CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
-
THƠ BUỒN NHƯ
CÁNH VẠC BAY
Cao Thoại Châu
Vào
những năm đầu thập kỷ 60, trong âm nhạc
Sài Gòn những bài tiền chiến được hát
lại và không khó khăn gì chiếm được chỗ yêu thích nhất trong lòng người
trí
thức cả cũ cả mới lớn lên sau ngày đất nước bị chia cắt. Những Dzoãn
Mẫn, Đoàn
Chuẩn - Từ Linh, Văn Cao, Nguyễn Văn Khánh, Tô Vũ v.v trở thành thần
tượng của
giới trí thức trẻ cũng như già. Và những Phạm Duy, Dương Thiệu Tước, Lê
Thương
v.v cũng vậy, các ông có một vị trí riêng cũng lẫy lừng không kém tuy
rằng cái
lãng mạn bay bổng như mơ của nhạc tiền chiến phần nào có biến tấu đi có
lẽ vì
tuổi đời các ông cũng như hoàn cảnh sống xã hội đang chuyển mình. Tiếp
theo các
ông là những Cung Tiến, Từ Công Phụng,
Vũ Thành An, Lê Trọng Nguyễn... rất được hâm mộ. Lúc bấy giờ, giữa khi
nhiều
người nghĩ có được những dòng nhạc với các tên tuổi ấy là tận cùng của
ca khúc
VN rồi,thì bất ngờ cũng từ ngay suy nghĩ ấy Trịnh Công Sơn xuất hiện,
từ từ một
lối đi riêng, âm thầm lặng lẽ mà xuất hiện, chiếm lĩnh cũng từ từ cho
đến khi
trở thành một hiện tượng lúc nào không hay. Đàn anh ngơ ngác, khán giả
ngạc
nhiên và không ồn ào, họ chấp nhận cái dòng nhạc độc đáo không giống ai
này .
Những ai không hiểu âm nhạc cũng có thể
nhận được phần riêng đôi khi khá hậu hĩnh cho mình qua những ca từ của
ông, cái
độc đáo của người nhạc sĩ này là ở chỗ đấy.Và thiết nghĩ có thể
lý giải được
cái độc đáo, nếu phân tích kỹ một chút sẽ thấy ca từ ấy là ngôn ngữ thơ hơn là lời của âm
nhạc
Lời trong ca khúc thường là lời kể
chuyện, tự sự cho nên phải tạo thành một mệnh đề có nghĩa rõ ràng. “Em
đến thăm
anh một chiều mưa, mưa dầm dề đường trơn ướt tiêu điều” thì quá logic
về ngữ
nghĩa, nhưng “dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” thì nếu tách rời từng
chữ thấy
cũng là những chữ đời thường (dài, tay, em, mấy thuở..) nhưng cái khác
thường ở
đây là Trịnh Công Sơn ghép chúng lại thành một cấu trúc câu mà... chẳng
ai hiểu
được một cách duy lý cả! Bởi vì cũng với những từ, những tiếng của nhân
gian
người nhạc sĩ này đẩy chúng đi xa hơn, mang tính siêu thực khi cho
chúng đứng
chung thành một tổ hợp câu. Chỉ nghe nói có thơ siêu thực chứ lời nhạc
siêu
thực thì mãi đến Trịnh Công Sơn mới nghiệm ra! Nhạc là tiếng của tâm
tư, tình
cảm nhưng ca từ Trịnh Công Sơn hầu như còn là tiếng của thân phận con
người,
trong đó có thân phận tình yêu hơn là cái ngọt ngào của nó như các nhạc
sĩ khác
thường mang lại cho người nghe. “Trẻ thơ ơi tin buồn từ ngày mẹ cho
mang nặng
kiếp người”, nếu không tin Trịnh “phổ thơ vào nhạc” thì không hiểu được
vì sao
ca từ của ông lại khác những nhạc sĩ khác như vậy.Thân phận con người
là lĩnh
vực phản ảnh của thơ văn chứ không phải của âm nhạc có lời ? Tôi tự trả
lời cho
mình câu hỏi này bằng cách đồng thuận với... chính mình!
Chính nhờ tính siêu thực mà
trong bối cảnh miền Nam những năm 60 khi ảnh hưởng chủ nghĩa hiện sinh
có một
chỗ đứng nhất định mà Trịnh Công Sơn tách khỏi hàng, bứt phá lên trên
thành một
lối đi riêng chia sẻ những ưu tư với giới trí thức trẻ. Hồi ấy, không
được yêu
thì... khổ đã đành, mà có mối tình lớn cũng thấy khốn khổ làm sao ấy,
bất an
làm sao ấy, những con người đấy sống trong tâm trạng bơ vơ phảng phất
hoài
nghi, băn khoăn về thân phận con người như một phạm trù triết lý, ca từ
Trịnh
Công Sơn “gõ” đúng cửa và chinh phục người ta, có gì là khó hiểu
đâu.Những ca
khúc của ông vùa là món ăn thơm thảo của những trái tim âm nhạc vừa là
sự quay
quắt cuả những trái tim thơ, hơn 40 năm tôi vẫn nghĩ như vậy.Người ta
nghe ca khúc
của ông mà chẳng “hiểu” gì nhưng rất chếnh choáng bởi những câu coi như
còn “bí
ẩn” đó. “Này em đã khóc chiều mưa đỉnh
cao...” hay “người ngồi xuống xin mưa đầy.Trên hai tay cơn đau dài,
người nằm
xuống nghe tiếng ru. Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”. Sẽ rất tốn
công khi
giải mã những câu này, nó không cao siêu gì bởi vì nó là ...ca từ siêu
thực,
vậy thôi .
Có
một điều là, những chữ rất bình thường
một khi đã thành ca từ của Trịnh Công Sơn thì ít nhạc sĩ nào còn đến
với chúng
nữa, nó như là một cô gái thông minh nền nếp đã có một bến đậu yên bình
thì
những con bướm si tình chỉ còn cách đứng xa mà đau khổ, hay nói theo
cách bây
giờ, những ngôn từ ấy đã có thương hiệu Trịnh Công Sơn rành rành.Mưa
hồng (mưa
và một trong những màu), nắng thuỷ tinh (nắng và một thứ...vật liệu xây
dựng),
lời buồn thánh (lời, buồn và ông thánh) v.v là những ngôn ngữ đời
thường nhưng
nếu sau khi từ Trịnh Công Sơn đi ra, chúng có xuất hiện ở đâu thì có lẽ
đấy chỉ
là ...tên những quán cà phê văn nghệ, quán nhậu thì tuyệt nhiên không!
Cà phê
Diễm xưa có ở nhiều nơi nhưng lẫu dê Mưa hồng là điều rất chướng tai.
Mang đến
cho nhân gian những cảm xúc thơ chia sẻ nỗi bơ vơ với họ, nhưng Trịnh
Công Sơn
cũng nợ nhân gian biết bao là ngôn ngữ khi chiếm dụng thành của riêng
ông! Ca
từ - đúng ra là thơ - của Trịnh Công Sơn len lỏi vào tâm can,vuốt ve,
ru nhiều
thế hệ, và tôi không cho phép bất cứ ai nói rằng ca từ của ông không
kén người
hát.Tôi làm sao quên cái khuôn mặt lành lạnh tinh tỉnh, dáng đứng bình
thản như
bất động tự xoá nhoà người hát cho ca từ Trịnh Công Sơn đi ra, của
người ca sĩ
giọng khàn khàn nhừa nhựa ngày xưa thành danh từ những bài “thơ” siêu
thực của
ông Trịnh, là phù hợp với thứ âm nhạc này. Khánh Ly! Bây giờ người ta
cách tân
, nhưng dường như không hát mà “biểu diễn” nhạc Trinh Công Sơn bằng lời
kết hợp
với sự gào thét, nhún nhảy, lúc lắc liệu có chút gì phản cảm?
Ca khúc Trịnh buồn, không não tình, cái
buồn không đẩy người nghe xuống mà đồng hành với họ, bởi có quá nhiều
lúc người
ta như cánh vạc bay đêm, tịch mịch đến nỗi chỉ còn nghe được có mỗi
tiếng bay
của chính mình!