ANNA SWIRSZCZYNSKA
I Knocked My Head Against the Wall
As a child
I put my finger in the fire
to become
a saint.
As a teenager
every day I would knock my head against the wall.
As a young girl
I went out through a window of a garret
to the roof
in order to jump.
As a woman
I had lice all over my body.
They cracked when I was ironing my sweater.
I waited sixty minutes
to be executed.
I was hungry
for six years.
Then I bore a child,
they were carving me
without putting me to sleep.
Then a thunderbolt killed me
three times
and I had to rise from the dead three times
without anyone's help.
Now I am resting
after three resurrections.
ANNA
SWIR
1909-1981
Fire consumed the city of Warsaw. First, the part where the Germans had made the ghetto, and then the rest of the city. A lonely woman running through streets that are on fire is enough as a metaphor of a "limit situation."
Lửa nuốt Warsaw. Thoạt đầu, khu ghetto, sau,
trọn thành phố. Một người đàn bà mình ên
chạy qua những phố xá rực lửa đủ để trở thành 1 ẩn dụ về
một “hoàn cảnh giới hạn”.
I'M AFRAID OF FIRE
Why
am I so afraid
running along this street
that's on fire.
After
all there's no one here
only the fire roaring up to the sky
and that rumble wasn't a bomb
but just three floors collapsing.
Set
free, the naked flames dance,
wave their arms
through the gaps of the windows,
it's a sin to peep at
naked flames
a sin to eavesdrop on
free fire's speech.
I
am fleeing from that speech,
which resounded here on earth
before the speech of man.
Translated from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire
Tôi sợ lửa
Ðó
là lý do tôi quá sợ
Khi chạy dọc theo con phố
Ðang cháy
Chẳng
còn một ai
Lửa cuồn cuộn thấu trời
Không phải tiếng bom nổ
Một tòa nhà ba từng sụp đổ
Lửa
xổng chuồng,
Lửa khoả thân nhảy múa
Giơ những cánh tay
Qua những khoang cửa sổ
Ðúng
là 1 tội lỗi
Lé mắt nhìn
Lửa trần truồng
Một tội lỗi
Nghe lén lời của lửa
Trong cơn xổng chuồng
Tôi
bỏ chạy lời của lửa
Ðang vang dội ở đây, trên mặt đất,
Trước lời của con người.
ANNA SWIR
1909-1984
I have translated a number of poems by Anna
Swir (in reality, Anna Swirszczynska), because I value her for the intensity
and warmth of her poetry, dictated by eros, or by empathy and pity for
suffering people. Her poems on war and the Nazi occupation in Poland
are among the best in their conciseness. She was also a militant feminist
and author of uninhibited love poems.
THE SAME INSIDE
Walking to your place for a
love feast
I saw at a street corner
an old beggar woman.
I took her hand,
kissed her delicate cheek,
we talked, she was
the same inside as I am,
from the same kind,
I sensed this instantly
as a dog knows by scent
another dog.
I gave her money,
I could not part from her.
After all, one needs someone who is close.
And then I no longer knew
why I was walking to your place.
Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Tôi đã dịch một số bài thơ
của Anna Swir (tên thực, Anna Swirszczynska), bởi vì
tôi rất chịu sức căng, sự ấm áp của thơ bà, được
phán ra thật bảnh, bởi sự ướt át, hay bởi lòng thấu
cảm, thương hại dành cho những con người đau khổ. Những bài
thơ về chiến tranh, về Nazi chiếm đóng Ba Lan, là trong
số những bài bảnh nhất, do cái sự súc tích,
kiệm lời của chúng. Bà còn là 1 nhà
nữ quyền dấn thân, và tác giả một số thơ tình
“vượt rào”
Bên trong như nhau
Đi bộ tới nơi bạn ở để dự một
bữa tiệc tình
Tôi nhìn thấy ở góc phố
Một bà già hành khất
Tôi cầm tay bà
Hôn má mảnh khảnh của bà,
Chúng tôi nói chuyện
Bà, bên trong của bà, y chang bên trong
của tôi
Từ cùng một thứ
Tôi cảm thấy điều này liền lập tức
Như một con chó ngửi ra liền mùi của một con chó
khác.
Đọc Thơ Trước Nửa Đêm
Ngu Yên
Anna Swir ('Swirszczynska)( 1909-1984
) sinh ở Warsaw. Tốt nghiệp đại học về Văn chương Ba lan. Bà
làm thơ, viết kịch và truyện trẻ em. Qua đời vì
bệnh ung thư 1984 tại Keakow.
NY
Note: Krakow, không phải
Keakow.
Bài thơ này, TV đã giới thiệu.
*
ANNA SWIR
1909-1984
Poetry readings are not common in some countries.
In others, among them Poland, they draw an audience that doesn't treat
poetry as an aesthetic experience only.
Rather, in one way
or another, such audiences bring to the event their multiple questions
about life and death. This poem captures well the ignorance and helplessness
of both the poet and her listeners.
Đọc thơ thì hơi bị hiếm ở vài
xứ sở. Ở những xứ khác, trong có Ba Lan, thính giả
kéo tới không
chỉ để nghe đọc thơ, như 1 kinh nghiệm thẩm mỹ, mà còn
ưu tư về chuyện sống, chết, ba cái lăng nhăng khác nữa. Bài thơ dưới đây nắm bắt đúng cái
sự ngỡ ngàng, vô tri, bất lực, giữa người đọc, và người nghe, thơ.
I'm curled into a ball
like a dog
that is cold.
Who will tell me
why I was born,
why this monstrosity
called life.
The telephone rings. I have
to give
a poetry reading.
I enter.
A hundred people, a hundred pairs of eyes.
They look, they wait.
I know for what.
I am supposed to tell them
why they were born,
why there is
this monstrosity called life.
Đọc thơ
Lạnh,
Tôi cuộn người thành trái banh
Như giống chó thường làm
Ai sẽ nói cho tôi
biết
Tại sao tôi sinh ra
Tại sao cái quỉ ma này
gọi là cuộc đời
Chuông điện thoại
Tôi phải đi một đường đọc thơ
cho thính giả mê thơ
Tôi đi vô
Cả trăm người
Cả trăm cặp mắt
Họ nhìn
Họ đợi
Tôi biết họ đợi gì
Đợi tôi nói với họ
Tại sao họ sinh ra
Tại sao có cái quỉ ma gọi là cuộc đời
ANNA SWIR
1909-1984
THE
SEA AND THE MAN
You will not tame this sea
either by humility or rapture.
But you can laugh
in its face.
Laughter
was invented by those
who live briefly
as a burst of laughter.
The eternal sea
will never learn to laugh.
Translated from the Polish by
Czeslaw Milosz and Leonard Natha
Biển
và Người
Mi sẽ không thuần hóa
biển
Bằng, hoặc khiêm nhường, hoặc say mê
Mi chỉ có thể cười vào mặt nó.
Tiếng cười được phát
minh bởi những kẻ
Cuộc sống ngắn ngủi
Như 1 phát cười
Biển vô tận
Chẳng bao giờ học cười.
Như
Milosz viết, chuyện đọc thơ không phải xứ nào cũng có.
Bài thơ của Anna Swir không phải là về chán thơ,
không thèm làm thơ nữa, tại sao Mai Thảo trốn thơ, sau
Lò Thiêu mà còn làm thơ... mà là
về cái chuyện đọc thơ, và trong những cuộc đọc thơ như thế,
ở xứ Ba Lan của ông, thính giả hỏi đủ thứ chuyện, không
chỉ về thơ.
Xứ Bắc Kít cũng có trò đọc thơ này,
trong thời gian chiến tranh Chống Mẽo cứu nước, và bi giờ, hết
rồi. Và bi giờ, nhìn lại, thì Gấu biết là
"bịp"!
[GCC
sẽ đi 1 đường về kỷ niệm này, sau]
V/v
Krakow.
Zagajewski
ra đời ở đây. Thi sĩ Ba Lan hình như ông nào,
bà nào cũng có viết, làm thơ về Krakow
Krakow's story: a Unesco City of Literature
built out of books
This
poetry is about the pain of the twentieth century, about accepting the
cruelty of an inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact that at the same time the poet loses none of his lyricism
or his sense of humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự kiện, cùng lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, hay cái cảm quan cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình – thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.
Adam
Zagajewski: Introduction
(Translated by Bill Johnston)
Miền Nam trước 1975 có
"Đồng Nai Tam Kiệt", là TTT, BG, TTY
TWO DROPS
No time to grieve for roses,
when the forests are burning.
-JULlUSZ SLOWACKI
The
forests were on fire-
they however
wreathed their necks with their hands
like bouquets of roses
People
ran to the shelters-
he said his wife had hair
in whose depths one could hide
Covered
by one blanket
they whispered shameless words
the litany of those who love
When
it got very bad
they leapt into each other's eyes
and shut them firmly
So
firmly they did riot feel the flames
when they came up to the eyelashes
To
the end they were brave
To the end they were faithful
To the end they were similar
like two drops
stuck at the edge of a face
Zbigniew
Herbert : Chord of Light
1956
Hai giọt
Làm gì có thời gian để
mà than khóc những bông hồng, khi rừng đang cháy
-JULlUSZ SLOWACKI
Rừng đang cháy –
Tuy nhiên họ vòng tay ôm cổ
Như những bó hồng
Mọi người chạy vô hầm
trú ẩn –
Anh ta nói, vợ tôi tóc dầy thật dầy và tôi
có thể ẩn náu ở trong đó
Trùm 1 tấm mền
Họ thì thầm những lời chẳng hổ thẹn
Lời kinh của những kẻ yêu nhau
Khi tình trạng trở nên
quá tệ
Họ nhẩy vô mắt nhau
Và đóng chặt lại
Đóng chặt, họ không
cảm thấy ngọn lửa
Khi họ trườn lên tới mi mắt
Bài thơ trên mở
ra Tuyển tập thơ 1956-1998, của Zbigniew Herbert.
Vẫn trong bài Giới thiệu, Adam Zagajewski viết:
EVERY GREAT POET lives between two worlds. One of these is the real, tangible world of history, private for some and public for others. The other world is a dense layer of dreams, imagination, and phantasms. It sometimes happens-as for example in the case of W B. Yeats-that this second world takes on gigantic proportions, that it becomes inhabited by numerous spirits, that it is haunted by Leo Africanus and other ancient magi.
Mọi thi sĩ lớn thì
đều sống trong [giữa], hai thế giới. Một, thế giới thực, sờ mó,
mân mê được, thế giới của lịch sử, riêng tư với một số
người, và công cộng đối với những người khác.
Thế giới kia, là một tầng dầy đặc của những giấc mơ, của sự tưởng
tượng, của những hồn ma bóng quế. Đôi khi xẩy ra điều này
– thí dụ như trong trường hợp của W.B. Yeats – cái thế giới
thứ nhì ham hố quá, chiếm nhiều chỗ quá, chứa đủ thứ
hồn ma, tinh anh, thần thánh, yêu ma… cái
thế giới bị ám ảnh bởi Leo Africanus, hay một vì phù
thuỷ cổ xưa khác.
Take the well-known
poem “Apollo and Marsyas." It is constructed on a dense, solid foundation
of myth. An inattentive reader might say (as inattentive critics have in
fact said) that this is an academic poem, made up of elements of erudition,
a poem inspired by the library and the museum. Nothing could be more mistaken:
Here we are dealing not with myths or an encyclopedia, but with the pain
of a tortured body.
Lấy bài thơ nổi tiếng của ông,“Apollo and Marsyas." Nó được xây dựng trên 1 cái nền dầy đặc, cứng ngắc, của huyền thoại. Một độc giả gà mờ sẽ nói - ngay cả Thầy Kuốc, nhà phê bình sắc sảo nhất hải ngoại "đâu phải thời nào cũng có được", cũng sẽ phán, đây là 1 bài thơ kinh điển, hàn lâm, của những người có bằng cử nhân Triết Văn Khoa Sài Gòn, như… Thầy Đạo, được làm bằng ba cái trò sao chép bậy bạ, làm ra vẻ ta đây trí thức, uyên bác; một bài thơ được gợi hứng từ thư viện và viện bảo tàng.
Nhảm
ơi là nhảm: Ở đây, trên trang Tin Văn của thằng cha
Gấu Cà Chớn, chúng ta đang đụng tới, không phải những
huyền thoại, hay bách khoa toàn thư Wiki VC, nhưng mà
là cái đau của một người dân Mít, một cơ thể
Mít, bị VC tra tấn!
Hà, hà!
Bài
thứ nhì của tuyển tập thơ Herbert cũng thật là tuyệt.
TV post ở đây, thay cho 1 chuyến về xứ Mít ăn Tết không
làm sao thực hiện được.
PLACE
I
returned years later
perhaps too well-fed
I wanted to check the place
the
hills were smaller
and brown water ran
in the rescue trenches
grass
mostly the same
angelica remembered
the
view contracted
was merely normal
for so much fear
for so much hope
birds
were flitting
from lower branches
to higher branches
so
even they could not
offer me confirmation
Nhiều
năm sau Gấu trở lại xứ Mít
Béo tốt, mập mạp,
Nhờ bơ sữa xứ người
Gấu
muốn thăm thú lại nơi chốn xưa
Những ngọn đồi [Đà Lạt] xem chừng nhỏ hơn
Và một thứ nước mầu nâu
Chảy trong những con mương giải thoát (1)
Cỏ
hầu như vẫn như xưa
Mùi hoa lan [ở ngã tư Phan đình Phùng –
Lê Văn Duyệt, Sài Gòn]
Được tưởng nhớ
Cái
nhìn làm co thắt con tim
Thì cũng chuyện bình thường
Bao nhiêu nỗi đau,
Cho biết bao là hy vọng
Chim
bay từ cành thấp
Lên cành cao
Ngay
cả chúng
Cũng đếch nhận ra Gấu. (2)
ANNA SWIRSZCZYNSKA
I Knocked My Head Against the Wall
As a child
I put my finger in the fire
to become
a saint.
As a teenager
every day I would knock my head against the wall.
As a young girl
I went out through a window of a garret
to the roof
in order to jump.
As a woman
I had lice all over my body.
They cracked when I was ironing my sweater.
I waited sixty minutes
to be executed.
I was hungry
for six years.
Then I bore a child,
they were carving me
without putting me to sleep.
Then a thunderbolt killed me
three times
and I had to rise from the dead three times
without anyone's help.
Now I am resting
after three resurrections.
What are you doing here, poet,
on the ruins
Of St. John's Cathedral this sunny
Day in spring?
What are you thinking here, where
the wind
Blowing from the Vistula scatters
The red dust of the rubble?
You swore never to be
A ritual mourner.
You swore never to touch
The deep wounds of your nation
So you would not make them holy
With the accursed holiness that pursues
Descendants for many centuries.
But the lament of Antigone
Searching for her brother
Is indeed beyond the power
Of endurance. And the heart
Is a stone in which is enclosed,
Like an insect, the dark love
Of a most unhappy land.
I did not want to love so.
That was not my design.
I did not want to pity so
That was not my design
My pen is lighter
Than a hummingbird's feather.
This burden
Is too much for it to bear.
How can I live in this country
Where the foot knocks against
The unburied bones of kin?
Write anything; five hands
Seize my pen and order me to write
The story of their lives and deaths.
Was I born to become
a ritual mourner?
I want to sing of festivities,
The greenwood into which Shakespeare
Often took me. Leave
To poets a moment of happiness,
Otherwise your world will perish.
It's madness to live without
joy
And to repeat to the dead
Whose part was to be gladness
Of action in thought and in the flesh,
singing, feasts,
Only the two salvaged words:
Truth and justice.
Warsaw, 1945
Nè, tên thi sỡi
kia, mi làm cái trò gì ở đây,
Trên những điêu tàn
của Nhà Thờ St. John
Vào một ngày xuân
đẹp nắng như thế này?
Mi nghĩ gì, vào
lúc này, khi gió đùa về đây,
Từ những nát tan ở khu Vistula,
Bụi đỏ của đá vụn
Mi thề, mi đếch bao giờ
làm một kẻ khóc lóc,
than thở theo đúng lễ nghi
Mi thề mi chẳng bao giờ rờ vô
những vết thương sâu hoắm của
nước Mít của mi.
Bởi vì nếu khóc than
như thế là mi biến chúng thành thiêng
liêng
Thứ thiêng liêng đặc
biệt Mít, rất ư khó chịu, thứ thiêng
liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân Mít từ
thuở dựng nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự than thở của Antigone
Dành cho người anh của nàng
Thì vượt quá cả quyền
uy của sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái tim thì
là 1 hòn đá,
trong đó có một tình
yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền đất cực kỳ bất hạnh.
Gấu đếch muốn yêu nước
Mít bằng thứ tình yêu cà chớn
đó.
Đó không phải là
sở nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch muốn thương hại kiểu
đó.
Cũng đếch phải sơ đồ của Gấu
Cây viết của Gấu thì
nhẹ hơn nhiều.
Nhẹ hơn cả một cái lông…
chim!
Thứ gánh nặng đó, quá
nặng cho nó,
Để mà mang, khiêng,
chịu đựng.
Làm sao Gấu sống ở xứ đó
Khi bàn chân, đi tới
đâu, là đụng tới xương của họ hàng,
bà con,
Những người không được chôn
cất.
Gấu nghe những tiếng nói,
nhìn thấy những nụ cười.
Gấu không thể viết bất
cứ điều gì; năm bàn tay
nắm lấy cây viết của Gấu và
ra lệnh viết
Câu chuyện về cuộc đời và
cái chết của họ.
Không lẽ Gấu sinh ra
để là 1 tên khóc
than theo nghi lễ, Nhà Thờ, hay Cửa Phật?
Gấu muốn hát về những lễ hội.
Về cánh rừng xanh mà
Shakespeare
thường rủ Gấu vô đó
chơi.
Hãy để thi sĩ cho một khoảnh
khắc hạnh phúc,
nếu không, thế giới của bạn
sẽ tiêu tùng.
Đúng là khùng điên,
ba trợn,
Nếu sống mà đếch vui, đếch
thú, đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại những người đã
chết
Lập cái cái phần vui
vẻ, sung sướng hạnh phúc của hành động,
Trong tư tưởng, trong thân
xác còn tươi rói, trong hát
hỏng, lễ hội.
Chỉ hai từ cứu rỗi:
Sự thực và công lý
Warsaw, 1945
Thơ và Lịch Sử: Thơ Ba Lan sau Tận Cùng Thế Giới
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi loanh quanh ở cái
khu Ghetto. Phố phường bận rộn, nhưng hình như càng
làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn của những người
đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò Thiêu làm
khỉ gì, chỉ ở đây thôi mà đã cảm
thấy cái sự trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng
được!
Tối hôm đó, tôi
đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài thơ
đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm sao, là
cái mặc cảm sống sót, cái nỗi thống khổ,
“sống, sau những cái đó”, cái tận cùng
thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng
tặng cho người chết, một hình thức cứu chuộc.
Cái bài thơ "Bay", nhân
ngày Thơ ở xứ Mít, tặng những tên
Bắc Kít may mắn hạ cánh an toàn ở xứ
người, cũng được!
Bay
Khi chúng ta bỏ chạy thành
phố cháy đỏ
Và nhìn lại từ cánh
đồng lúa mì đầu tiên
Gấu phán: Hãy để cho cỏ mọc xóa
vết chân của chúng ta
Hãy để cho những tên tiên
tri, thiên sứ câm lặng trước ngọn lửa
Hãy để cho người chết giải thích
cho người chết chuyện gì xẩy ra
Số mệnh của chúng ta, là
cho ra đời một giống Bắc Kít mới, hung bạo
Thoát ra khỏi Cái Ác
Bắc Kít Ngày Xưa!
Nào đi!
Và thế là mặt đất mở
ra cho chúng ta
Bằng một lưỡi gươm lửa!