A
poet's prose is the
autobiography of ardor. All of Tsvetaeva's work is an argument for
rapture; and
for genius, that is, for hierarchy: a poetics of the Promethean. "Our
whole relation to art is an exception in favor of genius," as Tsvetaeva
wrote
in her stupendous essay "Art in the Light of Conscience." To be a
poet is a state of being, elevated being: Tsvetaeva speaks of her love
for
"what is highest." There is the same quality of emotional soaring in
her prose as in her poetry: no modern writer takes one as close to an
experience of sublimity. As Tsvetaeva points out, "No one has ever
stepped
twice into the same river. But did anyone ever step twice into the same
book?"
Susan Sontag”, A Poet’s Prose
“Tôi sẽ chẳng là gì nếu không
có thế kỷ 19 của Nga…”
Camus vinh danh
Pasternak
Thế kỷ 19 của Nga đã biến đổi
tâm hồn của chúng ta, là một thành tụu của những nhà viết văn xuôi,
prose
writers.
Với thế kỷ 20 của Nga thành tựu
của nó hầu hết là của những nhà thơ, nhưng không chỉ là một thành tựu
trong thơ, in poetry.
Văn với thơ, như đi bộ với
khiêu vũ
Prose is to poetry, said Valéry,
as walking is to dancing.
[Susan Sontag trích dẫn,
trong bài viết trên]
Đọc tản
văn của TMT, thí dụ bài
viết về quê nội, trên Blog NXH, VOA làm Gấu nhớ tới những dòng Sunsan
Sontag viết
về tản văn của nhà thơ Nga Tsvetaeva.
Liên tưởng ở đây, còn là về số
phận của cả hai nhà thơ. TMT đã từng mất mát rất nhiều, khi còn ở quê
nhà, rồi
tìm được hạnh phúc ở quê người. Nhà thơ Nga, cùng chồng, đã thoát ra
khỏi, rồi đều
trở về, để chết một cách tức tủi, tại quê hương.
How can one
go back
To a
ravaged home?
Marina
Tsvetaeva: My country
Làm sao trở
về, căn nhà hoang?
Volkov:
Ôi chao, thơ
Tsvetaeva mới đằm thắm, mới giông bão, mới ướt át làm sao!
Brodsky:
Chỉ riêng cái phần
ưót át, erotic, không ai ăn nổi bà.
"Tôi
học yêu bằng cơn
đau xé cơ thể"
[I
learn love through the
pain all down my body].
Volkov:
Cả một trăm năm...
đàn bà chỉ mon men tới mép chiếu thơ Nga. Bất thình lình cùng lúc xuất
hiện
Tsvetavea và Akhmatova, hai vị khổng lồ của thi ca thế giới.
Brodsky:
Chuyện này có thể
không mắc mớ chi đến thời gian. Nhưng biết đâu đấy. Vấn đề theo tôi là,
mấy bà
rất mẫn cảm, ngửi ra đạo đức bị xâm phạm trước khi nó thực sự xẩy ra.
Và cái
thô bỉ, vô đạo đức thì ê hề trong thế kỷ 20 của chúng ta.... Một ông
chồng đưa
tay sếp về nhà. Họ dùng bữa tối xong, tay kia từ giã. Bà vợ nói, "Tại
sao
anh đưa thằng khốn kiếp đó vô nhà tôi". Bà nói, "nhà tôi". Thế
đấy. Cho dù cái nhà đó là từ đồng tiền thằng khốn kiếp đưa cho chồng.
Cái
Chết Của Một Thi Sĩ:
Những
ngày sau cùng của
Marina Tsvetaeva
Vào
ngày 22 tháng Mười, 1937,
Marina Tsvetaeva bị Mật Thám Tây ở Paris bắt trình diện, về vụ ông
chồng của
bà, Sergei Efron, biến mất mười ngày trước đó. Ông này bị nghi là đồng
lõa
trong một vụ giết hại Ignaty Reiss, nhân viên Mật vụ
Xô Viết, tại Thụy Sĩ, trong tháng trước đó.
Theo như hồ sơ của mật thám Tây, nhà thơ bèn trả lời, chồng tui đi Tây
Ban Nha,
làm nghĩa vụ quốc tế chống phát xít cứu nhân loại, [nguyên văn, ‘chiến
đấu bên
cạnh những người cộng hòa Tây Ban Nha"]. Như bạn bè của bà còn nhớ
được,
bà đã đọc thơ Racine:
"Đó là một con người trung thành nhất, phong nhã nhất, và nhân bản
nhất,
trong số những con người." Và thêm vô: "Nhưng lòng tin của chồng tôi
có thể đã bị lạm dụng, tuy nhiên, lòng tin của tôi về chồng, không bao
giờ." [C’est le plus loyal, le plus noble, et le plus humain des
hommes. –
Mais sa bonne foi pu être abusée. – La mienne en lui – jamais”].
Bất
hạnh thay, bi kịch mà nhà
thơ và gia đình lâm vào, không giống như trong kịch Phèdre của Racine: Efron
không dính dáng gì tới vụ sát
hại trên, giản dị là bởi vì ông làm việc cho cơ quan mật vụ Xô Viết
trong nhiều
năm. Ông không biến mất, để đi chiến đấu cùng những người anh em cộng
hòa ở Tây
Ban Nha, mà là được lệnh NKVD, tiền thân của KGB, về Moscow trình diện.
Con gái
của nhà thơ, Ariadna,
một người tuyệt đối tin tưởng vào chủ nghĩa không tưởng Xô Viết, cũng
đã nhiều
năm hoạt động, như là một điểm chỉ viên tích cực, trước khi trở về quê
nhà vào
Tháng Tư 1937.
Chính
nhà thơ cũng đã trở về
Nga, sau đó, vào tháng Sáu, 1939. Gia đình bà bị quản lý tại gia, tại
một
datcha của NKVD gần Moscow. Hoàn cảnh thật khốn đốn, ngay cả trước khi
xẩy ra vụ bắt giữ cô con gái, ngày 27 Tháng Tám, 1939, và ông chồng,
ngày 10
Tháng Chạp, cùng năm.
Khi
cuốn sách của Irma
Kudrova, Cái Chết Của Một Thi Sĩ:
Những ngày cuối cùng của Marina
Tsvetaeva, nguyên
bản tiếng Nga, xuất bản tại Nga cách đây chừng một thập niên, nó đã gây
chấn
động, nhất là ở những đoạn vạch rõ, cả hai, ông chồng và cô con gái nhà
thơ đều
làm việc cho mật vụ. Tác giả cuốn sách là nhà nghiên cứu đầu tiên được
đọc
những biên bản hỏi cung, và, bằng kinh nghiệm của một cựu tù nhân của
chế độ Xô
Viết, đã lọc ra, đâu sự thực, đâu là méo mó, ở trong
những biên bản 'tự kiểm' đó.
Tác giả
cũng bác bỏ nhận định
của Mariya Belkina, tác giả cuốn Những
Số Mệnh Đan Chéo Nhau, khi cho
rằng vào
cuối đời, nhà thơ Tsvetaeva đã rớt vào tình trạng một bệnh nhân tâm
thần.
Tsvetaeva, như được mô tả trong Cái
Chết Của Một Thi Sĩ, là, rất hoang
mang
khốc liệt, panicked, rất thê lương tuyệt vọng, desperated, nhưng hữu
lý, tỉnh
táo, chứ không phải là một con bệnh tâm thần.
Irma
Kudrova giải thích, nữ
thi sĩ bị đánh gục, không phải là do kìm kẹp, áp bức, truy sát về chính
trị của
nhà nước Xô Viết, mà phần lớn là do sự vắng mặt đất nước Nga trong một
thời
gian dài, 18 năm, thêm vào đó, do cô lập về trí thức và về xã hội; do
chao đảo,
hỗn loạn của cuộc sống tại Yelabuga, thuộc Kazan Province, và còn do
liên hệ
căng thẳng giữa bà và người con trai, muốn đời con để con lo, nữ thi sĩ
coi như
vậy là phản bội lại mẹ.
Nhưng,
theo Catriona Kelly,
người điểm cuốn sách Cái Chết Của
Một Thi Sĩ, trên tờ TLS, số đề ngày 5
Tháng
11, 2004, người đọc có thể nhìn ra, vào những năm sau cùng của đời
mình, nữ thi
sĩ Nga - người mà nhà thơ Joseph Brodsky đã từng thú nhận, chính bà,
chứ không
phải Akhmatova, đã dẫn dắt ông, ở cái thuở ban đầu làm thơ - Tsvetaeva,
lần đầu
tiên trong đời, đã nhìn quá nỗi đau riêng của mình, và nhận ra rằng,
quan niệm
của bà về thế giới - một cái nhìn lý tưởng, mang tính Lãng Mạn ở thời
kỳ sau
cùng của nó - đã nhạt nhòa hẳn đi. Bài thơ lớn lao nhất của bà, Thơ Ở
Lúc Tận
Cùng, Sau Nga Xô, Poem at the End, After Russia, toát ra [được gợi
hứng bởi]
cái cảm quan về sự lăng mạ, bất công. Và nếu như thế, thì đây, nếu
không là một
điều tự hạ mình, thì cũng thật là vô nghĩa, bởi vì tinh thần thơ của
bà, vào
lúc làm bài này, là dưới ánh sáng của văn học Xô Viết, theo kiểu 'mặt
trời chân
lý chói qua tim' [in terms of the self-styled luminaries of Soviet
literature],
của Tố Hữu ‘nhà mình’.
*
Cái
Chết Của Một Thi Sĩ:
Những ngày sau cùng của Marina Tsvetaeva
For the world's your cradle,
and your
grave's the world.
Bởi vì thế giới là cái nôi của anh, còn nấm mồ của anh là thế giới.
Tsvetaeva: I
will win you away from every earth,
from every sky
[Tôi sẽ thắng anh, từ bất cứ mảnh đất, bất cứ vòm trời].
Như một lời thú tội huyền hoặc,
thơ của bà
lùi dần và trở nên bí hiểm, hũ nút, như tín hiệu Morse mà tù nhân sử
dụng để
thông tin giữa họ, xuyên qua tường phòng giam: “My ‘loneliness’.
Dishwater and tears.
The underside of everything is terror.” [Sự cô đơn của tôi. Nước rửa
chén và
những giọt nước mắt. Ở dưới đáy của mọi điều mọi chuyện là nỗi khiếp
sợ].
Viết, làm thơ không còn là niềm khuây khoả, lựa chọn cân nhắc từ này,
từ nọ, giờ
này, thơ ghi nhận sự tiêu ma, huỷ diệt [a record of disintegration].
Thơ của bà,
như thế đó, đã trở thành những lời thú tội được mã hoá, coded
confessions, như
tên bài viết của Catriona Kelly, trên tờ TLS, số đã dẫn.
Ngay cả cuốn Cái Chết Của Một
Thi Sĩ của
Irma Kudrova cũng bí hiểm chẳng kém. Người đọc cần phải có một số hiểu
biết về
tiểu sử nữ thi sĩ. Thí dụ như tác giả khẳng định, “Chẳng cần phải bàn
cãi, bằng
chứng, chúng ta có thể nêu đích danh, chính mật vụ Nga, NKVD là tòng
phạm trực
tiếp đưa đến việc nữ thi sĩ tự huỷ cuộc đời”. Kudrova còn đưa ra giả
dụ, chính
NKVD đã ép Tsvetaeva làm điểm chỉ viên, và điều này càng đẩy nhanh tiến
trình
huỷ hoại và đưa đến tự huỷ mình ngày 31 Tháng Tám 1941. Về những điều
này,
Kudrova không có được hồ sơ cá nhân của Tsvetaeva và đành dựa vào thông
tin
gián tiếp [phỏng vấn một người được cơ quan mật vụ yêu cầu hợp tác
trong thời
gian chiến tranh, và nhật ký của cậu con trai nhà thơ, George Efron,
anh này có
nói tới những cuộc gặp gỡ bí ẩn của bà mẹ, thời gian hai mẹ con di tản
khỏi
Mocow, khi xẩy ra chiến tranh Nga Đức, tới Yelabuga, và cuối cùng bà mẹ
tự sát
tại đây]. Tuy vậy, Cái Chết Của Một
Sĩ là một tiếng nói khác, về những
ngày
cuối đời của nhà thơ thiên tài mệnh bạc của Nga: Tuyệt vọng, tự thương
thân, tự
trách cứ mình, với những tia lửa, của sự giận dữ, điên khùng không thể
đoán
trước được, nhưng còn là của sự can đảm, độc lập. Để bổ túc, chúng ta
cần phải
đọc thêm cuốn Những Số Mệnh Đan Chéo
Nhau, của Belkina, một tiểu sử về
nhà thơ,
và trên hết, là cuốn của cậu con trai viết về bà mẹ, Marina Tsvetayeva:
vospomimaniya docheri, mà bản dịch qua tiếng Anh, trong tương
lai, của
một nhà
xuất bản nào đó sẽ cho chúng ta, những độc giả không rành tiếng Nga,
được biết
thêm về những cuộc đời đầy ấn tượng của một nhà thơ bi thương, khó
khăn, thiên
tài đặc dị, uniquely gifted poet, này.
Bài thơ bà làm cho người chồng và
cuộc tình bất hạnh của cả hai.
I will win you away from every
earth, from
every sky
By Marina Tsvetaeva
I will win you away from every
earth, from
every sky,
For the woods are my place of birth, and the place to die,
For while standing on earth I touch it with but one foot,
For I'll sing your worth as nobody could or would.
I will win you from every time and from every night,
From all banners that throb and shine, from all swords held tight;
I'll drive dogs outside, hurl the keys into dark and fog,
For in the mortal night I'm a more faithful dog.
I will win you from all my rivals, and from the one;
You will never enjoy a bridal, nor I a man.
And in the final struggle I'll take you—don't make a sound!—
From him by whom Jacob stood on the darkened ground.
But until I cross your fingers upon your breast
You possess—what a curse!—yourself: you are self-possessed;
Both your wings, as they yearn for the ether, become unfurled,
For the world's your cradle, and your grave's the world.
[Bản tiếng Anh của Joseph Brodsky]
Tôi sẽ thắng anh, từ bất cứ
mảnh đất, bất
cứ vòm trời
Tôi sẽ thắng anh, từ bất cứ
mảnh đất, bất
cứ vòm trời
Bởi vì rừng là nơi tôi sinh ra, và là nơi để chết,
Bởi vì chỉ một chân tôi đụng đất mà thôi
Bởi vì ngoài tôi ra, không ai nhìn ra chân giá trị của anh
Tôi sẽ thắng anh, từ bất cứ thời nào, bất cứ đêm nào,
Giữa chốn ba quân, giữa cờ biển ngợp trời, giữa rừng gươm tua tủa (1).
Tôi sẽ đuổi lũ chó đó ra ngoài, và ném những chiếc chìa khoá vào trong
bóng tối
và sương mù,
Bởi vì trong đêm đen chí tử, đọa đầy này, tôi còn hơn một con chó trung
thành.
Tôi sẽ thắng anh, từ bất cứ địch thủ, nhất là từ kẻ đó;
Anh đừng bao giờ mong sánh vai cùng một cô dâu, cũng như tôi, chẳng hề
mong một
thằng đàn ông nào - ngoài anh ra, lẽ dĩ nhiên!
Và trong trận đánh cuối cùng tôi sẽ giật lấy anh - đừng gây một tiếng
động! –
Khỏi cái kẻ mà Jacob đứng trên mặt đất tối thui, chiến đấu cùng với hắn
(2).
Nhưng cho tới khi tôi đặt chéo hai tay anh lên ngực anh.
Anh chiếm hữu chính anh. Còn lời trù ẻo nào hơn là lời này: Anh là kẻ
tự mình
nguyền rủa mình;
Hai cánh tay của anh ôm lấy thinh không, và cứ thế xoải rộng ra,
Bởi vì thế giới là cái nôi của anh, còn nấm mồ của anh là thế
giới.
Chú thích:
(1): Chồng nhà thơ là một sĩ quan bạch vệ, sau về với "Cách Mạng":
Tôi sẽ đuổi lũ chó đó ra ngoài....
(2) Nhân vật Cựu Ước, con trai Isaac, và là cha 12 người con trai, tổ
tiên dân
Do Thái.
Tiểu sử nữ thi sĩ
Tsvetayeva, Marina Ivanovna
Tên khi lập gia đình:
Marina Ivanovna Efron
Sinh ngày 26 tháng Chín, 1892, Moscow,
Nga.
Mất ngày 31 tháng tám, 1941, tại Yelabuga.
Nữ thi sĩ Nga, ít được biết tới
ở nước
ngoài, nhưng được coi là một trong những nhà thơ tinh tế nhất (finest)
thế kỷ
20, của tiếng Nga. Những vần thơ của bà thật khác biệt, do tính uyên
nguyên, do
nhịp điệu tách rời, và do tính trực tiếp của chúng.
Bà trải qua những năm niên thiếu ở Moscow,
cha giáo sư đại học, giám đốc viện bảo tàng, và mẹ nhạc sĩ dương cầm
tài năng.
Gia đình thường du ngoạn nước ngoài và vào năm 16 tuổi, bà vào Đại Học
Sorbonne, Paris.
Tập thơ đầu tay Vecherny albom [Chiều, Evening Album] xuất hiện năm
1910. Những
vần thơ tuyệt vời nhất của bà là ở trong trường thi mang tính cổ tích
Tsar –
devitsa (1922, Tsar-Maiden).
Tsvetayeva tỏ ra thù nghịch với cách mạng Nga. Chồng của bà, Sergei
Efron, là
một sĩ quan Bạch Vệ, và rất nhiều vần thơ của bà vào thời kỳ này, là để
vinh danh
lực lượng kháng chiến chống lại Bôn-sê-vích. Trong số đó, có tập thơ
thật đáng
kể là Lebediny stan [The Swans’ Camp] được sáng tác thời gian 1917-21,
nhưng
mãi đến năm 1957 mới được xb tại Munich. Đây là một “Chinh Phụ Ngâm”
mang tính
ký sự, trữ tình, và cảm động, về Cuộc Nội Chiến nhìn dưới cặp mắt và
tình cảm
của một người vợ sĩ quan Bạch Vệ.
Tsvetayeva rời Liên Bang Xô Viết vào năm 1922, tới Berlin và Prague, và
sau
cùng, vào năm 1925, định cư ở Paris. Ở đây, bà cho in một vài tập thơ,
trong đó
có Stikhi k Boky [1922,
Những vần thơ gửi thi sĩ Blok], và Posle
Rossii [1928,
After Russia:
Sau Nga xô], đây là tập thơ chót xb khi bà còn sống. Bà cũng làm hai
tập thơ
lấy đề tài bi kịch cổ điển, Ariadne
(1924), Phaedra (1927), một
vài
tiểu luận
thơ, trong có Moy Pushkin [Puskin
của tôi, 1937]. Vòng thơ chót của bà,
Stikhi
k Chekhii (1938-39, Những vần thơ cho Xứ sở Czech), là phản ứng
của nhà
thơ
trước sự kiện Nazi xâm lăng đất nước này.
Vào thập niên 1930 thơ của bà thấm đậm chất hoài hương của người lưu
vong, tha
phương nơi xứ người, nhớ quê nhà, như Toska
po rodine (1935, Homesick for
the
Motherland, Nhớ Quê Mẹ), và Rodina
(1936, Quê Mẹ). Vào cuối thập niên 1930,
chồng bà quay đầu về với những người Cộng Sản, và trở lại Liên Bang Xô
Viết,
mang theo cùng với ông người con gái. [Cả hai, cha và con, sau trở
thành nạn
nhân của khủng bố Stalin). Vào năm 1939, nhà thơ theo chồng và con,
định cư tại Moscow,
ở đây,
bà làm công việc dịch thuật. Cuộc di tản tại Moscow trong Cuộc Đệ Nhị khiến bà
phải tới ở
tại một thành phố xa lạ, không một bạn bè, không một trợ giúp. Bà tự
huỷ mình
vào năm 1941.
[Tài liệu từ Bách Khoa Britannica, de luxe].
NQT
Kỳ tới Gấu sẽ viết về Một Vẻ Đẹp Khác, trong thơ TMT, để phản biện cái
quan niệm tầm phào, thơ văn, là, cứ phải cắm rễ vào Đất Mẹ, nếu không
thì là sẽ bị cú trù ẻo,"hành lạc trong đau đớn bất lực"!
*
Cái sự kiện, là một
nhà thơ,
thì còn ghê, còn khủng hơn cả cái việc làm
thơ, ngay cả làm thứ thơ ca lớn lao!
Là một nhà thơ có nghĩa thật
là bảnh, như thế này này:
Tự định nghĩa mình, một cách
kiên quyết, không nhượng bộ bất cứ rủi ro, bất cứ gì gì, ta chỉ là, và
luôn luôn
chỉ là, thi sĩ!
Being a poet is assumed to be
more than writing poetry…
Being a poet is to define
oneself as, to persist (against odds) in being, only a poet.
Susan Sontag: A Poet’s Prose
Giọt
mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay.
TMT
Brodsky dẫn giải:
Verse meters in themselves are kinds of spiritual magnitudes for which
nothing can be substituted," Brodsky writes. [Thơ vần, tự thân là giọt
lệ trời, từ hàng ngàn năm trước, bây giờ mới rớt tới bàn tay của nữ thi
sĩ, (1) và nếu như thế, làm sao có thể thay thế được?].
Chúng là một cách tái cấu trúc thời gian - ngàn năm trước nối lại với
phút giây này, giây phút thần kỳ giọt lệ trời biến thành giọt lệ người:
They are "a means of restructuring time".
Kundera dẫn giải:
Iliade hoàn tất trước khi thành Troie sụp đổ, vào lúc mà cuộc chiến còn
chưa ngã ngũ, và con ngựa thần kỳ bằng gỗ chưa hề có ở trong đầu của
Ulysse. Bởi vì đây là ý muốn, [“Tao thích như thế đấy”, mô phỏng ông
Trùm Hàng Không VC, “Tao đếch thích như thế!”], của bậc thầy vĩ đại,
tác giả sử thi vĩ đại đầu tiên của nhân loại:
Mi không được để cho trùng hợp [coincider] thời gian của những số mệnh
cá nhân, với thời gian của những biến động lịch sử.
Bài thơ sử thi đầu tiên được tạo nhịp [rythmé] bởi thời gian của những
số mệnh cá nhân.
Trường hợp của Solz, của Kafka, nếu như thế, thì là do, thời của số
mệnh của riêng cá nhân họ trùng hợp với thời của biến động lịch sử.
Y như giọt lệ trời, ngàn năm trước, nhờ ‘thời gian được tái sắp xếp’,
ngàn năm sau, trở thành giọt lệ người!
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời
gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About
what time does to Man."
Joseph Brodsky.
Sách mới xb TMT
Đọc TMT
CHUYỆN KỂ
Chuyện hôm nay chỉ còn là
chuyện kể
Quãng đời qua hay là
quãng
chiêm bao
Tình yêu đó ta thắp bằng
tim
nến
Sao ai châm đuốc lửa đốt
hai
đầu.
tmt
Viết cho 30/4/2009
"My
voice can ring out
pure and clear only when absolutely solitary," Pasterrnak tells his
father
in a letter.
Ardor inflected by intransigence drives all of Tsvetayeva's
writings. In "Art in the Light of Conscience" (1932), she writes:
The poet can have only one
prayer: not to understand the unacceptable - let me not understand, so
that I may
not be seduced ... let me not hear, so that I may not answer ... The
poet's
only prayer is a prayer for deafness.
Susan Sontag: 1926 ...
Pasternak, Tsvetayeva, Rilke
Câu của
Tsvetayeva có thể dùng để giải thích sự đôn hậu trong thơ TMT:
Tôi cầu sao, không hiểu cái ‘không
thể hiểu được’.
Đừng bắt tôi hiểu nó, để tôi
khỏi bị mê hoặc...
Đừng cho tôi nghe thấy, để
tôi khỏi trả lời...
Cái Đại Ác Bắc Kít!
Hà, hà!
*
Separation
had made everything
replete. What would Rilke and Tsvetayeva have said to each other had
they actually
met? We know what Pasternak didn't
say to Tsvetayeva vhen they were briefly reunited after thirteen years,
in June
1935, on the day he arrived in Paris in the nightmarish role of
official Soviet
delegate to the International Writers' Congress for the Defense of
Culture: he
didn't warn her not to come back, not to think of coming back, to
Moscow.
Giả như Pasternak ra dấu, báo động Tsvetayeva khi tới Paris cùng Phái Đoàn Nhà Văn Liên Xô
tham dự Hội Nghị Nhà Văn Quốc Tế: Này, đừng có về! Về là khốn nạn đấy! ?
Giả như
cái tay nhà văn VC, bạn Gấu, không báo động Gấu, nè, về là chết đấy,
thì Gấu bi giờ ra sao, nhỉ ?
Giả như Cô Rơm không bỏ chạy Đất Bắc vào năm 1954 ?
Giả như chồng Cô Rơm không tử trận, thì cô cũng trở về Đất Bắc thăm
nuôi ông chồng sĩ quan VNCH như bao người đàn bà khác rồi!
Sure!
I lost
two homelands, but I
sought a third: a space for the imagination, a domain that held room
for
artistic needs that were still not entirely clear to me. I lost a real
city,
but I sought a city of the imagination. I picked poetry as my province
relatively
late, later than many others do
Adam Zagalewski: Another
Beauty
[Tôi
mất hai quê nhà, nhưng tôi kiếm quê nhà thứ ba: một không gian cho
sự tưởng tượng, một miền cư ngụ của những nhu cầu nghệ thuật chưa hoàn
toàn rõ
ràng đối với tôi. Tôi mất một thành phố thật nhưng tôi kiếm một thành
phố của sự
tưởng tượng. Tôi lượm lên thi ca khá muộn, so với những người khác, và
coi đây
là quê nội của mình.]
Đọc thơ
TMT, nhớ đến Adam
Zagalewski.
Susan Sontag có một bài viết về cuốn Another
Beauty của
ông, và trích
dẫn một số thơ, thật gần gũi thơ TMT.
All
writing is a species of remembering
Mọi cái viết thì đều là một thứ
chủng loại
của hồi nhớ
Sontag viết về cõi thơ A.Z
We find
comfort only in
another beauty, in others'
music, in the poetry of
others.
Salvation lies with
others,
though solitude may taste
like
opium. Other people
aren't
hell
if you glimpse them at
dawn,
when
their brows are clean,
rinsed
by dreams.
This is why I pause:
which
word
to use, you or he. Each he
betrays some you, but
calm conversation bides
its
time
in others' poems.
And
here it is as it appeared
in 1985 in Tremor: Selected Poems,
Zagajewski's first collection of
poems in
English, translated by Renata
Gorczynski, where it is entitled "In the
Beauty Created
by Others":
Only in the beauty created
by others is there
consolation,
Adam
Zagalewski
OLD MARX
I try to envision his last
winter,
London, cold and damp, the snow's
curt kisses
on empty streets, the Thames' black water.
Chilled prostitutes lit bonfires in the park.
Vast locomotives sobbed somewhere in the night.
The workers spoke so quickly in the pub
that he couldn't catch a single word.
Perhaps Europe
was
richer and at peace,
but the Belgians still tormented the Congo.
And Russia?
Its tyranny? Siberia?
He spent evenings staring at the shutters.
He couldn't concentrate, rewrote old work,
reread young Marx for days on end,
and secretly admired that ambitious author.
He still had faith in his fantastic vision,
but in moments of doubt
he worried that he'd given the world only
a new version of despair;
then he'd close his eyes and see nothing
but the scarlet darkness of his lids.
-Adam Zagajewski (Translated,from the Polish, by Clare
Cavanagh.)
[The New Yorker, Jan 21, 2008]
Cụ Mác
Tôi cố tưỏng tượng ra mùa đông
cuối cùng
của ông,
Luân Đôn, lạnh, ẩm.
Tuyết đè ngửa, hôn tàn bạo lên phố vắng, lên mặt nước đen thui của dòng
sông Thames.
Bướm co ro, run rẩy nhóm lửa nơi công viên.
Có tiếng sụt sùi của những đầu máy, ở đâu đó trong đêm.
Những người thợ nói quá nhanh trong tiệm rượu,
khiến ông không kịp bắt, chỉ một từ.
Có lẽ Âu Châu thì giầu có hơn, và thanh bình,
nhưng người Bỉ vẫn hành hạ xứ Congo.
Còn Nga xô thì sao? Bạo chúa của nó? Siberia,
chốn lưu đầy ư?
Ông trải qua những buổi tối mắt
dán lên
những tấm màn cửa.
Ông không thể nào tập trung, viết lại những tác phẩm đã xưa, cũ,
đọc lại Marx trẻ cho tới hết ngày,
và thầm lén ngưỡng mộ tay tác giả tham vọng này.
Ông vẫn còn niềm tin ở cái viễn ảnh thần kỷ, quái đản của mình,
nhưng vào những lúc hồ nghi,
ông đau lòng vì đã đem đến cho thế giới,
chỉ một viễn ảnh mới của sự thất vọng, chán chường;
rồi ông nhắm mắt và chẳng nhìn thấy gì nữa, ngoài bóng tối của mí mắt
của mình.
Adam
Zagajewski sinh ngày 21 tháng Sáu 1945 tại Lwów, Liên Xô (bây giờ
là Lviv, Ukraine),
là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, tiểu luận gia Ba Lan. Ông sống tại Paris từ 1981.
Vào năm
2002 ông dời tới Kraków. Bài thơ Hãy cố mà ngợi ca một thế giới bị
cắt xẻo,
đăng trên Người Nữu Ước khiến ông nổi như cồn sau cú 911.
Hiện dậy hai lớp, một, về nhà thơ Ba Lan Milosz.
Try To Praise The Mutilated
World
Try to praise the mutilated
world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of wine, the dew.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and ships;
one of them had a long trip ahead of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees heading nowhere,
you've heard the executioners sing joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where music flared.
You gathered acorns in the park in autumn
and leaves eddied over the earth's scars.
Praise the mutilated world
and the grey feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and vanishes
and returns.
Translated by Renata Gorczynski
Adam Zagajewski
[Nguồn: Net: Poemhunter.com]
.: Misattribution :.
This translation is by me, Clare Cavanagh, and not Renata Gorczynski,
as noted
in both the original New Yorker publication and in Zagajewski's
collection, Without End. I'd
appreciate your changing the misattribution here.
Thanks.
| Posted on 2008-04-01 | by a guest
Self-Portrait
Adam Zagajewski
Between the computer, a pencil,
and a
typewriter
half my day passes. One day it will be half a century.
Chân dung tự họa
Giữa cái PC, cây viết chì, cái máy đánh chữ
Nửa ngày của Gấu trôi qua
Một ngày nào đó,
sẽ là nửa thế kỷ
Đọc TMT
I lost
two homelands, but I
sought a third: a space for the imagination, a domain that held room
for
artistic needs that were still not entirely clear to me. I lost a real
city,
but I sought a city of the imagination. I picked poetry as my province
relatively
late, later than many others do
Adam Zagalewski: Another
Beauty
[Tôi
mất hai quê nhà, nhưng tôi kiếm quê nhà thứ ba: một không gian cho
sự tưởng tượng, một miền cư ngụ của những nhu cầu nghệ thuật chưa hoàn
toàn rõ
ràng đối với tôi. Tôi mất một thành phố thật nhưng tôi kiếm một thành
phố của sự
tưởng tượng. Tôi lượm lên thi ca khá muộn, so với những người khác, và
coi đây
là quê nội của mình.]
All
writing is a species of remembering
Mọi cái viết thì đều là một thứ
chủng loại
của hồi nhớ
ADAM
ZAGAJEWSKI
The Greenhouse
In a small black town, your
town,
where even trains linger
unwilling,
anxious to be on their way,
in a park, defying soot and
shadows,
a gray building stands lined
with mother-of-pearl.
Forget
the snow, the frost's repeated
blows,
inside you're greeted by a
damp anthology of breezes,
and the enigmatic whispers of
vast leaves
coiled like lazy snakes. Even
an Egyptologist
couldn't make them out.
Forget
the sadness of dark
stadiums and streets,
the weight of thwarted
Sundays.
Accept the warm breath
wafting from the plants.
The gentle scent of faded
lightning
engulfs you, beckoning you
on.
Perhaps
you see the rusty
sails of ships at port,
islands snared in rosy mist,
crumbling temples' towers;
you glimpse what you've lost,
what never was,
and people with lives like
your own.
Suddenly
you see the world
lit differently,
other people's doors swing
open for a moment,
you read their hidden
thoughts, their holidays don't hurt,
their happiness is less
opaque, their faces
almost beautiful.
Lose
yourself, go blind from
ecstasy,
forgetting everything and
then perhaps
a deeper memory, a deeper
recognition will return,
and you'll hear yourself
saying: I don't know how-
the palm trees opened up my
greedy heart.
Letter from a Reader
Too
much about death,
too many shadows.
Write about life,
an average day,
the yearning for order.
Take
the school bell as your
model
of moderation,
even scholarship.
Too
much death,
too much
dark radiance.
Take a
look,
crowds packed
in cramped stadiums
sing hymns of hatred.
Too
much music
too little harmony, peace,
reason.
Write
about those moments
when friendship's
foot-bridges
seem more enduring
than despair.
Write
about love,
long evenings,
the dawn,
the trees,
about the endless patience
of the light.
Long Afternoons
Those
were the long
afternoons when poetry left me.
The river flowed patiently,
nudging lazy boats to sea.
Long afternoons, the coast of
ivory.
Shadows lounged in the
streets, haughty manikins in shop fronts
stared at me with bold and
hostile eyes.
Professors
left their schools
with vacant faces,
as if the Iliad had finally done them in.
Evening papers brought
disturbing news,
but nothing happened, no one
hurried.
There was no one in the
windows, you weren't there;
even nuns seemed ashamed of
their lives.
Those
were the long
afternoons when poetry vanished
and I was left with the
city's opaque demon,
like a poor traveler stranded
outside the Gare du Nord
with his bulging suitcase
wrapped in twine
and September's black rain
falling.
Oh tell
me how to cure myself
of irony, the gaze
that sees but doesn't
penetrate; tell me how to cure myself
of silence.
Translated
from the Polish by
Clare Cavanagh
The
Partisan Review, Winter 1998
Đọc TMT
TRANSLATING THE
UNTRANSLATABLE
Man
lives with things mainly,
even exclusively-since sentiment and action in him depend upon his
mental representations
as they are conveyed to him by language Through the same act by which
he spins
language out of himself he weaves himself into it, and every language
draws a
circle around the people to which it belongs, a circle that can only be
transcended
in so far as one at the same time enters another one
Wilhelm von Humboldt
Je suis au bout de l'anglais
James Joyce
The translation of
philosophical prose, of cultural criticism, might at first glance seem
to pose
few problems, at least by comparison to that of poetry. Literature is
said to
define itself through the union of form and content, the 'how' taking
precedence
over the ‘what’. A poem should not mean but be. By implication, the
being of
non-imaginative, non-literary writing is absorbed in its meaning, which
is
situated beyond language. Here it is the 'what' that counts, the means
of
presentation being considered incidental. The convenient distinction
between
literature and non-literature, however, evaporates at the lightest
touch of
reflection on the history of philosophy.
Are Plato' dialogues
non-imaginative? Hegel's Master and
Servant? Is the form, structure and
language of their argument merely a bridge to reach conceptual content
on the
other side? Is the language of great philosophy merely a means of
presentation?
Or is it the constitutive medium in which content crystallizes and from
which
it can no more be detached than the meaning of a poem from its form.
Such considerations,
however rudimentary and evident, are enough to transport one to the
very limits
of English and of the conceptual horizons it describes. For if it is
true that
philosophy in its greatest productions is no less imaginative, no less
literary
than literature, then what is literature? It is not that a definition
is lacking
- no phenomenon as complex and vital as literature is susceptible of
univocal determination-but
rather that there is no name in English for that which as 'literature'
is too
broadly described, as 'poetry' too narrowly. Efforts at circumscribing
the
difficulty with notions such as 'imaginative' writing or 'fiction' are
no more
satisfactory. Is the Symposium, the
Phenomenology of Mind not
fictitious? Non-imaginative?
The circumscribed phenomenon, nameless in English, has a name in
German: Dichtung. The
essays collected in Prisms are
not Dichtung. They are
literature if
by literature is meant language in which imagination, fiction and form
are moments
which constitute the 'content', a content which in principle can be
distinguished
from that of Dictung if at
all, through its less mediate relation to truth.
[Trích đoạn]
Samuel M. Weber, người biên tập, dịch thuật, và giới thiệu cuốn Prisms, của Ardorno với độc giả
tiếng Anh
Dịch
cái không thể dịch được:
Dịch thơ.
Gấu này nghĩ càn: Đọc cái không
thể đọc được: Đọc thơ!
Thơ TMT
mà không đọc được ư?
Thứ thơ bình dân học vụ?
Luân lý giáo khoa thư?
Đúng
thế!
Hà, hà!
Bạn không tin ư?
Vậy thì giải thích giùm tôi cái
ý tưởng thâm sâu, “lửa đốt hai đầu”, nằm
trong những câu thơ rất ư là bình dị này:
Chuyện hôm
nay
chỉ còn là chuyện kể
Quãng đời
qua hay là quãng chiêm bao
Tình yêu đó
ta thắp bằng tim nến
Sao ai châm
đuốc lửa đốt hai đầu.
Gấu
này, đã mất
công lôi hết ‘cả lò Brodsky’ ra, chỉ để cố ‘đọc’ hai câu thơ của TMT:
Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay (1)
(1)
"Verse
meters in themselves are kinds of spiritual magnitudes for which
nothing can be
substituted," Brodsky writes. [Thơ vần, tự thân là giọt lệ trời, từ
hàng ngàn
năm trước, bây giờ mới rớt tới bàn tay của nữ thi sĩ, (1) và nếu như
thế, làm
sao có thể thay thế được?].
Chúng là một cách tái cấu trúc thời gian - ngàn năm trước nối lại với
phút giây
này, giây phút thần kỳ giọt lệ trời biến thành giọt lệ người:
They are "a
means of restructuring time".
Thơ
là bề mặt của đời sống,
theo nghĩa, những thắc mắc, băn khoăn siêu hình phải ngoi lên đó để mà
thở. Chúng
ta phải hiểu cái đôn hậu, cái bình dị, bình thường, bình dân học vụ,
luân lý giáo
khoa thư của thơ văn TMT như thế.
Trong bài viết ‘Chống lại thơ
không làm sao hiểu được’, Against incomprehensible
poetry, Milosz giải thích, thơ Tây phương chúi xuống mãi con dốc
chủ thể đến
nỗi không còn thừa nhận luật đối thể, [Western poetry has recently gone
so far
down the path of subjectivity that it has stopped acknowledging the
laws of the
object]. Sự tình tệ hại đến nỗi nó còn đề nghị tất cả hiện hữu chỉ là
cảm nhận,
all that exists is perception, chẳng có thế giới bên ngoài, khách quan,
there
is no objective world. Trong trường hợp đó, người ta có thể nói bất cứ
điều gì,
bởi vì chẳng còn có kiểm soát, kìm giữ, there is no control at all.
Nhưng nhà
thơ Thiền nhắc nhở chúng ta hiểu về cây thông từ cây thông, cây tre từ
cây tre,
và đây là một quan điểm hoàn toàn khác hẳn.
W.H. Auden:
Thơ ca có thể làm được một trăm
lẻ một điều, [làm chúng ta] ngỡ ngàng, buồn bã, bực bội, vui vẻ, dậy
bảo [chúng
ta] – nó có thể làm dấy lên chỉ một thoáng cảm xúc, miêu tả đủ thứ sự
kiện có
thể hiểu được, chấp nhận được, nhưng mọi thơ ca phải làm, chỉ một điều
này: nó
phải ngợi ca bằng tất cả thơ ca của nó, cho hiện hữu và sự tình [it
must praise
all it can for being and happening].
Milosz giải thích thêm:
Khi Auden nói, "it
must praise
all it can for being and happening", thơ phải ngợi
ca…, ông diễn tả một niềm tin thần học. Xác nhận đời sống có một quá
khứ dài, rõ
rệt, trong tư tưởng Tây phương. Thomas Aquina coi như nhau, một bên là
Thượng Đế,
một bên là cõi nhân sinh bé tí [Thomas Aquina’s placing of an equal
sign between
God and pure being belongs here], và cũng thế, là xác tín đời đời,
rằng, Cái Ác,
chính là do thiếu một tí người mà ra, [the constant identification of
evil with
insufficient of being], và bằng cái ác đó, mà Quỉ hoành hành, như là
quyền uy của
Hư Vô, [by means of which the Devil acts as the power of nothingness].
Nhờ Milosz, mà chúng ta hiểu ra, tại sao thơ văn TMT thiếu hẳn Cái Ác
Bắc Kít!
Cô
Rơm là
người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình biết, cô có
tên mộc
mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi gia đình chạy khỏi
thành phố
Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".
Kim Dung cho rằng thiên nhiên
khi
"bịa đặt" ra một tai ương, thường cũng bịa đặt ra một phương thuốc
chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên thảm họa. Ông kể về một thứ cỏ chỉ
có ở một
địa phương lạnh khủng khiếp, và người dân nghèo đã dùng làm giầy dép.
Những người dân quê miền Bắc chắc không thể quên những ngày đông khắc
nghiệt,
và để chống lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ Trần Mộng Tú tin rằng "rơm" là
phương thuốc hữu hiệu, không chỉ để chống lại cái lạnh của thiên nhiên,
mà còn của
con người.
Ít nhất, chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam,
rồi ra hải
ngoại, tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu chuyện
thần tiên.
"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm
bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia
đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19),
một căn
nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong
túi luôn
có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục
năm
trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn
quê hương
thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được..."
Ít nhất, chúng ta biết được một điều, tác giả đã mang nó tới Miền Nam…,
có thể,
cũng trong cùng chiều hướng đó, Rilke, trong les Cahiers de Malte
Laurids
Brigge, cho rằng: "Bởi vì những câu thơ, không như một số người
nghĩ, là
những tình cảm… Chúng là những kinh nghiệm."
Tristan Tzara: "Thơ không chỉ
là sản phẩm
viết, un produit écrit, một lớp lang của những hình ảnh, âm thanh,
nhưng còn
là một cách sống, une manière de vivre."
Henri Meschonnic: Pour la poétique I, essai
Trong thơ TMT có kinh
nghiệm của cả hai miền, kinh nghiệm lưu vong, dời đổi, và có một cách
sống, cách ở đời.
NQT
Gấu, đúng lý ra, là đã quen Cô
Tú, từ những ngày cô làm cho hãng
AP.
Hồi đó, có một dạo, ngay sau khi Huỳnh Thành Mỹ mất, Gấu có thói quen,
sau khi
gửi vô tuyến viễn ảnh, sau khi chờ Tokyo thông báo kết quả, là theo ông
Hưng,
AP man, ghé hãng AP, ở phía trên lầu Passage Eden, uống một ly “cà phê
tức thời”,
vừa uống vừa ngắm bức hình Huỳnh Thành Mỹ to tổ bố treo trên tường, sau
đó, cả
hai xuống lầu, ghé cái ngõ hẹp giữa hai bức tường, nơi cho mướn những
cuốn tiểu
thuyết đen série noire, lục lọi một hai cuốn chưa đọc (với ông Hưng là
Carter Brown,
còn Gấu, Chase, hoặc Simenon), rồi chia tay ông bạn già.
Huỳnh Thành Mỹ là nhiếp ảnh
viên hãng AP đầu tiên bỏ mạng trong khi UPI, người đầu tiên bị cuộc
chiến làm cho sống dở chết dở là Nguyễn Thành Tài. Anh là người giới
thiệu gã chuyên viên trẻ cho UPI, ngay sau khi AP có mạch vô tuyến viễn
ảnh. Một lần, vì quá đói hình, anh mò lên, nghe đâu khu Long Thành, gạ
một người lính làm "người mẫu" cho anh chụp một série hình, cảnh một
anh lính trúng đạn Việt Cộng, buông rơi súng rồi từ từ khuỵ xuống. Đối
với một chuyên viên sử dụng camera, chuyện này quá thường, nhưng với
một nhiếp ảnh viên, đây là một hành động đòi hỏi sự gan dạ, bình tĩnh,
làm chủ bản thân, làm chủ tình hình... Bạn cứ thử tưởng tượng trong lúc
súng nổ đạn bay mà cứ bình chân như vại, căn từng chút ánh sáng, lấy
từng góc độ cho không phải một, mà năm, bẩy tấm hình nghệ thuật, chụp
một người trúng đạn đang từ từ... từ giã cõi đời.
Hình đem về hãng, rửa ra, gây
chấn động trong đám phóng viên, nhiếp ảnh viên UPI. Viên trưởng phòng
hình ảnh tuyên bố, kể từ chiến tranh Algérie đến nay mới lại có một
série hình độc đáo như vậy. Trước mắt, Tài được thưởng "Nhiếp ảnh viên
số một trong tháng". Câu chuyện đúng ra không ngừng ở con số một đó, vì
tiếp theo vinh quang, tiền bạc của ngày hôm nay, còn giải thưởng
Pulitzer của ngày mai. Nhưng không ngờ khi hình được đăng lại trên báo
chí Việt Nam, đám
cảnh sát Tổng Nha ngửi thấy mùi là lạ qua cái tên Việt Nam,
Nguyễn Thành Tài. Giá tên một nhiếp ảnh viên người Nhật, người Mỹ thì
lại không sao. Họ bèn liên lạc với tiểu khu, nơi có trận đánh xẩy ra.
Sau khi được xác nhận không có một trận đụng độ, chạm súng nào trong
thời gian đó, họ sau cùng kiếm ra anh lính đã tử trận nhưng vẫn còn
sống. Tài bị kết tội "phá hoại tinh thần chiến đấu của quân đội Việt
Nam Cộng Hòa." Sau vụ đó, anh hết còn được UPI tin tưởng. Trong một lần
theo hành quân, anh bị mảnh mìn muỗi cài giữa đám lá cây xớt qua mang
tai, không may chạm dây thần kinh, trở thành ngớ ngẩn, sau cùng bị UPI
cho thôi việc.
Cõi Khác