NMG vs LV
1
2
|
NMG vs LV
Chẳng hạn nhiều người
vẫn nghĩ
nhân vật Tường trong Mùa Biển Động là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Quả tình
tôi có lấy
một vài hoạt động của HPNT thời kỳ tranh đấu Phật giáo hoặc một vài chi
tiết khác
của cuộc đời anh cho vào truyện, nhưng nhân vật Tường của Mùa Biển Động
không liên
quan gì tới
nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện ở Huế.
NMG: Tha Hương.
Viết
như thế, thì thú thực, Gấu này không thể nào chịu nổi. Nó quá vô
lý!
Thứ nhất, cái mà NMG lấy ở đây,
chính là cái tên Tường. Chính vì thế mà HPNT đã từng công khai lên
tiếng, tại làm
sao anh lại lấy tên tôi cho nhân vật của anh?
Gấu hỏi thêm: Tại sao có lấy “một
vài hoạt động… và một vài chi tiết khác”, vậy mà cái tên sờ sờ ra đó,
lại quên
không nhắc tới?
Nói rõ hơn: NMG có thế lấy hết
tất cả những gì gì của HPNT, đưa vô tác phẩm, trừ cái tên!
Ông chỉ cần phịa ra một cái tên
khác, thí dụ Tượng, Tướng, Tưởng, Xường, Mường…. tha hồ mà lựa!
Chính vì cái sự vờ này, mà Gấu suy ra, có vấn đề ở đây. Nói rõ hơn, NMG
cố tình lấy cái tên của HPNT, để sinh chuyện, cũng như cố tình cho nhân
vật của mình đeo cái tai người, ở một chỗ khác.
Nên nhớ, với nhà văn, chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương.
Và cái tên chính là Thượng Đế của Thượng Đế!
Thí dụ, Meursault của Camus, Samsa của Kafka, Tâm của TTT.
Gấu
thực sự nghĩ, NMG nên lên
tiếng 'thêm', v/v cầm nhầm cái tên này, không thì khi lên chuyến tầu
suốt, lại thêm
một nỗi buồn nữa!
*
Trong bài phỏng vấn Simenon,
tay phóng viên The Paris Review kể là:… On its walls are books of law
and
medicine, two fields in which he has made himself an expert; the
telephone directories
from many parts of the world to which he turns in naming his
characters; (1),
những cuốn niên giám điện thoại nhiều nơi trên thế giới để tìm tên cho
nhân vật!
Có thể,
me-xừ Simenon này cũng
sợ cầm nhầm tên của một người khác, hoặc lộn tên nhân vật, ở chương I
tên Tường,
chương II tên Tàng!
(1) Georges
Simenon The Art
of Fiction
Mr.
Simenon's study in his
rambling white house on the edge of Lakeville, Connecticut,
after lunch on a
January day of bright sun. The room reflects its owner: cheerful,
efficient,
hospitable, controlled. On its walls are books of law and medicine, two
fields
in which he has made himself an expert; the telephone directories from
many
parts of the world to which he turns in naming his characters; the map
of a
town where he has just set his forty-ninth Maigret novel; and the
calendar on
which he has Xed out in heavy crayon the days spent writing the
Maigret-one day
to a chapter-and the three days spent revising it, a labor which he has
generously interrupted for this interview.
In the adjoining office,
having seen that everything is arranged comfortably for her husband and
the
interviewer, Mme. Simenon returns her attention to the business affairs
of a
writer whose novels appear six a year and whose contracts for books,
adaptations, and translations are in more than twenty languages.
With great courtesy and in a
rich voice which gives to his statements nuances of meaning much beyond
the
ordinary range, Mr. Simenon continues a discussion begun in the dining
room.
-Carvel Collins, 1955
*
Đặt vấn đề như thế này: Nếu không có cái tên Tường, là toàn bộ tác phẩm
của NMG, nhất là những đoạn viết về Huế, vứt đi!
Chỉ một cái tên Tường bảo đảm cho cả một giai đoạn lịch sử, và cả một
cuốn trường thiên tiểu thuyết, sống nhờ scandale, chứ không phải vì tài
năng của người viết.
Viết như thế thì quá nặng, nhưng nó đúng là như thế, vì chính NMG cho
biết như thế, trong lá thư cuối truyện.
Giả dụ như cuốn truyện hay, NMG thực sự tin vào tài văn của ông, ông đã
không sử dụng những tiểu xảo như vậy. NQT
Như NMG
cho biết, cuốn truyện
lúc đầu chẳng ai thèm đọc, một năm sau đó mới bị tấn công, không phải
vì viết
hay viết dở, mà vì đụng chạm tới một số người, một số tầng lớp. giai
cấp...
trong xã hội Miền Nam,
trước 1975.
Như thế, thì đâu là giá trị
thực của cuốn truyện, nếu không có những xì căng đan?
Chúng ta cứ giả dụ, đó là một
tác phẩm văn chương thực sự, thì liệu không có những xì căng đan, có ai
đọc nó
không?
Riêng về sự so sánh với Bác
Sĩ Zhivago ở đây, xin cho phép Gấu vờ đi!
*
Chẳng lạ gì NMG quan tâm đến
việc xây dựng nhân vật. Với NMG, “căn bản hấp dẫn và lôi cuốn người
nghe người
đọc người xem những tác phẩm” là những nhân vật và “những nhân vật
huyễn tưởng
ấy cư xử y như người đời, y như những độc giả khán giả. Con người, đời
sống
trong tiểu thuyết cần thiết cho thể loại này hơn bất cứ thể loại nào
khác.”
(Dẫn từ “Thảo luận…”) Trong lúc có người mưu toan giết chết nhân vật
hay tìm
cách đẩy lùi nó đàng sau hậu trường, thì NMG vực dậy, thêm da thêm thịt
để cho
chúng tiếp tục sống. Sống mạnh.
NMG đã tạo ra một số lượng
nhân vật phong phú, đủ hạng đủ loại. Trí thức, bình dân, vua quan, dân
dã, phe
bên kia phe bên này, trẻ già trai gái, trong ngoài … NMG chăm chút các
nhân vật
của mình rất cẩn thận, từ lời ăn tiếng nói cho đến cử chỉ và hành động,
nhằm
làm cho chúng “cư xử y như những người đời”.
Trần Hữu Thục, Da Mầu
Còn gì “cư xử y như những
người đời”, bằng chính người đời?
Còn ai "sống mạnh"
hơn HPNT, vào thời kỳ đó?
Nhận định của THT về những
nhân vật của NMG, “thực như thực” khiến Gấu nghĩ tới cái xen, do D.M.
Thomas
kể, về Pasternak, một lần phôn cho em Lara, [có thực ở ngoài đời, lẽ
tất nhiên
tên khác], khóc ròng, em hoảng quá, hỏi, sao dzậy, Pasternak càng thêm
nức nở,
ông ta chết rồi, chết rồi; ai chết? Zhivago chết rồi!
So Gấu... có thực,
Pasternak... có thực, THT... có thực, NMG... có
thực, sao bằng Zhivago.. có giả, nhưng thực hơn
cả thực đó?
Gấu
nhớ, có lần nghe chính
NMG than, cứ mỗi lần, tôi tính để cho nhân vật của mình thở ra mùi suy
tư,
triết học… là cứ thấy ngượng miệng, ngượng cả cây viết.
Nếu như thế, có thể những nhân
vật thực của NMG, hằng hà sa số trong truyện của ông, đều thực, vì
không dám
suy tư, cũng nên!
Note: Những dòng viết của Gấu
này, về NMG, có thể rất căng, nhưng… thà vậy, bạn ta khi đi, thì cũng
còn có tí
kỷ niệm mang theo, viết như viết vào hư vô, thì… chán chết! NQT
Tiện đây, post đoạn mở ra tác
phẩm Đốt đuốc chơi đêm, The Perpetual
Orgy: Flaubert & Madame Bovary, cũng nói cái chuyện “giả mà
bảnh hơn
thực”.
Flaubert chẳng đã từng phát
điên lên, vì con điếm Bovary thì cứ sống hoài, còn ta thì chết như con
chó,
sao? (1)
AN UNREQUITED PASSION
Criticism would perhaps be
simplified if, before setting forth an opinion, one avowed one's
tastes; for
every work of art contains within itself a particular quality stemming
.from
the person of the artist, which, quite apart .from the execution,
charms us or
irritates us. Hence only those works which satisfy both our
temperaments and
our minds arouse our unqualified admiration. The failure to make this
fundamental
distinction is a great cause of injustice. -Preface to Dernières
chansons by Louis Bouilhet
"The death of Lucien de
Rubempré is the great drama of my life," Oscar Wilde is said to have
remarked about one of Balzac's characters. I have always regarded this
statement
as being literally true. A handful of fictional characters have marked
my life
more profoundly than a great number of the flesh-and-blood beings I
have known.
Although there is no denying that when literary characters and human
beings are
an immediate presence, a direct contact, the reality of the latter
prevails
over that of the former-nothing is as alive as the body that can be
seen and
touched-the difference disappears when both become part of the past, of
memory,
to the considerable advantage of the first over the second, whose
fading in our
minds is irremediable whereas the fictional character can be brought to
life
indefinitely, merely by opening the pages of the book and stopping at
the right
lines. In that heterogeneous, cosmopolitan circle, a gang of friendly
ghosts
whose members come and go, depending on the period of my life and my
mood
(today I might mention, offhand: D'Artagnan, David Copperfield, Jean
Valjean,
Prince Pierre Bezukhov, Fabrice del Dongo, the terrorists Cheng and the
Professor,
Lena Grove and the tall convict); none of them has been present as
persistently, and with none of them have I had as clearly passionate a
relationship, as Emma Bovary. That story may perhaps serve as a small
example
that will help to shed light on the much-discussed, enigmatic
relationships
between literature and life.
(1) Tại sao 'con điếm’ Bovary
cứ sống hoài, trong khi ta nằm đây, chết như một con chó ghẻ? (Flaubert
cried
out against the paradox whereby he lay dying like a dog whereas that
‘whore’ Emma
Bovary, his creature… continued alive.
G. Steiner, The Uncommon
Reader
Cái chuyện Zhivago chết, chưa
ghê bằng, cái chuyện tiếp theo đó, cũng do D.M. Thomas kể, trong một
tác phẩm
khác của ông. Zhivago, giả, chết, bắt hồn kẻ sống đi theo cùng với ông,
mới
kinh hồn bạt viá.
*
"Tôi trở nên khiếp đảm
bởi nghệ thuật", D. M. Dylan Thomas mở đầu "Hồi tưởng & Hoang
tưởng". Với ông, khả năng thấu thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó
xẩy
ra, ở một cậu bé, chính là "phép lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và
ông trở nên khiếp đảm, bởi nó.
"Nghệ thuật là những ngã
ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và cái
chết gặp
gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều, rằng nghệ thuật luôn
luôn là
suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự sống. Điều ngược lại cũng hoàn
toàn
đúng.
Cách đây vài năm, tôi đi thăm Lydia,
người chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp
ẹp, tối thui. Chủ nhà, một
người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt lủn, lủng
lẳng bị
chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một cái hũ cà phê,
loại uống
liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không làm sao
liên hệ bà
với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi tôi có
muốn đi
xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng. Tôi
đi theo
đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn phòng. Một luồng
mầu sắc
và ánh sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh tuyệt
vời. Tôi
nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung, giá
vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một
cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo,
suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid Pasternak. Có đến
vài phút
đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một người đàn bà
đẹp, dáng
mơ mộng, đang chải tóc. Tôi yêu liền ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó
mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất
mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì đáng kể, ngoại
trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có cảm giác những bức họa đã
hút sạch
bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà đã
có bảo hiểm những bức họa?"
"Không, nếu bị đánh cắp,
cái gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi coi
những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con cháu của ông. Một
trong
những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ
bí, đáng
sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì
đứng tim,
ngay trên đường phố Moscow,
đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ đến
một điều, cái
chết của nhân vật giả tưởng Zhivago đã "ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái bóng, y hệt như cô
con gái Lydia
đã trở
thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Và Thomas kết luận, đâu có gì
là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ? "Không
phải
cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang
sách vang
lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
Nguồn
Trong
Stranger Shores, tập
tiểu luận, nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, nhà văn Nobel, Coetzee đi
một đường
ai điếu hơi bị sớm nhà văn hiện còn sống, Josef Skvorecky: … Looking
back over his career, Skvorecky produces a humorously modest obituary:
“After
years of socialism… he was..”. [Nhìn lại sự nghiệp văn
chương....
]. Không
biết ông nhà văn này có
quê không, nhưng liền mới đây, cho ra lò một cuốn thật hách xì xằng, tờ
TLS, số
mới nhất đi một đường chào mừng: Josef Škvorecký's Ordinary
Lives A novel
that reveals the
horror inherent in life under totalitarianism, trong
đó để nhẹ nhà phê bình
nhớn, Nobel văn chương một câu: In
2002, in Stranger Shores,
J. M. Coetzee published a premature obituary on Škvorecký’s literary
career,
implying he was finished as a writer.
Đọc, Gấu bỗng nhớ, chính Gấu,
ngay khi NMG vừa xuất hiện, đã đi một đường bói mu rùa, tay này không
biết viết
truyện dài. Nay, về già, nhìn lại "nghiệp" của mình, Gấu băn khoăn, như
KD, tự hỏi,
không hiểu do đâu mà dám phán như thế, về một nhà văn sau này là
tác giả của hơn một trường thuyên tiểu thuyết, và câu vinh danh của Da
Mầu
trong số đặc biệt, ra lò như để cho kịp cái chuyện, có thể nhà văn của
chúng
ta, như Gấu này, chẳng còn ở lại bao lâu nữa với chúng ta nữa
[vậy mà Gấu đếch được hân hạnh đó]: Nguyễn Mộng Giác không còn là
một tên tuổi xa lạ với độc giả trong cũng như ngoài nước. "Không còn xa lạ", hẳn là để nói cái chuyện
NMG đã bệ tác phẩm về rồi.
Cái sự về của NMG cũng có quá nhiều vấn đề phi văn chương!
*
Chẳng hạn nhiều người
vẫn nghĩ
nhân vật Tường trong Mùa Biển Động là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Quả tình
tôi có lấy
một vài hoạt động của HPNT thời kỳ tranh đấu Phật giáo hoặc một vài chi
tiết khác
của cuộc đời anh cho vào truyện, nhưng nhân vật Tường của Mùa Biển Động
không liên
quan gì tới
nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện ở Huế.
NMG: Tha Hương.
Sự thực, NMG có
thể lấy hết cả cuộc đời của HPNT đưa vào tác phẩm của mình, cũng chẳng
ai có ý
kiến, vì có ai biết, đó là cuộc đời của HPNT, trừ những người biết rành
về ông
ta. Trong văn chương, đã có rất nhiều trường hợp như vậy, nhưng đâu có
ai nói gì,
ấy là vì, tác giả đã dùng một cái tên giả, khác hẳn tên thực ở ngoài
đời. Khi
NMG dùng ngay tên thực của HPNT, một cách nào đó, ông đã vi phạm trầm
trọng đạo
đức văn chương. Gấu chắc chắn một điều, nếu không lấy cái tên Tường,
ông mất đi
rất nhiều độc giả, thứ tò mò muốn viết về cuộc đời riêng của
HPNT.
Và khi sử dụng tên
Tường như vậy, ngay lập tức, những gì ông viết về nhân vật Tường,
độc giả kể
như là chính me-xừ HPNT, ở ngoài đời, đã làm những chuyện đó, trong có
cả cái chuyện
“làm thịt' một cô gái yêu thương anh ta, nếu Gấu nhớ không lầm!
*
Ông có điều
gì
truyền cho đám nhóc tập tành viết?
Simenon: Viết được coi như là một nghề, a profession, và tôi không
nghĩ, nó là
một nghề. Tôi nghĩ, đừng cần là nhà văn; khi có thể làm một
điều gì đó,
thì nên làm [I think that everyone who does not need to be a
writer, who
thinks he can do something else, ought to do something else]. Viết
không phải
là một nghề nhưng là một thiên hướng của sự bất hạnh, writing is not a
profession but a vocation of unhappiness. Tôi không hề tin có một thằng
cha
nghệ sĩ nào mà lại hạnh phúc.
Tại sao?
Bởi vì, thứ nhất, tôi nghĩ, nếu một người đàn ông có
cái sự cần thiết, bức
xức, để là một nghệ sĩ, if a man has the urge to be an artist, ấy là
bởi vì hắn
ta cần tìm chính hắn ta, it is because he needs to find himself. Mọi
nhà văn cố
tìm hắn ta qua những nhân vật của hắn, qua tất cả những gì hắn viết ra.
Hắn ta viết cho hắn ta?
*
Áp dụng những câu trên vào trường hợp NMG, [if a man has the urge to be
an artist, it is because he needs to find
himself... ],chúng
ta tự hỏi, tại làm sao NMG lại cần những nhân vật như Tường, như Nguyễn
Huệ, thí dụ?
Tiểu
thuyết là gì?
Cái,
tiểu thuyết có thể nói,
bất cứ dạng nào khác không thể nói, là cái gì?
Đó là
câu hỏi cơ bản mà
Hermann Broch đã từng đặt ra, và Carlos Fuentes dùng để mở ra bài viết có tên là Tiểu Thuyết, ở trong một
cuốn tiểu luận sắp xếp các đầu vào giống như của một cuốn từ điển, Điều
Tôi
Tin, This I Believe, An A to Z of a Life.
Một
trong những câu trả lời,
của Fuentes, là:
Tiểu
thuyết tái dẫn nhập con
người vào lịch sử. Trong thứ đại tiểu thuyết, con người được giới
thiệu,
với định
mệnh của nó.
The
novel is a reintroduction
of the human being into history. In the greatest of novels, the subject
is
introduced to his destiny
Bày tỏ quan niệm sáng tác
của
mình, Nguyễn Mộng Giác nói rất rõ và rất cụ thể. Theo ông, tiểu thuyết
là “một
thể loại văn chương nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn ngóng chuyện thiên hạ
của người
đời. Người viết tiểu thuyết là người kể. Người đọc tiểu thuyết là người
muốn
nghe kể. Người kể chuyện, giống như ông thầy đứng trên bục giảng giảng
bài cho
sinh viên ngồi phía dưới, phải kể thế nào để người nghe hiểu được câu
chuyện
của mình, nghĩa là cả hai bên phải nói cùng một ngôn ngữ, dùng cùng một
tần số
cho tín hiệu phát và thu, có chung một trục qui chiếu của lý luận và
phương
cách diễn đạt. Mà theo tôi, căn bản của tiểu thuyết là chuyện thế sự,
là chuyện
con người và cuộc đời.”( Dẫn từ “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử / Nam
Dao
& Nguyễn Mộng Giác”, Văn Học Cali số 197, 2002; đưa lên Da Màu
9/9/2008)
THT
Tiểu
thuyết quả là để
nhằm thỏa
mãn nhu cầu hóng chuyện của độc giả, nhưng đây chỉ là một khía cạnh của
nó. Vả
chăng, tiểu thuyết như cái dạng hiện thời của nó, là con đẻ của Âu
Châu. Đông
phương, thí dụ như TQ, có thứ truyện cổ, truyền kỳ, diễn nghĩa.. không
có tiểu
thuyết. Còn cái ví von tiểu thuyết gia là ông thầy giáo, độc giả như
anh học trò,
thì nhảm quá, thứ nhất quá coi thường độc giả, và thứ nữa, méo mó nghề
nghiệp,
NMG đã từng là ông thầy giáo, và cái ông khen câu này cụ thể cũng là
thầy giáo
luôn, hình như thế, thứ nữa, cả hai ông đều đếch biết thế nào là tiểu
thuyết! Và
điều này chứng tỏ, cả hai ông đều là tiểu thuyết gia dở, và từ đó,
chứng tỏ, Gấu
ngày nào phán về NMG là có lý của thằng cha Gấu!
*
Một ông thầy, khi đứng trên bục
giảng, cố tìm cách cho bầy học trò đang ngồi ở trong lớp hiểu một bài
học mà ông
thầy thật rành, và, tuỳ trình độ học sinh, ông thầy cố tìm một ngôn ngữ
thích hợp,
vừa trình độ với họ, làm sao dám so sánh chuyện dậy học như vậy, với
chuyện viết
văn?
Chính tác giả cũng chưa
biết
cái thứ tác phẩm của mình nó ra làm sao, ngôn ngữ của nó thì sẽ thế
nào, làm
sao mà thầy [tác giả], trò [độc giả] nói cùng ngôn ngữ?
Phán loạn cào cào châu chấu
như vậy, mà cũng có người hò theo?
*
V/v chính tác giả cũng không
biết ngôn ngữ tác phẩm của mình sẽ ra làm sao.
Khi trả lời tờ Lire, Rushdie cho
biết, khi khám phá ra giọng nói của Saleem Sinai là ông sướng điên lên,
và biết
mình là nhà văn, sau 10 năm dò dẫm, “Je me souviens encore du sentiment
d'exaltation qui me submergea quand je découvris la voix de Saleem
Sinai ainsi
que la mienne par la même occcasion. Rétrospectivement, j'ai toujours
pensé que
c'est ce jour que je devins enfin écrivain, après dix ans de
tâtonnements.”
Nhưng
câu trả lời tờ The
Paris Review mới thật là tuyệt vời: (1)
Mỗi
cuốn sách phải dậy
cho bạn
làm thế nào viết nó, nhưng thời điểm quan trọng nhất là khi khám phá ra
giọng nói
của cuốn sách…. Joseph Heller có lần nói, ông phải làm sao kiếm ra được
một câu
văn chứa một trăm câu văn ở trong nó. Và chuyện đó đã xẩy ra khi ông
khởi sự viết
Catch-22, đúng vào lúc ông ông viết câu văn, Yossarian falling in love
with the
chaplain. Câu văn nói cho ông biết, những câu sau sẽ ra như thế nào. (1)
INTERVIEWER
What was it about Saleem
Sinai that released you?
RUSHDIE
I'd always wanted to write
something that would come out of my experience as a child in Bombay. I'd been
away from India
for a
while and began to fear that the connection was eroding. Childhood-that
was the
impetus long before I knew what the story was and how big it would
become. But
if you're going to have the child born at the same time as the country,
so that
they're twins in a way, you have to tell the story of both twins. So it
forced
me to take on history. One of the reasons it took five years to write
is that I
didn't know how to write it. One early version opened with the line,
"Most
of what mattters in our lives takes place in our absence." I meant that
children don't come naked into the world, they come burdened with the
accumulated
history of their family and their world. But it was too Tolstoyan. I
thought,
If there's one thing this book is not,- it's Anna Karenina. The
sentence is
still there in the book somewhere, but I buried it.
The third-person narration
wasn't working, so I decided to try a first-person narrative, and there
was a
day when I sat down and I wrote more or less exactly what is now the
first page
of Midnight's Children. It just arrived, this voice of Saleem's: quite
savvy,
full of all kinds of arcana, funny but sort of ridiculous. I was
electrified by
what was coming out of my typewriter. It was one of those moments when
you
believe that the writing comes through you rather than from you. I saw
how to
drag in everything from the ancient traditions of India
to the oral narrative form
to, above all, the noise and the music of the Indian city. That first
paragraph
showed me the book. I held onto Saleem's coattails and let him run. As
the book
developed, as Saleem grew up, there were moments where I felt
frustrated by
him. As he got older, he became more and more passive. I kept trying to
force
him to be more active, to take charge of events-and it just didn't
work.
Afterwards, people assumed the book was autobiographical, but to me
Saleem
always felt very unlike me, because I had a kind of wrestling match
with him,
which I lost.
INTERVIEWER
Have you written another book
where the voice just arrives like that?
RUSHDIE
Each book has to teach you
how to write it, but there's often an important moment of discovery.
The only
thing that's comparable was when I was writing Haroun and the Sea of
Stories,
in which the big problem was tone of voice, how to walk the line that
would
allow both children and grown-ups to get pleasure out of it. There was
a
particular day when, after some false starts, I wrote what is now the
beginning
of the book. And again I thought, Oh, I see, you do it like this:
"There was once, in the
country of Alifbay ... " I had to find that once-upon-a-time formula.
Because the thing about the fable is that the words used are very
simple but
the story is not. You see this in Indian fables like the Panchatantra
stories,
in Aesop, and even in modern fables, like Calvino's books. You say
something
like, Once upon a time there was a cat who wore boots as high as his
knees and
used a sword. Words of one syllable, but the thing created is very
strange.
Joseph Heller said that once
in a while he would find a sentence that contained a hundred more
sentences.
That happened to him when he started Catch-22, the moment he wrote the
sentence
about Yossarian falling in love with the chaplain. That sentence told
him where
the rest of the novel was going. That happened to me when I wrote the
beginning
of Midnight's Children and Haroun. I had that light-bulb moment. But
when I wrote
The Satanic Verses I had hundreds of pages before I wrote the scene
that is now
the beginning of the novel, these people falling out of the sky. When I
wrote
that scene I thought, What's this doing here? This doesn't belong here.
*
Thành thực mà nói, NMG không hề có một văn phong, và có vẻ như ông chưa
từng bao giờ băn khoăn về chuyện văn phong. Gấu nhận ra điều này, tình
cờ, lần qua Cali, tá túc tại nhà ông, và được ông cho coi bản thảo cuốn
Sông Côn Mùa Lũ:
Không hề có lấy một dấu vết sửa chữa, dù chỉ một câu
văn! Ông viếr ra câu nào, là khỏi cần sửa. Khủng khiếp thật.
Lần đó, có cả Gấu Cái. Bả sửng sốt nói, thằng cha Gấu nhà tui chưa
kịp viết ra, là đã lo sửa rồi! Mà nếu thấy tôi làng chàng đứng đó, là
mặt một đống!
*
Tiểu
thuyết tái dẫn nhập con
người vào lịch sử. Trong thứ đại tiểu thuyết, con người được giới
thiệu,
với định
mệnh của nó.
Câu của Fuentes, có
thể áp dụng
vào trường hợp NMG, qua những trường thiên tiểu thuyết của ông, như
Sông Côn Mùa
Lũ, Mùa Biển Động.
NMG là một nhà văn tham
vọng
cùng mình, không phải thứ nhà văn thường thường bậc trung như ông giả
đò khiêm
tốn.
Trong văn chương hiện đại, có
hai tay bắt Nguyễn Huệ đội mồ sống lại để phục vụ cho tham vọng văn học
&
chính trị của họ, đó là Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Mộng Giác. Một
ông, cho Quang
Trung ra Bắc, sau khi đuổi Mãn Thanh, xong, nhớ chuyện Cao Biền dựng
cột đồng, bèn
nhét cứt vào miệng đám sĩ phu Bắc Hà, hy vọng chúng tỉnh ra, bớt ác đi;
một ông
muốn đổi hẳn căn cước, định mệnh Mít, thay vì Nam, thì Bắc tiến!
Cả hai đều thất bại. Trước NHT, đã có Vũ Trọng Phụng. Thất bại.
Với NMG, lực bất tòng tâm. NMG thiếu sức tưởng tượng của một nhà văn,
theo Gấu. Nhà văn cần sự tưởng tượng, không phải chỉ để thực hiện tham
vọng lớn, mà là thứ thật nhỏ, làm sao hoàn tất chỉ một câu văn, theo
như Rushdie, khi trả lời The Paris Review, trên đây.
*
Trong những định nghĩa, tiểu thuyết là cái quái gì, bảnh nhất, chắc
chắn là của Lukacs, và do đó, chúng ta nhận ra, tiểu thuyết là của Âu
Châu.
Lưu vong và tiểu
thuyết
Tiểu
thuyết là để diễn tả về cõi không nhà siêu
việt
(The form of the novel is, like no other one, an expression of
transcendental
homelessness)
G. Lukacs, Lý thuyết về Tiểu thuyết.
Hai
lý thuyết về tiểu thuyết "dễ cảm nhận nhất" của thế kỷ chúng ta, một
của Lukacs, một của Bakhtin, đều chất chứa những cảm quan về tình trạng
vô gia
cư, vô địa táng.
Với
Lukacs: Hình thức tiểu thuyết, không như bất cứ một hình thức nào khác,
là để
diễn tả tính vô gia cư siêu việt. Nó là thể dạng thứ ba trong lịch sử
văn
chương Âu châu, sau hùng ca (epic), và bi kịch (drama, tragédie). Nó
"cưu
mang" (embody) cơn khủng hoảng cảm tính của Âu-châu. Cuộc Cách mạng
Pháp
và thời đại Nã Phá Luân cho thấy, những thường nhân - cuộc sống vốn chỉ
quẩn
quanh xó nhà, hoặc ở bên ngoài lịch sử - nhận ra một điều: họ có mắc
míu tới lịch
sử, hay ngược lại. Đây là những đòi hỏi mang tính "toàn trị"
(totalitarian claims) đưa đến chủ nghĩa Marxism. (Bởi vậy, thật không
có gì là
cường điệu khi nói, chủ nghĩa Cộng sản là con đẻ của Cách mạng Pháp:
lịch sử là
"của chúng ta" chứ không dành riêng cho đám nhà nghề, hoặc giai cấp ở
trên. Điều này giải thích tại sao cuộc cách mạng vô sản lại bắt đầu ở
Nga, mà
không ở một nước nào khác: giai cấp quí tộc Nga vẫn coi tiếng Pháp mới
là thứ
tiếng "đáng nói" nhất. Paris luôn luôn là thiên đàng của đám trí thức
Nga, Cộng-sản hay không Cộng-sản. Nó cũng giải thích những mắc míu kéo
dài tới
tận bây giờ giữa những người Cộng-sản, chủ nhân mới của đất nước Việt
Nam, và "ông
thầy cũ" là nước Pháp.)
Không
giống như những đạo quân "tiền nhiệm" của thế kỷ 18, vó ngựa viễn
chinh của quân đội Nã Phá Luân mang theo thông điệp, suốt Âu-châu: ý
thức chính
trị của cuộc sống hàng ngày, của những con người bình thường. Lịch sử
không còn
là những thư khố, những ông hoàng. Tiểu thuyết của Scott đã manh nha sự
thay đổi,
với một cách nhìn mới mẻ về sức nặng và sự đa dạng của sự kiện lịch sử.
Lukacs
là người đầu tiên chỉ ra điều này.
Ông
là người Hungary, lớn lên tại thủ đô Budapest (Từ điển bách khoa toàn
thư
Cassell: Lukács Georg 1885-1971, triết gia Hungary, một trong những
sáng lập
viên của chủ nghĩa Marx 'Tây-phương' hay "Hegelian', một dòng triết
chống
lại với chủ nghĩa Marx của khối CS chính thức). Kinh nghiệm "không có
nhà" của ông là do thời gian lưu vong tại Áo, Đức, và Liên-bang
Xô-viết,
hai thời kỳ bị rẻ rúng, "nghỉ chơi với mi", bên trong Đảng CS Hung, rồi
bị đầy đi Romania sau cuộc Cách Mạng Hung vào năm 1956. Ông gia nhập
Đảng CS là
vì muốn "vượt" "ý thức không nhà siêu việt": giấc mơ thiên
đường CS mới "hoành tráng" làm sao đối với ông!
Trong
Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916), lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi
Hy Lạp cổ.
Theo chân Hegel, Lukacs tin rằng thế giới Hy Lạp trở thành ngạt thở đối
với những
thời đại tiếp theo sau nó. Đây là một thế giới khép kín. Chúng ta không
thể thở
được nữa trong một thế giới khép kín. Hùng ca Homer do đó mở đường cho
tiểu
thuyết. Tiểu thuyết: hùng ca của một thế giới bị thần thánh bỏ rơi. Nói
một
cách khác, tiểu thuyết bắt đầu cùng với cái chết của thượng đế. Tiểu
thuyết bắt
đầu cùng với giấc mơ của con người: tìm lại tính siêu việt đã mất.
Những xã hội
nặng chất tôn giáo không phải là môi trường thuận lợi của giả tưởng, là
vậy.
Don Quixote (của Cervantes) cho thấy một điều: thần Ky-tô đã tự ý vắng
mặt, ra
khỏi thế giới, và những cá nhân con người bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa và
bản chất,
và chỉ có thể tìm thấy, trong cái linh hồn "vô gia cư vô địa táng" của
họ.
Tiểu
thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la principale forme
littéraire,
của một thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà
cũng
không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản
giữa con
người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy
của linh
hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà
những câu
trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có
hiểm
nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng không có tối mù... Dùng
một
hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai trẻ
(hùng ca)
và văn chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính
là thể loại
văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de la
maturité
virile).
Vẫn
theo ông, không một nhà văn nào có thể tạo nên một tác phẩm có giá trị,
nếu đặt
để trong đó, những câu hỏi, những vấn đề mà chính anh ta đã vượt qua.
Bởi vậy,
nhân vật chính ở trong tiểu thuyết là một kẻ vấn nạn (un être
problématique), một
tên khùng, hay một tội phạm, bởi vì anh ta luôn tìm kiếm những giá trị
tuyệt đối
mà chẳng hề biết; sống hết mình với chúng, chính vì vậy mà không thể
tới gần. Một
cuộc tìm luôn luôn tiến mà chẳng tới, một chuyển động mà Lukacs định
nghĩa bằng
công thức: "Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu" (Le chemin
est fini, le voyage est commencé).
NQT
*
Người
viết tiểu thuyết là người kể.
NMG
Câu khẳng định này, hơi bị mơ
hồ.
Người viết tiểu thuyết, là tác
giả cuốn tiểu thuyết.
Còn người kể, thì còn tuỳ.
Bởi vì, như Simenon trả lời
The Paris Review: Mọi nhà văn cố tìm hắn
ta qua những
nhân vật của hắn, qua tất cả những gì hắn viết ra. Như thế, tất
cả
những nhân vật
trong tiểu thuyết đều là nhà văn, và đều là người kể!
Người
kể ở đây,
chắc là NMG muốn nói tới “the narrator”. Mà như chúng ta đều biết, có
nhiều “narrator”,
hoặc ở ngôi thứ nhất, ngôi thứ nhì, ngôi thứ ba, ngôi thứ nhất số
nhiều… vv và
vv… Đám tiểu thuyết mới, Butor chẳng hạn, khoái dùng ngôi Vous, You,
Bạn… Có người
khoái ngôi thứ nhất, tôi, cho ra cái vẻ tự truyện.
Người đọc tiểu thuyết là người
muốn nghe kể.
Chưa
chắc. Bởi vì
người đọc, khi nhập đồng, nhập vào nhân vật kể, và trở thành người kể.
Thứ
tiểu thuyết độc thoại nội tâm, thí dụ, người đọc thường dễ trở thành
người
kể. Độc thoại mà!
Cioran
mơ một thế giới, ở đó
con người chết chỉ vì một cái dấu phẩy. Gấu, có thể cũng mơ một thế
giới tương tự khi “từ bỏ thành công” của truyện ngắn đầu
tay, Những con dã tràng [Nó
sẽ đi xa hơn DNM, ông anh nhà thơ phán], để chọn con
đường gian nan khổ ải, ở đó, người ta có thể chết vì… quá
nhiều dấu phẩy!
Ui
chao lại nhớ, lần viết xong câu văn, đúng thời kỳ đẹp nhất của đời Gấu:
Niên học
cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu
bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội,
tôi thức
giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một
buổi
sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.
Rushdie
nhắc tới
câu văn chứa
hàng trăm câu văn.
Câu văn trên chứa cả cuộc đời của Gấu.
NMG
là một nhà văn
tham
vọng
cùng mình, không phải thứ nhà văn thường thường bậc trung như ông giả
đò khiêm
tốn.
Trong văn chương hiện đại, có
hai tay bắt Nguyễn Huệ đội mồ sống lại để phục vụ cho tham vọng văn học
&
chính trị của họ, đó là Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Mộng Giác. Một
ông, cho Quang
Trung ra Bắc, sau khi đuổi Mãn Thanh, xong, nhớ chuyện Cao Biền dựng
cột đồng, bèn
nhét cứt vào miệng đám sĩ phu Bắc Hà, hy vọng chúng tỉnh ra, bớt ác đi;
một ông
muốn đổi hẳn căn cước, định mệnh Mít, thay vì Nam, thì Bắc tiến!
*
Chi
tiết là Thượng Đế ở trong
văn chương. Nhưng chi tiết – như là một cái tên cúng cơm của mỗi con
người - là
một kỳ bí, chỉ có Thượng Đế mới hiểu ra được, và cắt nghĩa giùm cho
chúng ta,
tại sao thằng cha Gấu, thí dụ, có tên là Gấu. Và đây là đề tài bài viết
của
Steiner về Solzhenitsyn: De
Profoundis: Và khổ đau nói làm sao cho hết?
... What
has historical analysis to say in the presence
of Solzhenitsyn's
own sufferings and the cry he has sent through modern history? Each
indignity
visited upon a human being, each torture, is irreducibly singular and
inexpiable. Every time a human being is flogged, starved, deprived of
self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is
an
additional obscenity to depersonalize inhumaneness, to blanket the
irreparable
fact of individual agony with anonymous categories of statistical
analysis,
historical theory, or sociological model-building. Consciously or not,
anyone
who offers a diagnostic explanation, however pious, or even
condemnatory,
erodes, smooths toward oblivion, the irremediable concreteness of the
death by
torture of this man or that woman, of the death by hunger of this
child.
Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As happens
with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows
that if we
are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter
their
names, by the million, in an incessant requiem of nomination. [Như
đã xẩy ra với Dante và Tolstoy, tên riêng của từng con người ùa ra
như thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết nếu chúng ta cầu nguyện cho
những người đã bị chết vì tra tấn, chúng ta phải ghi vào trong tâm khảm
của chúng ta, và đọc lớn lên, tên của họ, hàng triệu triệu cái tên
riêng như vậy theo lời kinh cầu không ngừng nghỉ.]
*
NMG đã từng phán về cái tật ‘chưa
viết đã hăm he sửa’ của Gấu, ‘ông ưa cầu toàn’, và để tránh nỗi khổ
nhận liên
tiếp hàng chục cái “text revised” 1, 2 , 4… mỗi khi chúng vừa ló dạng,
ông liền
lập tức delete, và chỉ lấy bản text sau cùng, khi đem in báo!
Một ông làm nhà xb ở trong nước,
nhận xét về văn Gấu, lần Gấu gửi mấy trang dịch mẫu, để
'hoàn tất cái đơn xin làm dịch giả chuyên nghiệp cho cơ sở của ông' (1):
Toàn thể anh em trong ban tuyển
dụng cùng nhất trí với bản dịch mẫu… Tuy nhiên, tuy
không phải là thành viên của ban, với tư cách người ngoài cuộc, tuy là
chủ nhà
xb, tôi có nhận xét: Dùng nhiều dấu phẩy quá. Đọc ít không sao, đọc cả
một truyện
dài, sợ ảnh hưởng tới văn phong của nguyên tác, chăng?
Câu kết mới tuyệt cú mèo:
Nhưng, bỏ phết, phẩy, làm sao
còn là văn của… Gấu?
Đọc
Raymond Carver, Les Feux [bản
dịch tiếng Tây của cuốn Fires],
ông cũng phán một
câu thần sầu về cái thói cầu toàn của nhà văn:
Evan Connell a expliqué un
jour qu'il n'était sûr d'avoir terminé une nouvelle qu'à partir du
moment où il
en arrivait à remettre à la même place les virgules qu'il avait
supprimées lors
d'une précédente révision. Voilà une manière de travailler qui me
plaît. Je
n'ai que du respect pour cette sorte de perfectionnisme. Après tout,
nous
n'avons rien d'autre que les mots, et il vaut mieux qu'ils soient aussi
justes que
possible, et que les points et les virgules soient disposés aux
emplacements
qui conviennent, afin de dire au mieux ce qu'ils ont à dire. [... chỉ
cảm thấy OK, khi đọc lại một truyện ngắn, và để lại một cái dấu phết,
đã từng bỏ đi, lần đọc lại, trước đó].
Ui choa, tôi mơ tưởng một thế
giới, ở đó người ta có thể chết, chỉ vì một cái dấu phết.
Cioran, bảnh thật.
(1) Này, đừng có tin nó, rồi lại chửi toáng lên, thằng khốn nạn Gấu bắt
tay với VC rồi!
Quả tình Gấu có cộng tác với VC, nhưng không [hay chưa] bắt tay!
Sự thực
Mùa Biển Động chỉ
xứng đáng được coi như một trận bão ở trong chén trà, nhỏ, Huế, lớn,
Miền Trung,
quanh đi quẩn lại một dúm người, một dúm nhân vật, và nếu như thế, bỏ
đi cái
tên Tường, thì chẳng còn gì, trận bão cũng không, mà chén trà cũng
không. Đó là một
lý do mà NMG không thể nào không cầm nhầm cái tên Tường!
Chán thế!
Ngoài ra, NMG là loại nhà văn
rất cần độc giả, rất cần đến tiếng vọng từ phía độc giả, một khi tác
phẩm của
ông được in ra. Viết như là viết vào hư vô là điều ông không thể nào
chịu nổi.
Thú thực, Gấu chẳng hề có cái
tư tưởng đó.
Gấu biết rất rõ tác phẩm của
Gấu, không cần tới tiếng dội từ phía độc giả.
Đừng nghĩ là Gấu này kiêu
ngạo.
Bởi vì, một nhà văn phải tin
chắc vào điều mình viết, và cái tay độc giả nghiêm khắc nhất của một
nhà văn đích thị là anh ta.
Chỉ một khi anh ta hài lòng, thì mới đến
lượt một độc giả
có hy vọng được thưởng lãm văn tài của anh ta!
|
|