Một
trong những tính chất cực
kỳ quí hiếm, ở thơ của Trần Mộng Tú, theo tôi, là, những dòng cực hiếm
quí của
bà, được che giấu thật kỹ, bởi những dòng thơ ‘đôn
hậu’! (1)
Nhưng
có lẽ phải dùng cái từ mà
một ông chủ báo ở Cali,
sử dụng: Khi thấy Gấu khen thơ TMT, ông ta bực mình:
Cái thứ thơ "luân lý giáo
khoa thư" đó, mà NQT khen ư?
Ông khen thơ đó, là mất tiếng nhà đại phê bình sa đích đi!
*
Điều này, "làm thơ để giấu thơ", Gấu ngộ ra, là nhờ
chính thi sĩ TMT! (2)
(1) Có
lẽ phải "mô phỏng" Gide, thì chúng ta mới hiểu được vấn đề chúng ta
đang bàn tới ở đây:
Cái thứ tình cảm đôn hậu chỉ làm nên một thứ văn chương thi ca tồi!
*
Quả là có cái gọi là tình cảm
đôn hậu trong thơ văn TMT, nhưng phải coi đây là “thuốc ngừa” cái mầm
tà ma ác
quỉ của một miền đất! (3)
Đúng ý Brodsky, khi dùng thơ
của Tsvetaeva, nữ sư phụ của ông, để nói về Tsvetaeva:
To your insane world,
But one reply – I refuse.
Về
cái cây bị bứng, theo
Gấu, trong trường hợp TMT, thì phải hiểu như vầy:
I learn love through the
pain
all down my body.
Nói rõ hơn, không có cái sự bứng
đi không bị khô héo ở đây. Chính nỗi đau ngày nào làm cái cây không khô
héo. Gặp
đất tốt, nó còn tươi tốt hơn so với đất cũ, quê cũ.
(2)
"Ba mươi năm ở
Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện
ngắn. Lập gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu
22, 20,
19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có
lắm....
trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với
mình quá. Mấy
chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền
bù. Còn
quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được..."
Cái bài thơ ở trong túi đang
làm dở đó, phải đợi tới lúc dòng thơ cực kỳ hiếm quí mò tới, đánh thức
nó dậy...
(3)
Cô Rơm là người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình
biết, cô
có tên mộc mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi gia đình
chạy
khỏi thành phố Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".
Kim Dung cho rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường
cũng bịa đặt ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên
thảm họa.
Ông kể về một thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng khiếp, và người
dân
nghèo đã dùng làm giầy dép. Những người dân quê miền Bắc chắc không thể
quên
những ngày đông khắc nghiệt, và để chống lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ
Trần Mộng
Tú tin rằng "rơm" là phương thuốc hữu hiệu, không chỉ để chống lại
cái lạnh của thiên nhiên, mà còn của con người.
Ít nhất, chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam,
rồi ra hải
ngoại, tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu chuyện
thần tiên.
"Sức khỏe" ngôn ngữ đó - thật thiết yếu, cho một xã hội đang còn sống.
Văn chương là nơi ngôn ngữ luôn bị thách đố, và cần được gìn giữ nhất.
The
health of language is essential to the preservation of a living
society. It is
in literature that language is most truly challenged and guarded. G.
Steiner, Chủ
nghĩa Mác và Phê bình văn học - phải chăng được Cô Rơm gìn giữ, giùm
cho tất cả
chúng ta?
Thư bạn
*
-ÐQAThái: Tôi không
nhớ có
một người nào đó đã nói rằng, chất liệu làm cho một văn nghệ sĩ có được
tác
phẩm lớn là nỗi khổ đau, hay nói một cách khác, tố chất của người nghệ
sĩ là họ
phản ảnh nỗi khổ đau của con người. Nếu mà sống trong một hoàn cảnh
bình an
quá, hạnh phúc quá thì liệu một tác phẩm có đủ sâu sắc để trở thành một
tác
phẩm lớn không?
-Nhà văn Phạm Xuân Ðài: Cái
đó tôi thấy cũng có lý. Phải sống trong những nỗi đau khổ thật lớn thì
mới có
tác phẩm lớn. Nhưng mà đó là những trường hợp tác phẩm thật lớn kia,
còn như là
Trần Mộng Tú chẳng hạn thì chúng ta có một nhà thơ, nhà văn rất đáng
yêu đối
với cộng đồng của chúng ta và có lẽ cũng của người đọc Việt Nam
nói chung
trên khắp thế giới.
Cái nỗi
đau lớn không có đẻ
ra cái tác phẩm lớn đâu, theo Brodsky.
Ông phán:
Có một giả tưởng quái đản cho
rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn, Đau khổ làm cho người ta mù lòa,
điếc
lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. [It’s an abominable fallacy that
suffering makes for great art. Suffering blinds, deafens, ruins, and
often
kills]. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy,
là
Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến
cái
cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu
dân
Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm [gifted].
Cơ bản mà nói, tài năng đếch
cần lịch sử.
Joseph Brodsky: Ai điếu
Nadezhda Mandelstam [1899-1980].
Cơ bản, tài năng đếch cần
lịch sử. [Basically, talent doesn’t need history]. Hãy nhớ lại những
tài năng
tiền chiến, đếch cần tới Mùa Thu Lịch Sử sau đó. Thê thảm hơn, họ bị nó
nghiền
nát bấy, biến thành, hoặc đao phủ hoặc nạn nhân. Người đọc chẳng đã
sửng sốt vì
những cái độc cái ác đầy rẫy ở trong sổ Ghi của Trần Dần, chúng đâu làm
cho tài
năng của ông lớn thêm lên đâu? Một cách nào đó, phải coi hành động tiêu
diệt
nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như là một hành động sát nhân.
Đọc thơ
Joseph
Huỳnh Văn, 1975
Akhmatova,
1917
*
Cái
“mỹ tưởng”, “làm thơ để
giấu thơ,” làm nhớ đến Xuân Diệu!
Trong "Chân Dung và Đối
Thoại", Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ Xuân Diệu.
*
"Còn nhớ dạo ông tặng
tôi tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính phục. Khi gặp ông, tôi
thú
thực:
- Trong này có mấy bài thơ tứ
tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào, thuộc thơ, rồi lại quên mất tác
giả, lại
tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường mới chết chứ!
Xuân Diệu cười, tỏ ra rất tâm
đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng chân thật:
- Cháu rất thích tập thơ này.
Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở, chú
ạ.
- Ơ, cái cậu này hay chửa? -
Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây là tuyển thơ à? Còn phải
sàng sảy
chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ. Còn bây giờ có cái gì, cứ phải
quăng
ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái mẹt, cái váy đụp gì thì cũng
vứt ra,
rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang cháy, mà cậu còn ngồi nhặt
nhạnh của
nả hả?
Tôi im tịt chẳng nói được gì.
Đầu óc dường như mụ lị. Đúng thật. Sao mình lại ngu thế nhỉ. Ai lại
chọn lọc
của cải khi mà nhà đang cháy. Mãi đến lúc thoát ra khỏi cái mê cung của
Xuân
Diệu rồi, đạp xe đi một quãng xa rồi, tôi mới sực tỉnh, mới nhận ra một
điều
quá ư là đơn giản: in thơ tập, và cháy nhà là hai việc rất khác nhau."
Như
trên đã nói, văn chương
bắt đầu bằng những từ: "là" (Em là gió, là mây...), "hình
như" (là tình yêu), "như" ("sáng nay Nga như một con mèo
ngái ngủ...", "buổi sáng sớm tinh sương như một vết thương mới lên da
non"...). Tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, thậm xưng, cường điệu....) đề
nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Chúng ta tự hỏi: tại sao Xuân Diệu
lại so
sánh chuyện cháy nhà với chuyện làm thơ? Và cảm giác "mụ lị" của Trần
Đăng Khoa, và thái độ "phản tỉnh" (tự kiểm thảo?) sau đó, có thể hiểu
như thế nào?
Liệu có
thể có một nối kết
giữa con sói ở góc rừng, nỗi sợ của cậu bé, chuyện cháy nhà (chiến
tranh, B.52,
chủ nghĩa toàn trị sẽ phần thư tất cả, chỉ để lại những câu vè...), nỗi
sợ của
Xuân Diệu, con sói giả tưởng của ông...
Cả hai nhà thơ, Xuân Diệu và
Trần Đăng
Khoa đều nhận ra một sự thực: có những câu thơ của Xuân Diệu đã vươn
tới cõi
thơ Đường, đã trở thành tự nhiên như cây cối, như sỏi đá, người đọc mê
luôn, và
chẳng cần biết tác giả là ai. Nhưng để cho những câu thơ tồn tại, phải
quăng
vào đó, một mớ váy đụp... Như một nhà thơ, Xuân Diệu biết rõ, thời gian
qua đi,
chủ nghĩa toàn trị sẽ qua đi, sẽ bị huỷ diệt, tới lúc đó, nàng công
chúa sau
giấc ngủ dài, rũ khỏi lớp váy đụp, vươn vai tỉnh dậy...
Là thi
sĩ, làm sao ông không
biết bài ca dao vịnh Phượng Hoàng:
Phượng hoàng đậu chốn
cheo
leo,
Sa cơ thất thế phải theo
đàn
gà.
Bao giờ mưa thuận gió hòa,
Rũ lông, rũ cánh, lại ra
phượng hoàng.
(Tôi viết lại theo trí nhớ).
Chen
Yun (Trần Vân), kinh tế gia, thuộc
đảng bộ Bắc Kinh, trước khi mất vào tháng Tư, 1995, đã so sánh chính
sách kinh
tế Thị Trường Mới (New Market economy) của Trung Quốc như một con chim
tư bản
lớn lên ở bên trong cái chuồng xã hội chủ nghĩa (a capitalist bird
growing up
inside a socialist cage). Liệu đã tới lúc con phượng hoàng thơ vỗ cánh
thoát ra
khỏi cái chuồng giam giữ nó?
Đọc Chân Dung & Đối Thoại
Chính những câu thơ ‘đôn hậu’
giấu những câu thơ thần, ở bên dưới cái đạo đức “luân lý giáo khoa thư”
là sức khoẻ của ngôn ngữ.
Mắt xanh hay mắt
trắng (To be or not to be?). Văn là người, nhưng văn cũng để giấu
người: chất
khinh bạc vốn lồ lộ trong Nguyễn Tuân, là để giấu con người thực của
ông. Người
đọc sướng điên lên, vỗ đùi bành bạch, vì nét tài hoa, vì con mắt trắng
dã của
Nguyễn Tuân, nhưng để lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những
câu văn
nhẹ khôn kham: "cứ đến ngồi đây là mình lại nhớ đến nó. Không hiểu
sao."
Một chuyến đi
PXD:
Cái đó tôi thấy cũng có lý.
Phải sống trong những nỗi đau khổ thật lớn thì mới có tác phẩm lớn.
Nhưng mà đó
là những trường hợp tác phẩm thật lớn kia, còn như là Trần Mộng Tú
chẳng hạn
thì chúng ta có một nhà thơ, nhà văn rất đáng yêu đối với cộng đồng của
chúng
ta và có lẽ cũng của người đọc Việt Nam nói chung trên khắp thế
giới.
Gấu sợ
rằng, chính “nhà thơ,
nhà văn rất đáng yêu đối với cộng đồng của chúng ta và có lẽ cũng của
người đọc
Việt Nam nói chung trên khắp thế giới” là... mặt ngoài, để che
giấu “nhà thơ mắt
xanh”, với những câu thơ thần, chỉ thi sĩ thứ thật, thứ xịn mới làm
được, đúng
thứ “thơ để trao cho thi sĩ” mà Borges đã từng nói tới.
Hay,
như Graham Greene, khi
phải nhận xét về cuốn The Heart of the
Matter của ông:
“Thành công. Một thành công
theo một cái nghĩa dung tục lớn lao của từ này”!
[‘a success in the great
vulgar sense of that term’]
Đọc TMT
'Chiếc cây bị bứng khỏi đất
cũ, nhưng không héo úa'
Tôi là thi sĩ
Giọt
Mưa
Trời Khóc
Tôi
không muốn làm nhà thơ. Mà chỉ muốn làm một anh văn
nghệ làng nhàng. Một thằng nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì đã trần tình như
vậy, nhưng là một Tư Mã Giang Châu
đã quá hân hạnh ở trên cõi đời này rồi.
R.L. Stevenson
*
Là một nhà thơ chứ, lẽ dĩ
nhiên!
Một nhà thơ vụng về, nhưng một nhà thơ.
[Borges trả lời phỏng vấn]
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
PHỐ CŨ DƯƠNG CẦM THU
Lá vàng rơi thương tưởng Dương
Cầm Thu
Phố ươm nắng vàng câm. Âm biếc nắng
Bờ bến gọi. Thức tròn mùa xa vắng
Em đi đâu?! Dương cầm réo sông xa
Dương Cầm Thu ngấm men rượu
Hoàng Hoa
Phố thầm nhắc một mái lầu phong nguyệt
Màu cổ điển. Rằm phơi âm bất tuyệt
Em đi đâu?! Cỏ ướt khúc tình sầu
Dương Cầm Thu tóc xõa Dương Cầm
Nâu
Phố khuya hát ngàn sông. Rêu nhớm rễ
Âm níu Nhạc. Ngàn sông bay nắng xế
Để ngàn khuya tan theo Dương Cầm Thu
Muốt tay em mềm hết dấu sương
mù
Phố điêu khắc. Dương Cầm Thu chín đỏ
Lá say hết âm vang chìm đáy mộ
Nắng vàng câm. Âm biếc nắng nhớ nhau
Nắng vàng câm. Vang bóng đến
ngàn sau
Phố ngực nõn dậy thì trăng ướt mượt
Phím chất ngất. Dương Cầm Thu hẹn ước
Trăng gọi nước xuôi ngàn. Đàn vang bước em đi…
8/2005
Quả là một khúc thần sầu. Chất
viril [chất
đực], chất eros [chất huê tình], chất sauvage [dã man, tàn bạo]...
nhưng cũng
thật thơ mộng:
Em đi đâu, cỏ ướt khúc tình sầu.
Thơ NLV âm vang thơ của những bậc đi trước ông.
Rõ nhất, là Joseph Huỳnh Văn, rồi tới Bùi Giáng, rồi tới Thanh Tâm
Tuyền [chất
đàn ông, hung bạo mà cả hai đấng kia không hề có].
Có lần, Gấu thú thực, chưa tìm ra chìa khoá vô cõi thơ NLV. Có NTN, lần
anh
viếng thăm Mẽo, và nhà thơ này gật gù, đúng, mỗi cõi thơ là mỗi chìa
khoá. Thơ
của tôi, chìa khoá nằm ở mãi cõi Thơ Đường.
Nói chung, thơ của mấy ông này, chìa khóa thì đều nằm trong Cõi Điên
cả.
Trừ Joseph HV, cõi thơ Ky Tô, giống của Brodsky.
Trừ TTT, cõi thơ trí tuệ, gần cõi thơ Milosz, nhưng lại thiếu cõi quê
của
Milosz.
Cõi quê như chính ông tâng bốc:
It is good to be born in a small country where nature is on a human
scale,
where various languages and religions have coexisted for centuries. I
am
thinking here of Lithuania,
a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le
với con
người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời.
Tôi đang
nghĩ về Lithuania,
miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Với TTT, thì đây là Đất Bắc mà ông đã từ bỏ, và khi trở về, thì như một
tên tù:
Chiều cuối năm qua
xóm nghèo
Mưa
bay lất phất gió căm
căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78 (Thơ
ở đâu xa)
Note: Thơ NLV âm
vang thơ của những bậc đi trước ông.
Chúng ta phải hiểu câu này, trong cái dòng của câu của Dos, như bài
điểm cuốn
Dead Souls, dưới đây:
Chúng ta đều chui ra từ Chiếc Áo Khoác của Gogol:
The famous remark often attributed to Dostoevsky that "We all emerged
from
Gogol's overcoat" (a reference to Gogol's story of 1842) remains more
accurate.
Thơ NLV quả là đã chui ra
từ cái áo
khoác, là cõi thơ Miền Nam,
tụ vào mấy đấng Joseph Huỳnh Văn, Bùi Giáng, và TTT.
Tại sao trong cõi thơ đó, không có, thí dụ TTY?
Thơ TTY, là dòng thơ cảm khái, có từ ngàn đời, và đời nào cũng có. Nhà
thơ giáo
chủ Tân Hình Thức gọi, đây là thơ biên tái, biên đình.
*
Nhà thơ Milosz viết,
trong bài
viết ‘Về Brodsky’ trong “Bắt đầu nơi tôi là”:
Điều sâu thẳm nhất mà ông ta
[Brodsky] nói về Akhamatova, và có lẽ đây là những từ sâu thẳm nhất,
chưa từng được
nói ra, về cái gọi là tiến trình tạo nói chung, là, rõ ràng là bà quá
đau khổ
khi viết Kinh Cầu. Nỗi đau con bị tù của bà là thực, nhưng khi viết về
nó, bà cảm
thấy như giả đò, giả vờ, gượng gạo, [falsehood], chính là do bà phải
vận nỗi đau
của mình thành vần thành điệu [she had to shape her emotions into
forms]. Và chính
cái gọi là “form”, sử dụng tình cảm đau thương cho mục đích của riêng
nó, làm tê
liệt nó, như nó vẫn là như vậy.
Tôi
nghĩ Trần Mộng Tú thoạt tiên là người của Thơ... không, không phải là
của thơ,
mà bản chất Tú chính là Thơ, rồi từ đó tất cả các thuộc tính khác của
đời Tú
như văn chương, tính tình, rồi đến vai trò người tình, người vợ, người
mẹ
v.v... đều do từ cái Nguồn Thơ ấy phân phối ra. Ít có một con người nào
nhất
quán như Tú. Nhìn từ góc cạnh nào cũng nhận ra cái bản chất chung thì
rất đôn hậu
nhưng lại mới lạ nhạy bén trong sáng tạo, giản dị trong đời thường
nhưng phức tạp
trong văn chương, tình cảm... Nhưng dù có mới lạ, nhạy bén, phức tạp
bao nhiêu
cũng không rời xa nét đằm thắm của sự đôn hậu.
Phạm Xuân Đài
Văn chương của Trần Mộng Tú phản ánh thật sáng và rõ một tâm hồn rất
nhậy cảm
trước những nét đẹp đẽ, tha thiết cũng như xót xa, đau khổ của cuộc
sống. Đặc
biệt là khi những nét đời ấy được đặt trong khung cảnh của Việt Nam,
trong mắt
nhìn và trong tấm lòng sóng sánh đầy những thiết tha và nhân ái của
người nhìn
ngắm chúng. Có sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé
với những
mộng tưởng thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo
động của
cuộc đời. Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những
khoảng thinh
lặng cần thiết và ấm áp của tình người.
Bùi Vĩnh Phúc
*
Có một khoảng cách rất lớn giữa những nhận xét trên, với một hai câu
thơ “xuất
thần” của TMT. Nhận xét của PXĐ như đã manh nha 'một cái gì đó', khi
viết:
Nhìn từ góc cạnh nào cũng nhận ra cái bản chất chung thì rất đôn hậu
nhưng lại
mới lạ nhạy bén trong sáng tạo, giản dị trong đời thường nhưng phức tạp
trong
văn chương, tình cảm..
Nhưng chính TMT nhận rất rõ về mình, khi viết:
"… trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở."
Như
thế, tất cả đều chỉ là những bài thơ làm dở, rồi, bất thình lình, thơ
bật ra.
*
Gấu
bỗng nghĩ đến anh chàng điệp viên James Bond, trong cuốn Tiểu Sử Không
Được
Phép.
"James
Bond: The Unauthorized Biography
of
007" by John Pearson.
Bond, chỉ đến "sát na" chót, ở "biên giới của tử sinh", thì
mới tìm ra cho mình một đường sống.
*
Có lẽ, sáng tạo nào cũng phải được hiểu như vậy.
Và đều nguy hiểm chết người như vậy !
Nếu
đằm thắm, đôn hậu, mà thôi, thì giỏi lắm, cũng chỉ đạt tới "những tình
cảm
tốt đẹp", và nếu như thế, chúng ta có, câu của Gide, khi đi Liên Xô
tham
quan trở về:
Tất cả những tình cảm tốt đẹp chỉ đẻ ra một thứ văn chương tồi. Văn
chương xã hội
chủ nghĩa, viết dưới ánh sáng của Đảng.
*
Cuốn James Bond, Tiểu sử không được phép Gấu đọc những
ngày ở trại
tị nạn Thái Lan, khi đã đậu thanh lọc, và chờ gặp phái đoàn, để xin đi
tái định
cư, và là một trong những cuốn sách đầu tiên làm quen lại với tiếng
Anh.
Một trong những xen mà Gấu còn nhớ mãi, xẩy ra khi Cách Mạng Hung bùng
nổ, Bond
được phái tới Budapest để cứu một nữ điệp viên Anh bị kẹt.
Đến, bị bắt tại trận, ngay khi gặp cô bạn, vì người yêu của cô này là
điểm chỉ
viên nằm vùng của KGB, và chuyến đi của Bond là chỉ để lọt vô bẫy của
họ.
Vào những giờ phút thành phố lọt vào tay cách mạng, đám điệp viên Nga
Xô phải
rút đi, họ nhốt Bond và cô bạn vô một chuồng.. gấu, trong sở thú Budapest.
Mấy con thú cũng đang phát cuồng, cứ thế tiến đến phía hai người. Và
Bond tìm
ra cơ may sống sót, đúng vào lúc đó, khi anh chợt nhớ ra là loài gấu,
cũng như
loài khỉ, có thói quen bắt chước con người. Thế là chàng lùi dần tới
chấn song
chuồng giam, làm bộ kéo kéo giật giật mấy thanh sắt, như muốn làm chúng
doãng
ra, để lọt người qua.
Mấy con gấu bắt chước, và, lao ra khỏi chuồng, Bond dắt tay cô bạn gái
chuồn theo.
Gấu
đã kể chuyện trên một lần, nay kể lại, để tưởng niệm Cách Mạng Hung,
những ngày
này cách đây 50 năm.
Và
để vinh danh một giọt mưa.
Có sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn
xé với những mộng
tưởng thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động
của cuộc
đời. Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những khoảng
thinh lặng
cần thiết và ấm áp của tình người.
Đây là thứ văn không thể quên thời đi học và những bài luận mẫu, văn
chương huề
vốn, ba phải, "vãi linh hồn".
Chính cái tính chất vãi linh hồn này dễ làm cho người viết tưởng mình
là thi sĩ
!
Không phải Gấu, mà là Kundera đã chỉ ra, và mượn cây gậy của Kafka để
mà phạng.
Con tim khô héo luôn ngụy trang bằng thứ văn phong ướt đẫm tình cảm.
[Sécheresse
du coeur dissimulée derrière un style débordant de
sentiments].
Di chúc Kafka
Sự lầm lẫn - tưởng mình là thi sĩ, với những dòng văn đầy nước mắt nước
mũi,
như trên, theo Gấu, khá nhiều nhà văn nhà quê của chúng ta mắc phải,
nào là thì
thầm với thơ, nào là ra biển gọi thầm [la lớn còn chẳng ăn ai, ở giữa
biển cả,
nữa là thầm với thì] - là do không phân biệt được, thế nào là trữ tình,
lyrique, thế nào là thơ ca, poétique.
Mỗi khi hơi bị bé cái lầm, cứ tưởng mình là thi sĩ, hãy nhớ câu này của
Borges:
Thơ là để trao cho thi sĩ.
Hay câu này, của Rilke, [theo Coetzee]:
Rilke
chiến đấu cả đời để là
một nhà thơ - không phải nhà thơ thuần túy, nhưng thuần túy nhà thơ
[not a pure
poet, but purely a poet], bởi vì ông cảm thấy.... thơ chỉ có thể viết
bởi một
người nào đã là nhà thơ [because he felt... that poetry could only be
written
by someone who was already a poet].
Nguồn
*
Một trong những tác giả tôi đọc sớm sủa nhất, và viết về người đó đầu
tiên, khi
mới ra hải ngoại, là TMT. Sự say mê tiếng Việt của bà làm tôi sững sờ,
khi đó,
và viết ra điều này, trên tờ Văn Học của NMG, người tình của bà là
tiếng Việt.
Mãi sau này, nhìn lại, tôi mới hiểu điều tôi nói đó, là từ một câu
khác, đã đọc
từ lâu, và ăn sâu vào tiềm thức.
Câu đó như vầy:
Nhà văn lớn là người kết hôn với đất nước của họ.
Và câu này, cũng đã được tôi sử dụng, khi đọc Nhất Linh. Mối tình lớn
của Nhất
Linh với Miền Bắc, bật ra, khi ông, trong nhân vật thế thân của mình,
là Dũng,
buổi trưa hè "ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung" đó, đó, vô tình nhìn
thấy cái áo cánh trắng bên vườn hàng xóm, tự hỏi, của ai đấy nhỉ, và
chợt nhớ
ra là nghỉ hè, và Loan đi học ở tỉnh trở về nhà.
Nhưng với TMT, còn hơn thế nữa. Bà chỉ có thể kết hôn với ngôn ngữ, bởi
vì quê
hương của bà không còn.
Đây cũng là điều Brodsky nói ra, khi được hỏi, và ông trả lời, tôi hết
còn tin
vào cái xứ sở đó.
Nhưng, khác Brodsky, những người như TMT, họ chứng kiến cái giây phút
hấp hối
của xứ sở, khi ngoái nhìn lại, những ngày 30 Tháng Tư 1975. Kinh nghiệm
này,
Kundera cũng đã từng sống vào năm 1968, khi Liên Xô xâm lăng xứ sở của
ông, và
ông bảo, nó đau như là một trận cháy nhà. [Trong Le Rideau, Bức Màn]