*
Notes
1 2
3



















NMG vs Lịch Sử

Gấu này cứ loay hoay, hì hục, dằn vặt, làm tình làm tội chính mình, với câu hỏi, tại làm sao mà ngay lần đầu đọc NMG, đã dám phán, ông này không thể nào viết truyện dài, và, liệu, những Sông Côn Mùa Lũ, Mùa Biển Động, đã có cơ hội nhìn thấy ánh sáng mặt trời, chính vì câu phán chết người đó ?
Bây giờ, Gấu như mơ hồ nhận ra, tại sao ngày đó đã phán “vừa sai, vừa đúng” như vậy.
NMG thiếu sự tưởng tượng của một nhà văn. Từ đó, không thể viết truyện dài.
NMG quá mê mẩn với Dos, và thờ Dos làm thầy, và viết trường thiên tiểu thuyết, viết sử thi… chỉ là là vì muốn nối gót Thầy!
NMG, dân Bình Định, và còn mang trong người giấc mơ Quang Trung Nguyễn Huệ, thống nhất giang sơn về một cõi, và, nếu dư dả thì giờ, đánh Tầu chơi, đòi lại hai tỉnh Lưỡng Quảng!
Chính là do thiếu tưởng tượng nên NMG bệ ngay nhân vật ngoài đời vô trong tiểu thuyết của mình.
Gấu mường tượng ra điều này, nhân đọc Greene viết về Dickens trẻ.
THE YOUNG DICKENS
…. It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn to write realistically of human beings; at the beginning he invented life and we no more believe in the temporal existence of Fagin or Bill Sykes than we believe in the existence of that Giant whom Jack slew as he bellowed his Fee Fi Fo Fum. There were real Fagins and Bill Sykes and real Bumbles in the England of his day, but he had not drawn them, as he was later to draw the convict Magwitch; these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called “the cold wet shelter-less midnight streets of London”. How the phrase goes echoing on through the books of Dickens until we meet it again so many years later in “the weary western streets of London on a cold dusty spring night” which were so melancholy to Pip. But Pip was to be as real as the weary streets, while Oliver was as unrealistic as the cold wet midnight of which he formed a part.”
Thật sai lầm khi coi Oliver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ đến cuối đời viết Dickens mới chịu cắp sách đi học cách diễn tả theo kiểu hiện thực [xạo hết chỗ nói] về lũ người lũ ngợm; ở vào thuở thoạt đầu, ông phịa ra cuộc đời… ; những nhân vật ở trong Oliver Twist giản dị chỉ là những phần của một sàn diễn rộng lớn được tác giả phịa ra, điều mà Dickens trong lời Tựa của chính ông cho cuốn sách của mình gọi là “những con phố khuya lạnh lẽo, ướt át, không nơi trú ẩn của London”. Ôi chao, câu văn cứ rền rĩ  xuyên suốt những tác phẩm của ông, cho tới khi chúng ta lại gặp lại nó, bao nhiêu năm sau, trong những “con phố phía Tây rã rượi của London, trong một đêm xuân lạnh lẽo, bụi bặm”, buồn ơi là buồn với Pip. Nhưng Pip thì thực, y như cái đêm lạnh lẽo bụi bặm mà anh ta đang buồn bã cùng với nó, trong khi Oliver thì không thực như là nửa đêm lạnh lẽo ướt át mà thằng bé cũng đóng góp cái phần ‘mưa ở đâu về như vết thương’,
của nó vào trong đó.

Thần sầu!
Đọc, lại cám cảnh thằng cu Gấu nhà quê, mồ côi, ngày nào trong Hà Nội.
*
Q đi lễ, và hỏi tôi có thể đi cùng, tôi lắc đầu, gọi mua một gói lạc rang. Người đàn ông làm tôi nhớ tới người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi có nhiều kỷ niệm về thành phố nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện. Tôi thường tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường sắt, rồi hồi hộp chờ chuyến xe chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê hoặc. Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.
Những con dã tràng

Cuốn I Những đợt sóng ngầm in xong từ đầu năm 1984, phát hành đã lâu mà tôi có cảm tưởng tác phẩm đã rơi vào hư không. Tôi tự biết cuốn đầu chỉ là dàn truyện, giới thiệu cách nhân vật chính, sơ luợc nêu ra một số vấn để sẽ khai triển trong các cuốn sau, nên chắc chắn sẽ không có sức lôi cuốn nhiều. Để tự an ủi tôi thường nghĩ đến năm mươi trang đầu của cuốn Bác sĩ Zhivago, năm mươi trang rời rạc, lê thê, ai không kiên nhẫn thì bỏ cuộc, nhưng nếu đọc quá năm mươi trang đó thì bị cuốn hút vào không khí vừa thơ mộng vừa bi thảm không ngưng lại được. Dù sao, nhờ cuốn I ra đời nên tôi cũng có hứng bắt đầu viết cuốn 2.

Đột nhiên, một năm sau khi cuốn I Những Đợt Sóng Ngầm được phát hành, nhiều tờ báo đem cuốn sách ra để chỉ trích, chửi bới. Ngay tại nơi tôi ở….
NMG.
Ở đây có một số vấn đề:
Một năm đâu có phải là một thời gian dài, để cuốn sách đánh động độc giả. Thành thử cái cảm giác viết vào hư vô, tôi sợ rằng, đó chính là nhận xét của chính NMG, về đứa con tinh thần của ông.
Do đó, ông mới nhắc tới Bác sĩ Zhivago. Tại sao Dr Zhivago? Tại sao Pasternak?
Ấy là vì, nằm trong sự so sánh đó, là tham vọng của tác giả. NMG trong thâm tâm cũng muốn viết một cuốn sử thi về cuộc chiến Mít, giữa Yankee mũi tẹt và thằng em ruột thịt Nam Bộ của nó!
*
OEDIPUS

The historian is neither Caesar nor Claudius, but he often sees in his dreams a weeping, lamenting crowd, the host of those who have not lived enough, who wish to live again… It is not only an urn and tears which these dead ask of you. It is not enough for them that we take their sighs upon ourselves. It’s not a mourner they would have, it is a soothsayer, a vates. So long as they have no such person, they will wander about their ill-sealed graves and find no rest.
They must have an Oedipus who will explain to them their own enigma, of which they have not had the meaning, who will teach them what their words, their acts meant, which they did not understand. They must have a Prometheus, so that, at the fire he has stolen, the voices which floated like snowflakes in the air might rebel, might produce a sound, might begin to speak. There must be more; the words must be heard which were never spoken, which remained deep in their hearts (search your own, they are there); the silences of history must be made to speak, those terrible pedal points in which history says nothing more, and which are precisely its most tragic accents. Then only will the dead be resigned to the sepulcher. They are beginning to understand their destiny, to restore the dissonances to a sweeter harmony, to say among themselves, and in a whisper, the last words of Oedipus: Remember me. The shades greet each other an subside in peace. They let their urns be sealed again. They scatter, lulled by friendly hands, fall back to sleep and renounce their dreams. That precious urn of bygone times-the pontiffs of history bear it and transmit it to each other with what piety, what tender care! (no one knows how pious but themselves), as they would bear the ashes of their father or of their son. Their son? But is it not themselves?
1842. Quoted in Monod, Vie et pensée de Michelet, II, 6
Roland Barthes: Michelet
They are beginning to understand their destiny, to restore the dissonances to a sweeter harmony, to say among themselves, and in a whisper, the last words of Oedipus: Remember me.
Remember me. Hãy nhớ Gấu này nhé!


Thư mục: Tổng hợp |
Đăng ngày: 04:21 01-09-2008
Dọn

Hà Nội không bỏ một chữ.
Nhưng giả như họ thiến vài chữ, liệu NMG có chịu không?
Giả như đám Hà Nội có tham chiếu bài viết của NMG, Nhìn lại những trang viết cũ, trong đó, ông so sánh đám hàng thần lơ láo Miền Nam, những ngày sau 30 Tháng Tư, với đám quan lại thời Tây Sơn, trước họa Bắc Phương, và từ đó, suy ra "thâm ý" của NMG, cái cuộc giải phóng Miền Nam thì cũng cùng một dã tâm ăn cướp như của Mãn Thanh ngày nào, và từ đó, bật ra cái sự hào hùng của Nguyễn Huệ ra Bắc, thống nhất đất nước, lật ngược căn cước lịch sử Mít?
*
Ui chao, liệu NMG thực sự có cái cao ngạo, có cái tham vọng ngất trời như thế chăng? Và nếu như thế, cái sự nhục nhã để cho VC sờ chim thì cũng chẳng thấm vào đâu so với Hàn Tín ngày nào!

Viết đến đây, Gấu lại nhớ những ngày Trần Trường, Gấu may mắn làm sao có mặt, và cũng túc trực, chen vai sát cánh cùng đám biểu tình, bằng cách hàng ngày ngồi đánh cờ tướng ở một tiệm cà phê ngay kế bên tiệm Hi-Tech. Và, đọc Thảo Trường viết về người tù binh nằm trong nôi. Bữa ghé NMG, hỏi đã đọc chưa, NMG gật gù, bảnh, bảnh thật, cả một cuộc biểu tình ghê gớm như thế, mà chỉ là “tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy” trước cặp mắt ngây thơ của đứa con nít nằm trong nôi! [Đây là Gấu diễn ý của NMG, chứ thực tình, không nhớ đúng nguyên văn câu phán của ông]. Mấy bữa sau gặp TT, kể, bạn ta gật gù, ông NMG phán như thế, đến tai đám biểu tình, là bỏ mẹ thằng này!
*
Note: V/v Hàng thần lơ láo
Phần tường thuật cuộc họp giới sĩ phu Bắc hà do Ngô Văn Sở tổ chức, những gì tôi tưởng tượng ra đều dựa trên kinh nghiệm trải qua trong mấy năm sống dưới chế độ cộng sản sau tháng Tư 1975. Quang cảnh bên ngoài Bộ Lễ là quang cảnh bên ngoài những trung tâm qui định cho sĩ quan và công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa đến trình diện đi học tập cải tạo. Diễn tiến cuộc họp cũng có phần na ná như những cuộc “học tập chính trị” Ủy ban Quân quản Sài Gòn tổ chức cho giới trí thức văn nghệ chế độ cũ. Nhờ sống qua một cuộc đổi đời lớn lao, tôi chứng kiến được chẳng những thế thái nhân tình, mà còn cả ảnh hưởng sâu đậm của quyền lực lên phong cách, dung mạo, tính tình và cả khả năng của con người. Hình như quyền lực là kích thích tố mạnh khủng khiếp, đến nỗi có thể biến một người nhút nhát vụng về thành người tự tín, ăn nói đĩnh đạc, nét mặt rạng rỡ, cái uy có sẵn được bồi đắp thêm bằng cái uy tự phát qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói. Tôi đã chứng kiến hiện tượng đó trong thời kháng chiến ở Liên khu Năm, khi chính quyền loại bỏ tất cả cán bộ thuộc thành phần tiểu tư sản, địa chủ... và đưa thành phần bần cố nông lên nắm chính quyền. Sau 1975, tôi chứng kiến một lần nữa sức mạnh của quyền lực. Trong chương 90, tôi đưa kinh nghiệm này vào truyện qua uy lực của Ngô Văn Sở trước đám sĩ phu thất thế của Bắc hà.
Ngược lại, mất quyền lực mang theo nguy cơ mất nhân cách, và vì biết mình đang mất nhân cách nên dồn hết sự khinh mạn, giận dữ lên - không phải kẻ thù đang nắm quyền lực - mà lên những người cùng cảnh ngộ với mình. Thái độ ngoan ngoãn vâng phục của sĩ phu Bắc hà trước Ngô Văn Sở, và khung cảnh xô bồ mất trật tự của hội nghị khi Ngô Văn Sở trao quyền chủ toạ cho Ngô Thì Nhậm minh chứng tâm lý thông thường đó.
NMG: Nhìn lại những trang viết cũ. [Tiền Vệ]
*
Trong những buổi họp Tổ của Tổ Thơ Văn, ông Nguyễn Mộng Giác, cũng là một Tổ Viên, một văn nghệ sĩ Sài Gòn Mặt Dzầy đến dự khóa học, nhưng ông làm Thư Ký của Tổ. Không ai bầu ông làm Thư Ký Tổ, ông xin với Vũ Hạnh cho ông làm Thư Ký, ông ngồi bên Vũ Hạnh, tức ông ngồi đối diện với bọn Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn Mặt Mo Hàng Thần Lơ Láo. Suốt khóa học 21 ngày, không một lần ông Nguyễn Mộng Giác ngồi chung với anh em, ông không nói chuyện với bất cứ anh em nào, ông luôn nép bóng, bám đít tên Vũ Hạnh. Ông tự nguyện làm tay sai cho chúng nó, ông làm những biên bản cuộc họp với những lời nịnh bợ, những lời nhận tội mà anh em văn nghệ sĩ không nói để làm vui lòng chúng nó. Ông làm thế để mong được Vũ Hạnh nó che chở. Vũ Hạnh nó không yêu cầu ông làm những việc ấy, ông tự nguyện làm tay sai cho nó.
Trong cái gọi là buổi học cuối cùng của Khoá Bồi Dưỡng Chính Trị II, Tháng 7 năm 1976, tôi được anh chị em trong Tổ Thơ Văn bầu làm đại diện để phát biểu trong lễ bế mạc. Vũ Hạnh yêu cầu bầu một đại diện dự khuyết, ông Nguyễn Mộng Giác được bầu.
Tổ Thơ Văn có An Khê Nguyễn Bính Thinh, Ngọc Thứ Lang, Nguyễn Ước, Phù Hư, Phan Nghị, Nguyễn Đình Toàn, Cao Nguyên Lang, Lê Minh Ngọc, Mai Anh, Phan Kim Thịnh, bà Mộng Tuyết, chị Kiều Oanh, Nguyễn Thị Minh Ngọc ..vv.. và ông Nguyễn Mộng Giác. Tất cả khoảng 30 người. Từ ngày đó đến nay các anh An Khê Nguyễn Bính Thinh, Ngọc Thứ Lang, Phan Nghị đã qua đời.
Trong một buổi họp Tổ ông Nguyễn Mộng Giác nói về Kim Dung. Tôi ngồi đó mà chẳng nghe gì cả, hồn trí để ở đâu đâu. Ông NM Giác nói lên bổng, xuống trầm theo kiểu thầy giáo giảng bài cho các em học sinh tiểu học, nên tôi thấy khó chịu, không muốn nghe. Ông nói xong, đến phần anh em góp ý, thấy Cao Nguyên Lang hỏi Nguyễn Mộng Giác mấy câu có vẻ gay gắt. Khi tan về, trong lúc hai anh văn nghệ sĩ Sài Gòn te tua lui cui mở khoá xe đạp, tôi hỏi Cao Nguyên Lang:
- Sao ông có ác cảm với hắn thế? Hắn nói gì thì nói, mặc hắn. Anh em cả..
Cao Nguyên Lang hậm hực:
- Trước kia nó viết trong số những độc giả của Kim Dung có những người từng đi kháng chiến nhưng thất vọng với kháng chiến nên bỏ về thành, nay nó nói những người đó là bọn phản bội kháng chiến. Nó trở giọng. Mình không nói làm sao được.
Khi được bầu làm đại diện Tổ tôi nghĩ đến chuyện tôi phải nói sao trước bọn cộng sản và trước anh em. 500 người họp lại trong Nhà Hát Lớn đường Tự Do. Tất nhiên tôi không thể nào nói bướng, tôi cũng không thể mở miệng ca tụng cộng sản hay tự nhận mình là tên ngu si bao nhiêu năm sống mắt mù, tai điếc nay nhờ Đảng mới được sáng mắt, sáng lòng. Anh em chúng tôi không bảo nhau nhưng suy bụng tôi ra bụng anh em, tôi chắc anh em tôi cũng như tôi, chúng tôi cùng nghĩ “Bị bắt buộc phải nói thì nói làm sao cho đỡ nhục, cùng lắm thì nói gì cũng được nhưng đừng nói mình sáng mắt, sáng lòng. Nói mấy tiếng đó nhục lắm.” Tôi viết những lời tôi nói ra một trang giấy, định sẵn nếu bọn Vũ Hạnh hỏi tôi định nói gì tôi sẽ đưa bản đó ra cho chúng xem, nhưng khi nói được nửa chừng tôi sẽ nói vài câu không có trong bản viết. Nhưng ngày bế mạc đến, không thấy bọn trong cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng hỏi gì đến tôi cả. Trước giờ các đại diện Tổ phát biểu, Ngọc Thứ Lang hỏi tôi:
- Mày có lên nói không?
Tôi trả lời:
- Tao không biết.
Tôi muốn nói “Tao không biết chúng nó có cho tao lên nói không.” nhưng tôi nghẹn họng, tôi chỉ nói được có ba tiếng “Tao không biết!”
Thế rồi đại biểu Tổ Một Thơ Văn lên phát biểu đầu tiên, người được gọi lên phát biểu là ông Nguyễn Mộng Giác.
Blog Hoàng Hải Thuỷ

Note: Gấu không tham dự cái vụ trên. Chỉ học tập cải tạo tại chỗ, ba ngày, tại hội trường Bưu Điện, số 11 Phan Đình Phùng, tức Trung Ương Cơ Xuởng VTD ngày nào, rồi sau đó, đi làm tiếp.
V/v VH, qua NTV cho biết, chính tay VC nằm vùng này OK cho in SCML, nhưng sau đó, NMG vượt biên, nên phải mãi sau này, khi NMG trở về, và qua đầu nậu MQL, cuốn sách mới được xb ở trong nước.
NTV cho biết, đã dự bữa tiệc bia với NMG ăn mừng cuốn sách được VH gật đầu.
Đây là những sự kiện có tính lịch sử, liên quan tới SCML: Đã từng được VC OK cho in, sau được mang lén ra hải ngoại in, rồi lại trở về, và được VC OK lần thứ nhì, cho xb ở trong nước.
NQT

Cái vụ ‘văn nghệ sĩ Sài Gòn Mặt Dzầy dự khóa học’, theo như Gấu còn nhớ được, hoàn toàn khác hẳn cái vụ sĩ quan VNCH trình diện học tập cải tạo. Nhà nước mới không bắt buộc văn nghệ sĩ Sài Gòn Mặt Dầy phải tham dự, và sở dĩ có sự tham dự đông đảo, như HHT viết, là do… đói quá.
Họ hy vọng sau khóa học VC thí cho một công việc nào đó!
Gấu chỉ học cải tạo tại chỗ, tại Bưu Điện, theo đúng ngành nghề của một chuyên viên kỹ thuật. Sau ba ngày học tập về tội ác Mỹ Ngụy, sau khi nộp cái căn cước Ngụy cho ban quân quản Bưu Điện, Gấu trở về nhiệm sở cũ.
Và như thế, NMG, bởi vì ông là giáo sư, là hiệu trưởng, là trưởng ty văn hoá giáo dục gì gì đó, thì, ông cũng như Gấu, nghĩa là không bắt buộc phải tham dự cái lớp học khỉ gió trên!
Thành thử cái vụ hàng thần lơ láo, là cố đấm ăn xôi, có thể như vậy chăng?
Lạ một điều, Gấu không thể hiểu được tại sao NMG lại thù cái đám VNCH như vậy. Ông, phải nói, là người được chế độ đó ưu đãi, hơn cả thằng thư ký nhà giây thép là Gấu, tại làm sao mỗi lần phải nhắc tới VNCH, là ông rất ư là bực mình?
Thí dụ, bài mới nhất của ông, trên Da Mầu, cho thấy:
Trước hết tôi xin kể một chuyện hậu trường văn chương ở đây, nơi vẫn được xưng tụng là thủ đô của người Việt tỵ nạn.
Một nhà thơ từng lê la mười năm ở các nhà tù cộng sản miền Bắc, được đoàn tụ gia đình chưa được bao lâu lại mắc vào vòng lao lý hơn ba mươi tháng vì tội liên hệ phản động. Cả gia đình nhà thơ vừa qua Mỹ theo diện H.O chưa đầy một năm. Gia đình đông, đến Mỹ vào lúc kinh tế suy thoái, việc làm khó kiếm mà tiền nhà tiền ăn cứ chồng chất hằng tháng phải trả, nhà thơ vẫn có một quyết định hết sức thơ: ông chạy đôn chạy đáo xoay tiền in được một tập thơ đẹp, sau đó chạy đôn chạy đáo tổ chức một buổi họp mặt văn nghệ để trình làng tập thơ của mình. Bạn bè tới dự đông đảo, bạn nghề thời ở Sàigòn và các tỉnh, bạn tù ngoài Bắc và Chí Hòa, bạn văn quen trước quen sau. Một người bạn văn được mời lên diễn đàn để phát biểu cảm tưởng về tập thơ. Những lời trân trọng, nghiêm túc, chí tình. Nhưng ở phần cuối, như muốn điểm xuyết cho một bài phát biểu phần lớn toàn những ý trân trọng ngợi khen, người bạn tỏ ý tiếc là tập thơ của nhà thơ cựu tù nhân cộng sản “chưa có nhiều lửa”.
NMG
Những lời khen chê như vậy, là chuyện rất thường tình, ở những buổi ra mắt sách. Một nhà văn, một nhà thơ “thứ thiệt”, theo như Gấu hiểu được, chẳng ai chấp chuyện đó. Thành thử, không thể dựa vào những lời phán vô tội vạ như vậy để mà xét đoán thơ văn. Và những buổi ra mắt sách như thế, thường là cũng nhờ vào sự giúp đỡ của một đoàn thể nào đó, và đây là cái giá phải trả, đâu có gì phải thắc mắc. Gấu sở dĩ chưa từng ra mắt sách ở hải ngoại, là vì chẳng muốn nhờ cậy bất cứ ai. Lần ra mắt tác phẩm Lần Cuối Sài Gòn, là ở nhà Khánh Trường, giữa bạn bè, và sau đó, còn một buổi thứ nhì, ở nhà NMG, chắc ông còn nhớ.