đến khi Stalin chết."
Source: Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Chúng ta có
thể suy ra trường hợp PD chỉ tới đỉnh, khi phổ nhạc thơ.
GCC gọi, đây là hiện
tượng doping.
Mấy thứ làng
nhàng kia, là nhờ gái. Cũng doping vậy, Cứ mỗi lần làm thịt một em là
có
1 tuyệt tác để đời.
GCC ngu quá, coi BHD như... thánh nữ, thành ra chẳng có tác phẩm
lớn, cho dù chính em… xúi, cái thứ tình yêu chỉ có "chiêm ngưỡng và
kính trọng"
làm H. sợ!
Hà, hà!
Ông bạn thân
từ hồi còn đi học, nick Lủng, mail, cho biết, đã đọc hết Những Ngày Ở Sài Gòn,
chỉ chịu được có mỗi 1 truyện Những
Con Dã Tràng, và phán BHD của mi cũng thứ
xoàng, tình thuở mới lớn, không có gì mà ầm ĩ!
Ui chao, GCC
cũng nhiều khi nghĩ như thế, và nghĩ quá như thế, và cũng lầm về em,
chỉ đến
khi em đi rồi, thì mới ngộ ra, không phải như vậy. Em quyết định tất
cả, nhìn ra tất
cả, luôn cả cái kết thúc thê lương, liên quan cuộc đời của cả hai.
Có 1 anh bạn,
cũng bạn văn, cũng rất thân, quen từ hồi mới bắt đầu viết, nhận xét về
BHD: Rất
trẻ con, nhưng lại quá già dặn, rất giống cái cô gái bé tí trong phim Les Dimanches de Ville
d’Avray.
Có lẽ thế thật.
Trang TV, sở
dĩ viết hoài còn hoài, là nhờ BHD. Mỗi lần Gấu đuối quá, là em xuất
hiện, thui mà,
viết tiếp đi... Cũng được đề nghị đầu thai mấy lần rùi, nhưng I'll Be
Right
Here
Waiting
For U!
Pilote de
guerre en Indochine, Pierre croit avoir tué une petite fille en
bombardant un
village. Quelques années plus tard, sur le quai de la gare de
Ville-d'Avray où
il accompagne son amie Madeleine, il rencontre Françoise, une fillette
de 12
ans, abandonnée par sa mère et que son père a placé dans une
institution
religieuse. Se faisant passer pour lui, Pierre prend l'habitude de la
sortir
tous les dimanches. Une tendre et pure amitié s'établit entre eux. Mais
les
braves gens s'inquiètent...
Trong bài viết
về Hoàng Ngọc Tuấn, Võ Chân Cửu cho biết
1 chi tiết về JHV thợ mộc:
Năm 1976, tôi dỡ nhà dẫn vợ con đi kinh tế mới. Rồi không sống nổi nên
về lại
Quy Nhơn đi làm. Năm 1981 tôi đưa vợ con về lại Sài Gòn, cất lại căn
chòi trên
nền đất nhà cũ gần ga xe lửa Gò Vấp. Những người sáng tác còn lại ở Sài
Gòn rất
thương mến nhau, trừ những người tay đeo băng đỏ,. Lúc này cứ 2-3 ngày
một lần
thì Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Mộng Giác… Có khi có Cung Tích Biền, họa sĩ
Khánh
Trường lại hẹn đến căn chòi của tôi, cùng mang theo đồ nấu ăn, uống
rượu “Cây
Lý”. Thấy cảnh gia đình tôi không có giường nằm, Nguyễn Lương Vỵ cho
một giường
sắt cũ, anh Joseph Huỳnh Văn làm thợ mộc, chở về tặng một chiếc
đi-văng... Từ
đó, cứ chiều tối là Tuấn đến nhà tôi tá túc trên chiếc giường sắt. Riết
rồi chiếc
giường sắt nhỏ đó như dành riêng cho Hoàng Ngọc Tuấn. Anh tha hồ nằm
nút liên tục
những điếu “thuốc củi”, nghe tiếng tàu chạy, nghĩ ngợi vu vơ. Thuốc củi là tên
gọi loại thuốc điếu do người nghèo Sài Gòn sáng chế bằng cách quấn lá
đu đủ khô
trong giấy tập, một bó 50 điếu, đem bán đầy đường. Tôi kỹ lưỡng hơn nên
chịu
khó quấn thuốc rê trong giấy pơ-luya. Chắc mầm bệnh ung thư thanh quản
khởi nguồn
từ thuốc củi ?
BRODSKY
THROUGH THE EYES OF HIS CONTEMPORARIES
Brodsky qua
mắt những người cùng thời với ông
Ông thi sỡi
có yêu Đất Mẹ? Ông tình nguyện đi hay ông là một gã lưu vong? Tại sao
ông chẳng
bao giờ trở về, ngay cả để viếng thăm? Ông là một tín hữu Ky tô, theo
bất cứ
nghĩa nào của từ này? Là một tên Do Thái có nghĩa gì không, đối với
ông? Ông vẫn
là và luôn là một nhà thơ Nga, hay thực sự, là một người Nga, trong bất
cứ một
ý nghĩa nào có thể chấp nhận được của từ này? Tại sao ông rao giảng
chuyện thờ
phụng ngôn ngữ, và theo đường hướng nào ông thờ phụng nó? Tại sao ông
lèm bèm
hoài về ‘đế quốc’? Tại sao ông cứ cố tình tự mình dịch thơ mình qua
tiếng Anh,
và kết quả của cái việc dịch đó có khá không?
Cùng với sự
sợ hãi, sự kính trọng, và một tình yêu chân thực, những cuốn sách này
còn chứa
đựng một số những nhận xét thật tới, chưa từng có, về Brodsky, về cả
hai, con
người và nhà thơ. Về nhà thơ, có nhận xét của Pyotr Vail: “Pushkin là
tất cả về,
như thế nào, chúng ta muốn là; Brodsky là tất cả về, như thế nào, chúng
ta thực
sự là”. "Pushkin was all about
how we wanted to
be;
Brodsky was all about how we really are".
Về con
người, Annelisa Allleva đưa ra những nhận xét ‘gay gắt, nhức nhối’,
thí dụ, “Ông ta ăn cắp tình yêu của nhân dân để giấu diếm sự bất an của
mình”.
"He stole other people's
love in order to hide his insecurity".
Derek
Walcott nhào lộn cả hai nhận xét trên, thành:
Joseph [Huỳnh
Văn] Brodsky đếch thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên hướng nhà thơ
và đời của
ông. Ông là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một người, là một nhà thơ,
theo một
cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"I was
only too glad to be the handmaid of genius, and to be taken for
granted":
Tớ thật hạnh phúc được là người hầu của thiên tài, và được đảm bảo như
vậy.
Brodsky phán.
CHESS
Jorge Luis
Borges
I
In their
serious corner, the players
move the
gradual pieces. The board
detains them
until dawn in its hard
compass: the
hatred of two colors.
In the game,
the forms give off a severe
magic:
Homeric castle, gay
knight,
warlike queen, king solitary,
oblique
bishop, and pawns at war.
Finally,
when the players have gone in,
and when
time has eventually consumed them,
surely the
rites then will not be done.
In the east,
this war has taken fire.
Today, the
whole earth is its provenance.
Like that
other, this game is for ever.
II
Tenuous
king, slant bishop, bitter queen,
straightforward
castle and the crafty pawn –
over the
checkered black and white terrain
they seek
out and enjoin their armed campaign.
They do not
realize the dominant
hand of the
player rules their destiny.
They do not
know an adamantine fate
governs
their choices and controls their journey.
The player,
too, is captive of caprice
(the
sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed with black nights and white
days.
God moves
the player, he, in turn, the piece.
But what god beyond God begins the round
of dust and
time and dream and agonies?
-Translated
by
ALASTAIR REID
Ở cái góc
nghiêm trọng của họ,
Những kỳ thủ
di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm
giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn
cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận
giữa hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Trong cuộc
chơi, là luật chơi,
Một ma thuật
nghiêm ngặt:
Lâu đài Hô
me, kỵ sĩ xám, nữ hoàng thiện chiến, hoàng đế cô đơn,
giám mục xiên
xẹo, và những con tốt lao vào cuộc chiến
Sau cùng,
khi những kỳ thủ đã nhập cuộc,
Và khi thời
gian đã thiêu đốt cả đám
Rõ ràng là
chẳng cần gì đến những nghi thức
[Bàn giao cái
con khỉ, chúng ông lấy hết rồi,
Minh gà tồ còn
gì mà bàn giao?]
Ở phía Ðông,
lửa chiến tranh bừng bừng
Ngày hôm
nay, trọn trái đất thuộc về nó,
Như cái khác,
trò chơi này là thiên thu, bất tận.
II
Hoàng đế tế
nhị, giám mục xiên xiên, nữ hoàng cay đắng,
Lâu đài thẳng
thắn, và anh cu Sài láu cá –
Trên mảnh đất
đen trắng của cái bàn cờ
Tất cả hăm hở
tìm tòi, và sung sướng tận hưởng những chiến dịch…
Ðiện Biên, Mùa Hè Ðỏ Lửa, thí
dụ.
Họ đâu có nhận
ra,
Cái bàn tay
thống trị của những thế lực quốc tế bửn thỉu,
Và hơn cả thế
nữa,
Là những luật
chơi của định mệnh.
Họ đâu có biết
cái số phần cứng như gang thép,
Trấn ngự,
cai quản những lựa chọn và kiểm tra những hành trình của họ
Kỳ thủ kia ơi, mi thì cũng
bị cầm giữ bởi tính bất thường
(Câu này thuổng
Omar) trên một mảnh đất khác,
Ðan chéo nhau bằng những đêm đen, và ngày trắng.
Ông Giời di
chuyển những kỳ thủ, và tới luợt họ,
Di chuyển quân cờ
Nhưng Giời nào,
ngoài Giời lại có Giời?
Thứ Ông Giời
bắt đầu vòng luân hồi
Của bụi, thời
gian, và những cơn hấp hối?
*
Thời gian
quen Joseph Huỳnh Văn, Gấu tình cờ vớ được 1 bài thơ, bản tiếng Tây,
của
Borges; một bài thơ nói về hạnh phúc. Ðọc thích quá, Gấu bèn dịch, đưa
cho anh đọc,
và 1 tay nữa, nhạc sĩ Vũ Ngọc Giàu, tình cờ gặp lần đầu ở quán cà phê
Bà Lê Chân,
của Huy Tưởng.
Ðó có lẽ là lần đầu tiên Gấu biết tới Borges.
Sau này, ra hải
ngoại, đọc Borges, Gấu cố kiếm bài thơ cũ, mà không làm sao kiếm ra.
Khi biết
tin anh mất, và có số điện thoại của gia đình, Gấu có gọi về hỏi thăm,
và chia
buồn, bà xã của anh có nhắc tới đám bạn quen từ trước 1975 mà chị còn
nhớ, và
nhân đó, chị nhắc tới bài thơ về Hà Nội, mà ông chồng đang làm,
chưa
xong, cho tới khi anh đi, và chẳng ai còn biết được nó ra làm sao, dù
ai cũng gật
gù, hay, hay lắm.
Trong một bài viết về anh,
Gấu có nhắc tới câu chuyện này, Hà
Nội anh chưa từng nhìn thấy [vì có bao giờ tính ra thăm đâu, chắc
thế], và
bài thơ dang dở về nó.
Anh Môn
Hà Nội là cái quái gì!
Tôi còn Mai Thảo yêu vỡ Hà Nội khi về
TTT
Ở miền nam,
Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch
[Saint-Exupéry]. Ông
bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái
ngôi sao thất
lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội!
Người
tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như tôi hiểu được, qua lời kể
của bà
xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện viễn liên, sau khi Gấu tôi
được tin
anh mất, và xin được số điện thoại của gia đình. Gia đình không còn ở
con hẻm
đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6 nữa, mà rời về Phú Nhuận.
Cô con
gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.
Chị cho biết, thời gian
trước khi mất, anh Hiến
[Joseph Huỳnh Văn] vui lắm, chứ không như những ngày đó đâu. Bạn nhiều
lắm, nhất
là mấy anh trẻ, rất mê thơ, và rất quí mến anh Hiến. Họ định ra một tạp
chí
Thơ, y như hồi các anh làm tờ Tập San Văn Chương, nghĩa là kéo nhau ra
quán tối
ngày. Anh Hiến mất cũng tại một quán cà phê. Chị bùi ngùi nói, anh có
bịnh tim,
đang ngồi nói chuyện gục xuống, giá mà mấy người bạn để anh nằm nghỉ
thoải mái,
và thoa bóp cho anh, thì chắc không sao. Họ cuống lên chở vội tới một
tay bác
sĩ, tay này sợ trách nhiệm, hối chở ngay tới bệnh viện, dọc đường anh
mất… À,
mà anh biết không, anh Hiến có một bài thơ về Hà Nội.
Tôi hỏi: Anh
Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.
Hỏi bài thơ,
không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì bài thơ
cũng chỉ ở
trong đầu anh Hiến…
Chuyện như
thế này:
Vào những
ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh cứ
lẩm nhẩm ở
trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám bạn bè
mới quen,
anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi xong
chưa, anh
nói chưa xong, chưa được…
Rồi anh mất,
và bài thơ đi luôn cùng với anh.
Lạ một điều
hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là hay đó,
chẳng ai nhớ,
dù chỉ một từ, một hình ảnh….
Nghe kể lại, tôi biết, anh
nhớ tới thằng bạn
Hà Nội đã đi xa, và những ngày đầu hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập
San Văn
Chương.
Cũng là những ngày hai đứa
luôn nói về Thơ,
Và, lẽ tất
nhiên, về Huế.
Và Hà Nội.
….
Như bài thơ
mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như Hà Nội chẳng bao giờ tới
được…
Merde!
NQT
Cũng là 1 cách
tưởng nhớ bạn thơ, và chào mừng tập thơ của anh vừa được xb,
TV bèn đi thêm một
bài thơ của Borges:
THE ART OF
POETRY
To gaze at a
river made of time and water
and remember Time is another river.
To know we
stray like a river
and our
faces vanish like water.
To feel that
waking is another dream
that dreams
of not dreaming and that the death
we fear in our bones is the death
that every
night we call a dream.
To see in
every day and year a symbol
of all the days of man and his years,
and convert
the outrage of the years into a music, a sound and a symbol.
To see in
death a dream, in the sunset
a golden sadness-such is poetry,
humble and
immortal, poetry
returning,
like dawn and sunset.
Sometimes at
evening there's a face
that sees us
from the deeps of a mirror.
Art must be that sort of mirror,
disclosing to each
of us his face.
They say
Ulysses, wearied of wonders,
wept with love on seeing Ithaca,
humble and green.
Art is that Ithaca,
a green eternity, not wonders.
Art is
endless like a river flowing,
passing, yet
remaining, a mirror to the same
inconstant Heraclitus, who is the same
and yet
another, like the river flowing.
-Translated
by ANTHONY KERRIGAN
Nghệ Thuật
Thơ
Nhìn dòng sông
làm bởi thời gian và nước
Và nhớ ra rằng
Thời Gian, dòng sông khác
Biết
chúng ta lang thang như dòng sông
Và
khuôn mặt của chúng ta biến mất như nước
Cảm thấy thức
giấc, thì là giấc mơ khác
Những giấc mơ
không mơ
Và cái chết chúng
ta sợ,
Ở trong xương
trong tủy của chúng ta,
Thì là cái
chết mà hằng đêm chúng ta gọi là mơ, là mộng.
Nhìn mọi ngày
và đêm, một biểu tượng
Của tất cả
những ngày của một người đàn ông và những năm của người đó
Và chuyển cơn
giận giữ của những năm tháng
Thành âm nhạc, thành tiếng, và biểu tượng
Nhìn cái chết,
một giấc mộng, vào lúc hoàng hôn
Một nỗi buồn
vàng – đó là thơ,
Dung dị, và
bất tử, thơ
Trở lại, như
rạng đông và hoàng hôn
Ðôi khi, vào
buổi chiều, có một khuôn mặt
Nhìn chúng
ta từ chốn sâu thẳm của một tấm gương
Nghệ thuật
phải như 1 tấm gương như thế đó.
Làm bật ra,
hé rộ ra, cho mỗi chúng ta, ai, khuôn mặt của người đó.
Người ta nói,
Ulysses buồn vô cùng vì những tự hỏi, và khóc nức nở vì yêu
Khi nhìn thấy
Ithaca,
Chỉ là 1 mầu
xanh vời vợi, không phải những ngạc nhiên
Nghệ
thuật thì
không tận cùng như con sông cứ thế trôi
Qua đi, tuy
nhiên, luôn là một tấm gương cho cùng 1 Heraclitus,
không thường hằng, vẫn vậy,
và lại là 1 kẻ khác, như dòng sông cứ thế trôi.
So với TTT,
thì JHV quá mờ nhạt, và có thể, ông muốn như thế. Cõi thơ của ông, phải
đến lúc
gần mất Miền Nam thì ông mới trình ra, giữa một dúm bạn bè và một dúm
độc giả của
Tập San Văn Chương.
Ông biết, chúng kén độc giả?
Ông nhận
xét
về Gấu, lụy tình cảm. Ông than hoài với NLV trong những lần nhậu giữa
hai người,
“Tội thằng Trụ, tội thằng Trụ quá”.
Bà Trẻ của Gấu cũng nhận xét y
chang, mày lụy
vì tình, nếu không, đi tu được, thành con, thành đệ tử của Phật được
Ui chao, chính tình cảm làm lụy Gấu, nhưng cũng
chính nó, lại cứu Gấu vào lúc chót đời.
Nhã Tập (tiền
thân của Tập San Văn Chương) và Tập San Văn Chương, do một nhóm thân
hữu chủ
trương: Nguyễn Tường Giang, Phạm Hoán, Nguyễn Tử Lộc, Phạm Kiều Tùng và
Joseph
Huỳnh Văn.
NLV giới thiệu thơ Joseph Huỳnh Văn, Da
Màu
Tôi sợ có lầm
lẫn ở đây. TSVC không có tiền thân. NQT tôi cộng tác ngay từ số đầu.
Joseph Huỳnh
Văn là tổng thư ký. Nguyễn Tường Giang, bác sĩ, lo trị sự, quảng cáo,
lo tiền
in báo. Nhà in ABC của ông cụ PKT. Mỗi số TSVC có 1 cái tít riêng, và Nhã
Tập có thể là tên của số đầu tiên ra mắt. Có số có tên
tiếng Tây, Soleils
Perdus, Soleils Retrouvés, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm Thấy
Lại... Trước
TSVC, chưa ai từng đọc thơ Joseph Huỳnh Văn. Anh xuất hiện lần đầu trên
TSVC.
Những bài Cầm Dương gây chấn động trong giới văn học Sài Gòn
lúc đó. Sau
khi báo chết, anh cũng không đăng thơ ở đâu, theo như tôi còn nhớ được.
Cây đa bến
cũ hồn ta
Em ạ, mười
năm xa bến cũ
Lòng ta vẫn ủ
bóng trăng xưa
Nắng mưa
thuyền đã sang dòng khác
Câu hát ngày
thơ trót chạnh sầu
Nắng xế
ngang đầu đôi sợi bạc
Tình ơi tan
tác thuở ngang vai
Thương nhau
nhớ lại lời năm ấy
Mà thấy vầng
trăng cũng nghẹn ngào
Màu áo hoàng
lan hương kiếp trước
Giữa đời ngước
mắt dõi chiêm bao
Muối mặn
chưa trao ngày nhạt nắng
Miếng gừng
cay đắng tới ngàn sau
Gạo sầu đắm
đuối nuôi nhau
Cắn đôi hạt
lệ lòng đau hỡi lòng
Bạn vắng đường
xa chiều đứng bóng
Đôi lòng
chung mộng một đời ai
Cầm tay muốn
hỏi người sơ ngộ
Ngập ngừng
nông nỗi áng mây trôi
Thôi thế
tình sau thương ý trước
Đoạn trường
nước mắt lẫn mưa rơi
Trắc ẩn nụ
cười tan tác lệ
Núi sông
xương máu một câu thề
Người đi đi
mãi chưa về
Cây đa bến
cũ hồn quê đợi chờ
Chút tình tự
thuở ngây thơ
Phất phơ mái
tóc nguyệt mờ trăm năm
1975
Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh
Văn, là qua Tập san Văn chương.
Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi
chuyện đã
được quyết định. Tôi nhận lời, phần lớn là vì hai người bạn mới.
Nhất là
J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi
quán cà
phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã
tư Gia
Long, khi bên kia quá ồn. Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi,
thành Bưu
Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu
điện
đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những
ngày cuối
cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc
với Phòng
Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp
sửa
đi đoong không..." tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt
hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần,
ông chưa
vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.
Huỳnh
Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo.
Không có
anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi
sợ hãi,
đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn
bè tuy
biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết
tôi từ
hồi Nghệ Thuật, từ những ngày,
thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc
nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán.
Nếu
không có Tập san Văn chương,
chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có
thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy
người biết
anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hoà. Có thể những dòng Cầm Dương
Xanh đã
rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược
lại.
Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn
chương. Huy
Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm, sau đó
gửi ra
vài dòng. Về câu hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này, bạn bè nhiều
nhưng
thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có các anh là bạn cũ
trước 75
thì tôi mới nhớ thôi.
*
Gấu lần đầu
nghe bản nhạc “Mười năm tình cũ”, khi ở trại tị nạn Thái Lan. Quái làm
sao, sau
này, khi ra được hải ngoại, lần đầu đọc bài thơ
Cây đa bến
cũ hồn ta
Em ạ, mười
năm xa bến cũ
Lòng ta vẫn ủ
bóng trăng xưa
Nắng mưa
thuyền đã sang dòng khác
Câu hát ngày
thơ trót chạnh sầu….
Nhìn con số
1975, là cái năm mà JHV làm bài thơ, thì mới ngộ ra được con số muời,
“muời năm”,
nó cũng chẳng khác ngàn năm, ru mãi ngàn năm, giọt mưa trời khóc ngàn
năm cũ,
sao còn ướt trên lưng bàn tay, chúng là những con số biểu tượng nói về
xa cách và
xum họp.
Từ đó, Gấu viết về cái sự ở lại của anh, và tất nhiên của rất nhiều
người
như anh, có gì giống như trường hợp Akhmatova…
Joseph Huỳnh
Văn, 1975
Akhmatova,
1917
Hơn ai hết
Akhmatova hiểu rằng ý thức hệ Bôn-sê-vích chống lại mọi biểu hiện tôn
giáo. Dưới
mắt những tín đồ, những người Bôn sê vích sẽ là những kẻ huỷ diệt linh
hồn
Chính Thống Giáo của Nga. Bà hiểu rất rõ, những dòng thơ của bà mang
tính tố
cáo chính trị. Bà biết mình đang đóng vai trò của Cassandra, mà chồng
bà đã
tiên đoán về bà, số phận của Cassandra là người nhìn thấy tương lai,
nhưng chẳng
ai thèm nghe.
Với riêng
tôi, bài thơ của Joseph Huỳnh Văn, Cây Đa Bến Cũ Hồn Ta, là cũng được
làm theo
tinh thần của bài thơ của Akhmatova, nhưng nhẹ nhàng hơn, thi sĩ chỉ
nhớ tiếc:
Giữa đời ngước
mắt dõi chiêm bao. [J. Huỳnh Văn]
Bạn nói niềm
tin của chúng ta - mơ mộng hão
[Akhmatova]
Liệu câu
thơ, "Núi sông xương máu một câu thề", là nhắm nhắc tới câu: "Thề
phanh thây uống máu quân thù", của Văn Cao?
Ngay giữa bạn
thân của thi sĩ, chỉ mới đây, khi biết, bài thơ làm khi nào [1975] thì
ẩn dụ của nó
mới lộ ra.
Cũng như bài Em đẹp như cách mạng, 1972,
tức là phải sau Mậu Thân, sau Mùa Hè Đỏ Lửa, mới
làm được.
Nếu bài thơ
của Akhmatova, là giữa một kẻ sắp rời bỏ đất nước, và người ở lại, bài
thơ của
Jopseph Huỳnh Văn, cuộc bắt tay lịch sử 30 tháng Tư 1975:
Cầm tay muốn
hỏi người sơ ngộ
Thôi thế
tình sau thương ý trước
Nhưng trước
đó, trước 1975, thi sĩ đã nhìn ra được cuộc chia ly, giữa bạn bè:
Khuya nức nở
những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy
sớm tiễn người đi.
Giấc mơ về
cuộc bắt tay lịch sử giữa kẻ đi người ở sau 1975: Và nếu trách cứ là về
phần
chúng tôi, những người ở lại, If the blame were ours - thì mọi chuyện
vẫn còn
có cơ cứu rỗi, và chấn chỉnh:
Người đi đi
mãi chưa về
Cây đa bến
cũ hồn quê đợi chờ.
Note: bài viết
này được Sến Cô Nương để mắt tới đưa lên quang phổ talawas, nhưng để
nguồn là
Việt Báo online, thay vì Tin Văn.
Có vẻ như chẳng
ai muốn dây với thằng cha Gấu khốn nạn!
Bạn quí, khi
viết về bản dịch Voix, của Linda Lê,
của “bạn quí của bạn quí”, nhà thơ NDT, dịch giả, thì nhắc tới Nguyễn
Tuấn Anh
[thì cũng thằng Gấu], đã từng viết về Linda Lê; hay khi nhắc tới
Kundera, thì từ
bản dịch của Nguyên Ngọc, nhưng những đoạn trích dẫn, thì đều đã được
thằng cha
Gấu dịch, đăng trên tờ Văn Học, Cali, từ khi trong nước chưa hề biết
đến
Kundera, nghĩa là 1997 gì đó!
Ông bạn nhà
văn VC đầu bạc, thì nhắc tới Jennifer Trần, khi trích dẫn Kundera!
Gấu biết
chuyện đó từ khuya, thành ra mới dùng đủ thứ nick, nào Hai Lúa, nào Gấu
Nhà Văn,
Gấu Cà Chớn, Jennifer Trần…
Bởi là Gấu còn
chán thằng cha NQT hơn bất cứ ai!
Hà, hà!
Một bài viết, trong 7 bài
viết, trong tập Bẩy Ðêm, của
Borges, là về đề tài Ngàn Lẻ Một Ðêm.
Ông giải thích, ngàn đêm có nghĩa là vô cùng.
Nói ngàn đêm là nói vô cùng đêm, là đêm không làm sao đếm được, đêm
chẳng hề tận
cùng, chẳng hề có cái chuyện đêm chưa qua mà trời sao vội sáng. Nói
"một
ngàn và 1 đêm", là thêm 1 vào vô cùng. Và Borges nhắc tới cách nói
trong tiếng
Anh, thay vì “forever”, mãi mãi, thì nói, forever and one day. Và nó làm ông
nhớ
tới dòng thơ của Heine, gửi 1 người đàn bà:
Anh sẽ yêu em vĩnh viễn,
hằng hằng,
và ngay cả, sau đó: ”I will love you eternally and even after”.
TTT có câu “Yêu em suốt
một đời, suốt 1 đời chẳng đủ”, là cũng
theo nghĩa này, nhưng “Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp
tới”, thì cũng
nói ý đó, nhưng mạnh hơn nhiều, bởi vì “nhớ”mạnh hơn “yêu”, theo
Gấu.
Và đó là tình
cảnh của Gấu:
Những ngày
Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa,
cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi
cận kề
cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn
réo ngang
đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với
những thảm
bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn
thường
tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế
nào cho
cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Nhưng tại
sao lại 10, trong 10 năm? Có gì khác biệt
giữa mười năm, và ngàn năm?
Bài viết về Ngàn Lẻ Một Ðêm,
thật là thần sầu. TV sẽ post, và sẽ dịch lai rai ba sợi, trong
khi mơ tưởng sẽ viết cuốn tiểu thuyết đầu tay chẳng hề viết!
Ngàn Lẻ Một Ðêm
Trên
Blog Gỗ Mun có dịch một đoạn bài viết về Ngàn Lẻ Một Ðêm của
Pamuk.
Gấu có đọc bài này. Cách đọc của Pamuk thua xa
cách đọc
của Borges, và bài của Borges là 1 trong những tuyệt vời viết về tuyệt
tác này.
Gấu đọc Ngàn Lẻ Một
Ðêm từ hồi còn con nít,
thì ai chắc cũng vậy, và còn giữ được hai kỷ niệm thật là tuyệt vời về
nó.
Một, là về Ali Baba
và 40 tên trộm, về anh chàng biết được mật mã mở kho tàng của 40
tên trộm,
"Hạt Vừng Mở Ra", « Sésame, ouvre-toi ! ». Vô nhìn thấy vàng bạc châu báu nhiều quá, lo
nhặt nhạnh
thu gom nhiều quá, mê quá, đến nỗi quên mẹ mất mật mã, và đành chờ đám
cướp về…
Có vẻ như Gấu bị chuyện
này ám ảnh khủng khiếp đến nỗi
sau này, mỗi khi có dịp "Hạt Vừng Mở Ra", về bất cứ thứ gì, tình yêu,
sex, tri thức... là đều luôn luôn cảnh giác, nè, coi chừng, đừng
để bội
thực, quên mẹ mật mã!
Ngay cả cái chuyện “nhớ” cũng
thế; cái gì cần nhớ thì
Gấu mới nhớ, cái gì nghĩ không cần, là cho quên luôn, vì chỉ sợ nhớ
nhiều quá,
thành.. khùng!
Khủng đến nỗi, là Gấu đọc bất
cứ cái chi chi, là cái
máy “gạt” hoạt động liền tức thì, và liền lập tức lọc giùm Gấu, cái gì
không cần
nhớ, không cần giữ!
Sau này, khi biết đến cái gọi
là rác, là spam… của
PC, thì Gấu bật cười mà gật gù, cái này ta biết từ lâu rồi.
Kỷ niệm thứ nhì mới thật
thú.
TV sẽ post cả hai bài viết, và nhẩn nha lèm bèm. Bài của Borges được in
trong tập
Bẩy Ðêm [Khoái Lạc]
Source
Trong bài viết
, Borges cho biết 1 chi tiết động trời, cái truyện Ali
Baba và 40 tên trộm không có trong nguyên tác, mà là do người dịch,
Galland, phịa ra, rồi thêm vô, và ông còn cho biết, đây là truyện hay
nhất
trong Ngàn Lẻ Một Ðêm.
Quả đúng như thế.
Cả
1 đời viết văn, hơn nửa thế kỷ cầm viết, ra được
hải ngoại, đi 1 đường Chân Dung Văn
Học, Gấu Cà Chớn chỉ kiếm được hai người để
vinh danh là Joseph Huỳnh Văn, và Ðỗ Long Vân.
DLV thực sự không phải là bạn, và
chỉ gặp hai lần, một ở Quán Chùa, và một, lần đi cùng với JHV ghé Ðài
Truyền Tin Phú Lâm, khi DLV đang phục vụ như 1 anh binh nhì, với
bộ quân
phục VNCH rộng
thùng thình, phát sao, mặc vậy.
Ðó
là lần JHV đến lấy bài viết của DLV cho
TSVC, Truyện Kiều ABC.
Trong
khi hai người nói chuyện, Gấu đọc loáng thoáng bài
viết, và chôm được một ý, áp dụng liền vô bài viết, đăng sau đó,
cũng trên
TSVC, về Bếp Lửa của TTT:
Note: Nhã Tập
quả đúng là tên 1 số Tập San Văn
Chương, số Tháng Tám 1972, đăng bài viết của Ðỗ Long Vân, Truyện Kiều
ABC.
Đỗ
Long Vân
Chết là hết,
như người Việt thường nói. Nhưng Volkov, trong bài viết tưởng niệm thi
sĩ
Joseph Brodsky, "Con sói cô đơn của thơ ca", đã trích dẫn câu thơ của
nữ sĩ Akhmatova, "Khi một người đàn ông chết, những bức chân dung của
người
đó thay đổi", và đưa ra nhận xét, "có chút chi lạnh lẽo ở hai dòng
thơ này". Theo ông, thường ra, khi được tin một người bạn mất, và được
trao công việc lọc lựa những bức chân dung, ông nhận thấy có những thay
đổi thật
tế vi, đôi khi gây kinh ngạc, từ nét mặt người quá vãng. Như thể thần
chết vạch
giùm cho chúng ta thấy một ý nghĩa, một viễn tượng nào đó, ở nơi người
chết, chỉ
sau khi đã phán bảo: người này chết rồi. Những giai thoại-sau cái chết
(the
posthumous legend) càng mạnh, hậu quả của chúng càng xáo trộn, ở nơi
những bức chân
dung đó. Và theo Volkov, chuyện như vậy đã không xẩy ra, trong trường
hợp của
Joseph Brodsky. Sau khi ông mất vì bịnh tim vào ngày 28 tháng Giêng năm
1996 ở
New York City, giai thoại về ông khi còn sống nhập hẳn vào những bức
hình của
ông, qua đó, là thời niên thiếu nổi loạn trong một thành phố bị vây
hãm, cuộc
vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử cận đại, chưa kịp hồi phục bị
giáng
thêm đòn thanh trừng thời kỳ Stalin, rồi tới bản án theo kiểu Kafka của
nhà nước
Xô viết…
Người viết
đã có lần giới thiệu bài tưởng niệm Joseph Brodsky, của T. Tolstaya,
rồi nhân
đó, tưởng niệm một nhà thơ Việt. Một người quen đã bực mình, tại sao
lại để hai
nhà thơ kế nhau như thế? Brodsky thì ai cũng biết, nhà thơ bạn anh, đâu
có ai
biết đến mà chơi cái trò ăn theo!
Tôi thật sự
ngạc nhiên, khi bị hỏi như vậy, lần đó.
Trong bài viết
của Tolstaya có nhắc tới một người thợ mộc ở Moscow, nhân được phỏng
vấn, đã trả
lời: Tôi chỉ mong có một cuộc sống riêng tư. Như Joseph Brodsky!
Anh bạn nhà
thơ của người viết sau 1975 đã làm nghề thợ mộc. Trước đó anh làm nghề
dạy học.
Anh khoe, tìm thấy những vân gỗ y hệt những vần thơ!
Cái ông thợ
mộc chẳng ai biết đến đó lại mong có một cuộc đời rất riêng tư của một
nhà thơ
được giải Nobel văn chương!
Cái ông thợ
mộc bạn tôi, giả sử như gặp nhà thơ Nga ở cái thế giới nào đó, có thể
sẽ là hai
người bạn thân. Tôi thực sự mong mỏi như vậy. Và tôi còn tin rằng
Joseph
Brodsky sẽ thèm thuồng cái số phận của anh bạn thơ của tôi, ở trong cái
thế giới
cả hai đã cùng từ bỏ.
Nhà thơ Nga
bị nhà nước Nga tống xuất, xin xỏ mãi để được ở lại, mà không được. Bạn
tôi cứ
tà tà ở lại, chẳng ai đuổi, và cũng chẳng thèm đi! Bạn tôi làm thợ mộc,
nhà thơ
Nga phải làm nghề mổ tử thi. Ông tự hào về nghề đó, và xấu hổ khi phải
bỏ nghề.
Anh bạn nhà thơ của tôi tự hào là một anh thợ mộc, và anh tìm thấy thơ
ở đó,
khi không còn có thể làm thơ được nữa.
Thử hỏi
Brodsky có tìm thấy thơ từ những xác chết hay không?
Anh bạn nhà
thơ của tôi, là bạn thân của Đỗ Long Vân.
Tôi viết bài
tưởng niệm Đỗ quân cũng trong ước vọng đó: được có một cuộc đời riêng
tư như Đỗ
quân.
Bởi vì cái
cuộc đời riêng tư đó thật là hiển hách vô cùng, đối với đám tụi tôi.
Đám chúng
tôi, khi đi trình diện nhập ngũ, trưng đủ thứ bằng cấp, để được đi học
sĩ quan
(bằng tú tài), để được biệt phái về một đơn vị không tác chiến (bằng
chuyên
môn)…
Đỗ quân, tuy
bằng cấp đầy mình, đã từng du học Paris, giáo sư đại học, đi trình diện
như một
cái bang chẳng có một túi nào!
Sĩ quan,
binh lính miền nam trước 1975 thường mặc quân phục bó sát người. Kỷ
niệm của
tôi về Đỗ quân, trong lần tình cờ đi cùng anh bạn thi sĩ Joseph Huỳnh
Văn ghé
thăm ông tại Đài Truyền Tin Phú Lâm, là một anh lính trong bộ quần áo
nhà binh
rộng thùng thình, tươi cười, thoải mái. Tôi có cảm tưởng ông thoải mái
hơn cả lần
đầu gặp tại quán Cái Chùa, đường Tự Do.
Cầm Dương Xanh
|