|
LE REGRET D'HÉRACLITE
I who have been so many men have never been the One in whose embrace
Mathilde Urbach swooned.
-Gaspar Camerarius, in Deliciae poetarum Borussiae VII,
16
K.K.
J.L. Borges
LE REGRET D' HÉRACLITE (1)
Moi, qui ai été tant d'hommes, je n'ai jamais été
Celui dont l'étreinte faisait défaillir Mathilde
Urbach.
GASPAR CAMERARIUS,
dans Deliciae Poetarum Borussiae, VII, 16.
Nỗi ân hận của Héraclite
Ta, ở trong ta, là rất nhiều người
Nhưng không là Cái Kẻ mà,
Ôm em 1 phát, làm Em ngất xỉu!
Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày
sắp tới
[TTT]
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!
[NTST]
Prologue
For anyone who has lived out seventy years, according to the Book
of David, there is little to hope for except to go on plying familiar
skills, with an occasional mild variation and with tedious repetitions.
To escape, or possibly to extenuate, that monotony, I chose to admit, perhaps
with rash hospitality, the miscellaneous interests that crossed my everyday
writer's attention. Parable follows on the heels of confession, free or
blank verse on the sonnet. In the earliest times, which were so susceptible
to vague speculation and the inevitable ordering of the universe, there can
have existed no division between the poetic and the prosaic. Everything must
have been tinged with magic. Thor was not the god of thunder; he was the
thunder and the god.
For a true poet, every moment of existence, every
act, ought to be poetic since, in essence, it is so. As far as I know,
no one to this day has attained that high state of awareness. Browning and
Blake got closer to it than anyone else. Whitman aimed in that direction,
but his careful enumerations do not always rise above a kind of crude cataloguing.
I distrust literary schools, which I judge to
be didactic constructs designed to simplify what they preach; but if I
were obliged to name the influence behind my poems, I would say they stemmed
from modernismo-that enormous liberation that
gave new life to the many literatures that use the Castilian language and
that certainly carried as far as Spain. I have spoken more than once with
Leopoldo Lugones-that solitary, proud man-and he would interrupt the flow
of the conversation to mention "my friend and master, Ruben Dario." (I think,
furthermore, that we ought to emphasize the affinities within our language,
and not its regional differences.)
My reader will notice, in some pages, a philosophical
preoccupation. It has been with me since my childhood, when my father
showed me, with the help of a chessboard (it was, I remember, a cedarwood
board), the paradox of the race between Achilles and the tortoise.
As for the influences that show up in this volume
... First, the writers I prefer-I have already mentioned Robert Browning;
next, those I have read and whom I echo; then, those I have never read
but who are in me. A language is a tradition, a way of grasping reality,
not an arbitrary assemblage of symbols.
-J.L.B.
Buenos Aires, 1972
-A.R.
Với bất cứ ai trời cho quá bẩy bó, theo như Khổng
Tử phán, đều thuộc loại cổ lai hi, thì, với cái
lũ cổ lai hi này, chẳng mong thu hoạch thêm cái đọc,
cái điệc chi nữa, ngoại trừ nhai lại, như trâu bò nhai
cỏ.
Để tránh cái đơn điệu, nhai đi nhai lại, hoặc chôm
chĩa đầu này đầu nọ, - lũ Mít mê thứ này lắm
- tớ, Borges, bèn chọn, chấp nhận, có lẽ với sự hiếu khách
vội vã, những thích thú, đến với một nhà văn
như tớ, trong cuộc sống thường ngày của mình. Ngụ ngôn,
hay ẩn dụ, theo gót chân của thú nhận, thơ tự do, hay
thơ không vần, về sonnet. Vào cái thuở hồng hoang, chắc
chẳng có chi phân biệt giữa poetic và prosaic. Mọi
thứ phải nhuốm mùi thần kỳ. Thor đâu phải là Thần Sấm.
Xừ luý là Sấm, là Thần.
Với nhà thơ, thứ thực, mọi khoành khắc, mọi hành
động, đều "thơ", theo yếu tính của nó, và phải như
thế đó, và, đúng là như thế đó.
Theo như tớ biết, đếch có ai vươn tới tình trạng khủng
như thế.
May lắm, thì có Browning, hay Blake, xém tí
thì đạt được. Whitman, cũng nhắm cú này, nhưng ông
ta ưa đếm điếc này nọ, thành ra chưa vươn tới bảng phân
loại, theo cái kiểu của 1 nhà khoa học Nga, đã làm
đưọc, cái gì gì, bảng tuần hoàn!
SỰ NGHIỆP
Là hạt gạo thất thểu
Hồn u mê theo bầy gió u mê
Lưu vong mà nhỏ lệ
Đời như tan vỡ
Là câu thơ bị chôn sống
dưới tầng đá, cỏ
Đá tảng đố kỵ
Cỏ độc vô sĩ
Lá nỗi đợi phục sinh trên
nắm xương khô
Đá sẽ nát rục dưới vết chân
chạy lửa mù
Cỏ cháy bùng
Tro than sá kể .
2003
Note: Bài thơ này, có
mấy từ khó hiểu. Có thể lỗi chính tả.
Là nỗi đợi phục sinh trên
nắm xương khô?
Cỏ độc vô sỉ?
Chào bác, TN đã
vào TV và đã thấy bài thơ có mấy chỗ
bác cho là lỗi cần sửa. Câu "Là nỗi đợi phục
sinh trên nắm xương khô." Câu này đúng.
Nó liền ý với mấy câu trên: thơ bị chôn
sống (dưới tầng đá,cỏ) thì cũng như tác giả bị chôn
sống,đợi có biến cố để phục sinh thì thi thể tác giả
đã thành nắm xương khô rồi. Biến cố được mong đợi chỉ
có thể là lửa.
Lửa mới có thể nung được đá tảng và đốt
được cỏ độc vô sỉ. Chỉ có chữ sĩ (vô sĩ) là
sai. Dấu hỏi (vô sỉ) mới đúng. Cám ơn bác đã
nhắc nhở. TN tui cũng rất cảm kích và vô cùng
cảm ơn những lời khen tặng bác dành cho hai bài Cầm
tay hôn biết địa chỉ, và bài Mười dấu chân qua.
Lời khen của bác đầy chân tình và rực rỡ như
bình minh. Có điều khó cho Tn là muốn gom các
câu đó lai để làm thành một bài cám
ơn nghiêm chỉnh ngắn gọn, dán lên trang chủ, mà
chưa biết cách rút câu ra. Bác viết xen kẽ, đối chiếu với các
tác giả bự khác trên thế giới làm tui tự
thấy ngộp thở đó bác. Xin bác tha cho cái
tội chưa viết được bài cám ơn như ý muốn và
cái tội chậm trễ nầy.
Tks
Tôi lộn từ "Lá".
Đúng phải là, "Là"
Bài thơ này là 1 "echo" của "Lửa", của Khoa
Hữu, theo GCC
Tks again
Thơ của vị bằng hữu NTST có tới tam tuyệt, cực kỳ cao
ngạo, cực kỳ cao sang, và cũng cực kỳ tâm sự,
riêng tư - đúng như thế, GCC chưa từng khen
ai theo cái kiểu đãi bôi, hay, phán
loạn cào cào, không có chứng từ dẫn
chứng, nhưng quả có 1 sự rắc rối, khó hiểu, ở
đây.
Vị này, Nam Kít,
và, dân Nam, họ rất ưa xuề xòa.
Tâm sự, riêng
tư, OK, nhưng cao ngạo, cao sang, vô lý
quá, hà, hà!
Đàn bà ba miền,
theo GCC, cái gọi là cao sang, thường
là thuộc dân Huế.
Tinh tế, tế nhị, Bắc Kít.
Nam Kít, kể như chẳng
có gì hết.
Vậy mà bà này,
ôm "tam tuyệt" vào thơ của bà, quái
dị thực!
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay
Ui chao, chỉ cần hai câu
thơ thôi, là đã ôm hết cả
cõi thơ, cả cõi đàn bà, vô
mình rồi!
NQT
V/v
Đàn bà ba miền, theo GCC, cái
gọi là cao sang, thường là thuộc dân
Huế.
Về già, ngẫm nghĩ lại, ngẫm nghĩ mãi,
và, bởi vì những vị bằng hữu cuối cùng còn
lại của GCC, thì đều là dân Huế, cho nên
Gấu ngộ ra, đây là đất của nhà vua.
Đâu có phải là tự nhiên
mà nhà Nguyễn chọn Huế là kinh đô!
Chữ của vua, thường dân vô tình
dùng, là chạm huý, là mất đầu!
Gấu biết tới cái sự cao ngạo của dân Huế,
lần gặp Trịnh Công Sơn, ở Quán Chùa.
Về già, nghĩ lại, thì mới hiểu ra là,
Lão Tặc Thiên chọc quê Gấu, trước khi ban cho
Gấu ba người bạn cùng là dân Huế vào lúc
sắp lên chuyến tầu suốt.
Những ngày TCS
Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi
tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn
cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do,
Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa
số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc
chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng thấm
nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi,
nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó,
từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói
chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và
cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa
chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình
nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn,
và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán,
ấy là tôi suy đoán ra như vậy. Thời gian này,
tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói
rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào
Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm
trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào
đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo
bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng
nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này,
tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên,
như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành
tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới,
vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy
yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và
chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì
vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc,
vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và
người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên
đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên
tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính
là tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng
tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một bạn văn của
người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp
gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng", có
thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó
dễ, anh phải vô Sài Gòn, và có than
thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô
đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không
phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày
cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau
lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã
được đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở. Trong
số những quân cảnh tại thành phố, có người chỉ mong
cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân,
khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết
tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.
Note: Bài ai điếu này, cũng “đầm đìa” những
giai thoại, kỷ niệm.
TCS vừa nằm xuống bàn dân thiên hạ còn
"chưa kịp bàng hoàng", có thể như vẫn cay đắng
vì cái sự cao ngạo của 1 giọng Huế, Gấu ra đòn liền,
và cũng liền lập tức, có hai ông vồ ngay lấy bài
viết.
Lý Kiến Cắn, tức Lý Kiến Trúc, đưa ngay
vào 1 số báo Văn Hóa còn nóng hổi
của chàng, để tưởng niệm TCS
Và Đặng Tiến.
Rồi tới báo Văn của NXH
DT đi 1 đường thật là trang trọng/trân trọng
Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ
trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho
đến khoảng 1966 :
"Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói
rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa
em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang
Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt
lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ
bồ, cứ huýt sáo bài ỏTình Nhớ, gần như suốt
đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt
không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng
tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm
tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của
Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó,
khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết
nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp
nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh
đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều
tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ
sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói
đó.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính
là tính phản chiến của cả một miền đất".
Giữa một rừng than khóc ki khu,
thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá
trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó
nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng
trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một
bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình Nhớ thì
can dự gì đến phản chiến? Bài hát đại khái
:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...
Nói về nhạc phản chiến , cứ gì phải dựa vào
Đại Bác Ru Đêm ?
Nhân đây, GCC/NQT xin lỗi DT, vì đã
đọc sai câu chót của bản văn trích dẫn, trong 1
bài viết đã cũ, không còn nhớ ở đâu
nữa, trên Tin Văn.
Cái sự đọc sai, là do câu trên, DT
viết:
Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến?
Nhạc tình của TCS quá can dự vào "phản
chiến".
Đại Bác Ru Đêm làm sao so với nó được.
Đám Ngụy đi tù VC không bao giờ hát
nhạc Trịnh, là vậy.
Cái sự kiện VC bây giờ mê nhạc sến, quả đúng
là 1 cú trả thù ngọt ngào của 1 miền đất.
Sau 30 Tháng Tư, chúng cướp sạch, trừ nhạc sến, mà
chúng gọi là nhạc vàng, nhạc đồi trụy… và
đám Ngụy, khi đi tù, đâu có gì mang
theo, ngoài 1 dúm nhạc sến.
Còn lý do nữa, Brodsky nói.
Với Brodsky thì là thơ, thứ thơ dưới hầm, thơ samizdat,
không dám viết ra giấy, chỉ rỉ tai nhau, mà cũng
phải lựa người.
Với Ngụy, đúng là nhạc sến.
Bởi thế mà GCC dám phán, cái hồn
của văn chương Miền Nam là ở trong 1 dúm nhạc sến.
The degree of compassion with
which the various voices of this "Requiem" are rendered can be explained
only by the author's Orthodox faith; the degree of understanding and forgiveness
which accounts for this work's piercing, almost unbearable lyricism,
only by the uniqueness of her heart, her self and this self's sense of
Time. No creed would help to understand, much less forgive, let alone
survive this double widowhood at the hands of the regime, this fate of
her son, these forty years of being silenced and ostracized. No Anna Gorenko
would be able to take it. Anna Akhmatova did, and it's as though she knew
what there was in store when she took this pen name.
Mức độ cảm thông được ban cho một số giọng
nói ở trong Kinh Cầu có
thể giải thích bằng niềm tin Chính Thống Giáo của
tác giả; mức độ hiểu biết và tha thứ ở trong Kinh Cầu, sự nhức nhối, giọng trữ tình
không thể nào chịu đựng nổi của nó, có được,
là do sự độc nhất vô nhị của trái tim của bà,
của cái ngã của bà, và cảm quan về Thời Gian
của cái ngã này. Chẳng có cái rùng
mình nào có thể giúp hiểu biết, chưa nói
đến tha thứ, đừng nói chuyện, sống sót tình trạng
ở goá kép dưới bàn tay của chế độ, số phần của đứa
con trai, bốn chục năm bị bịt miệng và phát vãng.
Không một Anna Gorenko nào có thể chịu nổi. Nhưng Anna
Akhmatova thì lại được.
Khi chọn lựa cái bút hiệu đó từ trong kho dự
trữ, bà biết điều này.
At certain periods of history
it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing
it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained
by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of
Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled
her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't
know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained,
severed. She showed these evolutions first through the prism of the individual
heart, then through the prism of history, such as it was. This is about
as much as one gets in the way of optics anyway.
Ở
vài giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới có
thể đương đầu với thực tại bằng cách nén nó lại,
thành 1 cái gì có thể nắm bắt được, một điều
gì mà cái đầu không thể làm khác,
ngoài cách đó ra. Theo nghĩa đó, cả nước Nga
cầm lên cái nick Akhmatova, điều này giải thích
tính phổ thông của bà, và, quan trọng hơn, nó
cho bà có thể nói, nhân danh đất nước, cũng
như có thể nói với nó, điều nó không
biết. Bà, như thế, yếu tính mà nói, là
1 nhà thơ của những gắn bó nhân bản: yêu thương,
đằm thắm, kìm chế, dè dặt, nghiêm khắc, ác liệt.
Bà trình ra những cung bực tiến hóa này, trước
hết qua lăng kính của 1 trái tim cá nhân, và
sau đó, qua lăng kính của lịch sử, chuyện là như thế
đó. Thì đâu có khác gì cung cách
của quang học.
Điều Brodsky
nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào
nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa,
[Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái
hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một
vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài kia súng nổ đốt
lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt,
tuyệt!
Khi Gấu
viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân
và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là
"tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì
cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá,
"cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm
sao.
Những ngày
Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê,
nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng
khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng
với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng
câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những
thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy
còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô
bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách
bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc
sống thảm thương như vậy...
I asked a nearby cuckoo to say
How many years I had left to live.
The tops of the pine trees started to sway,
Sunbeams poured down as if through a sieve,
But in the woods, not a sound was heard.
I'm walking homeward now,
And the cool wind, self-assured,
Soothes my fevered brow.
1919
Akhmatova
Gấu hỏi chú cu cu gần
đó, mấy năm nữa thì tớ ngỏm
Những ngọn thông bắt đầu lắc lư
Nắng đổ xuống như xuyên qua một cái xàng
Nhưng trong rừng đếch nghe một tiếng động
Gấu bi giờ đi về phía nhà Mít
Và ngọn gió mát, rất tự tin về chính nó,
Phán ngay bong về cái trán sốt hừng hực của Gấu
Khách sạn Hilton, Hà
Nội
Chẳng có ai người cười
nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình
an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải
diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.
Không
phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi
làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy
choàng nó bằng vải liệm đen
Và
mang đèn đi chỗ khác
Đêm
rồi!
Akhmatova: Kinh Cầu
NTST
Trời ở nơi nào ta ở đây…
Nguyễn Ngọc Tư
"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!
[Trời ở đâu, nhan sắc ta ở đó]
Hồng
nhan một nét ,- trời một cõi
NTST
And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.
But the hills are still the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.
Derek Mahon
Giận dữ lưu vong
Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng
sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở
lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo
ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và
biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì
Note:
Có thể, cái tít bài viết Cô Tư được ‘gợi
hứng’ từ Thomas Mann.
Và nếu như thế, Cô Tư thường ghé... TV?
Với nhóm Dân Saigon Xưa
Gần đây được đoc trang Dân Saigon Xưa, Do
bác Quan Nguyen Thanh chủ biên, thích mê
tơi, muốn bày tỏ tình yêu Saigon của TN (NTST) tui
như quý ban trong nhóm,xin chép lại bài Mười
Dấu Chân Qua (trong loạt bài Ngọc Đông Yêu
Dấu) hầu quý bạn,
MƯỜI DẤU CHÂN QUA
... See More
MƯỜI DẤU CHÂN QUA
Sóng thức lung linh chiều ráng đỏ
Vươn tay nối ấm thôn vườn xanh
Sông thơ mộng uốn vòng lưng phố
tà áo Bạch Đằng quấn gót chân.
Nhớ xưa Tao Đàn vườn cổ tích
Cây thị già thương cô Tấm rơi
Đám trẻ thiên thần tranh nhau lượm
Hương thị lẽ nào giấu được ai.
Ngoắt taxi Passage Eden *
Nhìn ra thế giới cuối hành lang
Những Jim những B.B. đẹp lộng**
Tài hoa bùng vỡ thước phim vàng.
Sóng bước mơ hồ vào Xuân Thu***
Mỗi người một góc đọc cẩu âu
Ra cửa tay thơm tay quà sách
Thơ sầu trao khi chưa biết sầu.
Trốn nắng trưa vào thương xá Tax
Một mình vô định bước chân ngoan
Không mua ngắm nghía lòng dưng rỗng
Rộn chút vui đèn kính sáng
choang.
Tà lụa bay tung rừng bướm trắng
Chấp chới sân trường vỗ sóng khơi
Tuổi ngọc Gia Long hồn nhiên gió
Trống vang giòn động thức tương lai.
Có cô thiếu nữ qua Givral
Hương vây tâm tưởng hồn lan man
Văn nhân ký giả trong ngoài nước
Sôi sục u trầm nỗi chiến tranh.
Quãng trời thênh Nhà thờ Đức Bà
Ngọn băng sơn hồng neo biển lửa
Hải lưu người về mơ đất hứa
Muôn trùng thiêng tắt ngọn phong
ba.
Sài Gòn thương biếc những hàng
me
Chim chuyền trong lá lá phiêu du
Thôi bay rớt đọng vàng hiên vắng
Tán xanh xòe thả bóng thiên
thu.
Trăm năm chàng đến như mộng du
Vào ra trận mạc máu đổi thơ.
Ru đời nôi phố tương tư phố
Đời khép
Hồn trầm
Cỏ đã thu...
* Passage Eden : hàng lang Eden (Quận 1). Cuối
hành lang là rạp chiếu phim Eden
** Jim/Jimmy : James Dean (1931-1955), sao điện ảnh Mỹ.
B.B : Brigitte Bardot (1934- ) sao điện ảnh Pháp
*** Xuân Thu (Albert Portail), tên một nhà
sách ngoại văn ở Sài Gòn
Nguyễn thùy song thanh
2012
Vào ra trận mạc, máu đổi thơ
Thơ sầu trao khi chưa biết sầu.
Tuyệt!
Khen hoài được hoài!
Hà, hà!
Tks
NQT
"cẩu âu"?
Chắc là "cầu âu", như, "đọc cầu âu"?
Note: Thấy đã sửa, cầu âu.
Câu thơ "Có cô thiếu nữ qua Givral" thì
lại làm nhớ, lần đưa "cô bạn" và mấy đứa em của
cô vô đây.....
TAX, thì cũng đầm đìa kỷ niệm....
Tks. Many Tks. NQT
NTST Poems
"And miles to go before I sleep/ And miles to go
before I sleep.
"And miles to go before I
sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the
same words have two different meanings. In the first of the last
two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And
in the last line, sleep stands for death.
And that, I think, is the chief achievement of
Frost. He could write poems that seem simple, but every time
you read them you are delving deeper and finding many winding paths
and many different senses. So Frost has given us a new idea of metaphor.
He gives us metaphor in such a way that we take it as a simple, straightforward
statement. And then you find that it is a metaphor. "And miles to go
before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the
same words have two different meanings. In the first of the last two verses,
the words stand for miles and going and sleeping. And in the last line,
sleep stands for death.
Borges:
Và đó là thành tựu
“lớn nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông
có thể viết những bài thơ xem ra thì thật giản
dị, nhưng mỗi lần chúng ta đọc, là mọi lần chúng
ta đào bới sâu thêm, và tìm ra
không biết bao nhiêu là lối đi, và nghĩa nghiếc
khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới cho chúng
ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông cho chúng ta
ẩn dụ, theo cái cách mà chúng ta coi
nó như là 1 phát biểu tự nhiên, giản dị,
thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn ngộ ra, đây là
1 ẩn dụ:
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!
Ông [Borges] đồng ý với… Gấu,
ẩn dụ không đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ,
nhưng thực sự, là đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè
“Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn
sang nhà hàng xóm, thấy cái áo
cánh trắng phất phơ bay trong gió, ngạc nhiên
tự hỏi, áo ai nhỉ, và nhớ ra là Loan, đi học
Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là
bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "siêu hình mà
nói", Dũng khám phá ra tình yêu
của mình!
Đoạn
văn dưới đây là phần chính bài
nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
trong Đêm Thơ Vũ Hoàng Chương ngày
16-1-1975 tại phòng trà Khánh Ly, đường
Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền
Sự hiện diện
của các bạn cùng chúng tôi hôm nay là
một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng những
cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm thơ - không
biết, không thể làm gì khác - mà còn
cho tất cả mọi thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc
tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao
tôn vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng
ta? Sướng ích chi mà có những người
để một đời như Vũ Hoàng Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không
biết - thật chăng? Có lẽ cũng chỉ là một
cách nói riêng của thi sĩ. Riêng
chúng ta có biết, chúng ta biết tận trong
thâm tâm chúng ta, biết qua động cơ thúc
đẩy cuộc hội họp tối nay được chính chúng ta dấu
diếm bằng những lý lẽ rất tầm thường hằng ngày.
Chúng ta biết rằng chúng ta muốn gặp mặt nhau, nhìn
mặt nhau đêm nay: “Lũ chúng ta lạc loài năm
bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.”
Chúng ta biết rằng khi mọi giá trị thiêng liêng
đều chẳng còn đáng gì, đều bị liệng bỏ
dần dọc theo đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải
thế chăng? Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các
giá trị thiêng liêng. Không là
giá trị thiêng liêng - có bao giờ thơ
như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong đời sống
chúng ta - như lúc này, giây phút
này đây - và nó đủ năng lực để cuốn đời
sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng
chúng ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và
sống với người.
Chúng ta còn
có thể nói đến những điều ghê gớm
hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại còn có thể
vượt ra ngoài mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên
nói cho đến cùng (biết đâu là
cùng?) Thơ vẫn chỉ là lẽ thường của đời người,
là sự thường của kiếp sống - ngắn ngủi và vô
hạn như một tiếng hát.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá
lở, này sông cát bồi.
Và
lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là
Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người
rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số
người nào đó, một bộ lạc nào nhất định.
Nói như Đinh Hùng Thơ là “tiếng ca bộ lạc.”
Đêm nay chúng ta quây quần nơi đây
nào khác, như giữa đám rừng dầy hung bạo
có ngọn lửa kia đốt lên và tiếng trống kêu
gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng thẳm của Thơ mời chúng
ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng
gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi,
giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho
Thơ cũng là tôn vinh qua các thi
sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm thơ, không
biết và cũng không thể làm gì
khác. Giữa chúng ta có một vài người,
như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm
thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi
ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào
cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý
ấy là chính chúng ta, cõi phi
lý ấy chính là đời chúng ta. Như
đêm nay không giống mọi đêm đã qua
và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia.
Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm
thơ như tận tụy với một mối duyên tình hay làm
thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không
thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi
chi, biết không làm được mà lại cứ làm.
Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không?
Tự nhiên cái sự thể nó như thế.
Trầm trọng cũng là tự nhiên của thơ và
của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của
chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm
thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng
Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng
trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói
êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán”
đến Isabel Baes đến nhị thập bát tú và
không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn.
Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương
còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta
đây chúng ta trong giây phút này
có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng hiện
thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ
Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái
chết. Chết cũng là một cách nói thôi.
Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao.
Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm
bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có
vô vàn đời? Ai biết? Mà nói chi những
điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết.
Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi
những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời.
Đã đến lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc
trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
16-1-1975
(Văn, giai phẩm, 14-2-75)
AT 1:50 PM
Nguồn
Điều Borges phán, về ẩn dụ, cũng chính
là điều TTT phán, về… thơ, khi ông vinh danh
Vũ Hoàng Chương trước khi mất "nước Xề Gòn":
“Thơ là lời hơn lời”
Cái đấng thi sĩ dởm Nguyễn Đăng Thường,
“khiêm tốn” nhận thơ của hắn ta là thơ đời thường,
ngôn ngữ đời thường, suốt đời không làm nổi,
chỉ 1 câu thơ, đọc không nổi bài thơ Dạ Khúc,
của TTT, làm sao “ngộ” ra được chân lý giản dị
trên, thơ là lời hơn lời. Vẫn là lời – ngôn
ngữ đời thường như hắn nói – nhưng cũng chính ngôn
ngữ đó, hơn lên 1 tí, là thành thơ:
In the first of the last two verses, the words
stand for miles and going and sleeping. And in the last line,
sleep stands for death.
Câu thơ trước, cầm tay xin địa chỉ
Câu thơ sau, thì đã là
ngàn thu sau!
http://www.tanvien.net/Viet/HNB_Case.html
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng
làm thơ thì phải có "một chút
Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa ơi!
Rõ ràng là, bài Dạ
Khúc của TTT, không đọc được, thì làm
sao đọc... Beckett?
HNB Case
“The tears of the world are a
constant quantity. For each one who begins to weep somewhere
else another stops. The same is true of the laugh.”
― Samuel Beckett, Waiting for
Godot
Trong những điều được nói
về Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô
điểm. Duy có điều này: Nó thực sự là
một địa ngục.
-Nước mắt cũng có hạn.
Nơi này đổ ra nhiều thì nơi khác dè
xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm
dụng cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc
động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc
giả cũng như của chính mình.
NQT: Bụi
Cái truyện ngắn Bụi,
của GCC, được viết ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan.
Đúng thời gian đó, Gấu vớ được "Trong khi chờ
Godot", bản tiếng Anh.
Câu, “Nước mắt cũng có
hạn… “, hóa ra chôm của Beckett, lúc
nào không biết, nó ăn mẹ vô tiềm
thức, rồi phọt ra.
Cũng thế với Beckett, hà,
hà!
Một cách nào đó,
ông viết, ở 1 Trại Cấm nào đó, những
câu văn thần sầu của ông. Thua,
thua nữa, thua cho bảnh, là từ Worstward Ho:
“All of old. Nothing else
ever. Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail
again. Fail better.”
― Samuel Beckett, Worstward
Ho
Trong cuốn tiểu
sử của ông, Trầm Luân vào Danh Vọng,
“Damned to Fame”, chương dành cho Thua Cho Bảnh, "Fail
Better", chứng minh điều GCC phán, Beckett viết văn từ
1 trại tị nạn. Đúng hơn, từ cái bóng của Lò
Thiêu, đúng hơn nữa, ông viết cho nạn nhân
Lò Thiêu.
Một số từ ngữ mà ông
sử dụng trong "Tiến Lên Tàn Mạt, Già
Hồ", là để mô tả tình trạng thiếu ăn của
nạn nhân Lò Thiêu
Nếu Nazi có giải pháp
chót, thì Beckett có “grand finale”,
chữ của Beckett. Kịch “Catastrophe”, thảm họa, viết bằng
tiếng Pháp – bà vợ của ông, Suzanne, dùng
từ này, khi biết tin ông được Nobel văn chương
- được Beckett đề tặng Vaclav Havel. Sau khi ra tù, Havel
chơi 1 cái kịch đáp lễ, Lỗi Lầm, “The Mistake”.
Hai kịch bổ túc cho nhau. Havel nói với một đấng Mẽo,
một cách khiêm tốn, tôi không có
ý đứng ngang hàng với ông ta, như là hai
nhà soạn kịch - đừng bắt hai ông đứng kế nhau nhe, Thầy
Phúc - "I am not suggesting that I am equal as a playwright to
Samuel Beckett".
Beckett phải mất 7 tháng
chỉ để viết bản nháp đầu tiên, the first
draft, của Worstward Ho, [Hồ, Hồ, Tiến
Lên Tàn Mạt. “Hồ, Hồ”, là từ tiếng reo hò,
thời cả thế giới ủng hộ Bắc Kít]. Vào thời gian,
trong mùa đông 1981-82, ông suy sụp, bịnh,
Ông viết cho bạn, "Chiến đấu với văn xuôi bất khả.
Tiếng Anh. Với tởm lợm”:
BACK IN PARIS for the summer,
after meeting his German publisher, Dr. Siegfried Unseld,
for coffee in the PLM hotel on Sunday morning, August 9, 1981,84
Beckett returned to his desk to write three brief paragraphs of
a new piece of prose in English. After starting with his 1960s concern
with imagining "a body" and "a place" where there was neither,
he wrote: "All before. Nothing else ever. lwer tried. Ever failed.
No matter. Try again. Fail again. Fail better." The will to "fail
better" provided this text with its initial impetus. And, in order
to fail better, the strategy Beckett adopted was to strive for the worst.
He took his
cue from Edgar's speech in King Lear.
He copied out quotations from three different points in the speech
into his little commonplace book:"The lamentable change is from
the best, / The worst returns to laughter"; "Who is't can
say, I am at the worst"; and "The worst is not so long as one can
say, This is the worst." For some time, when he alluded to his new
text in letters, he entitled it "Better worse." Later on, he called
the book Worstward Ho, playing on the title of Webster and
Dekker's play Westward Hoe (1607) and Charles Kingsley's better
known novel Westward Ho! (1855). At one level, the text, like
III Seen III Said, is concerned with
the failure of language: when anything is said, it must
inevitably be missaid. So language is deliberately pared down, reduced
to a few lexical items assembled in a variety of combinations,
so that it reaches out toward an "unworsenable worse." It is part
of the strategy to be rid of Romantic accretions. So images evoking
human memories or literary allusions are excised. That at least is
how it first appears.
Bạn, đọc văn Mít Butor, cũng 1 thứ
“Romantic” mà Beckett vứt vô sọt rác (to
be rid of).
Vậy mà thất bại rực rỡ. Kiệt tác!
Chỉ nội mấy dòng GCC trích
dẫn, là đủ chửi bố mấy đấng bịp bợm!
Và, quả đúng, hai đấng này,
không đọc nổi Beckett!
Cái thất bại được thấy ra, chỉ ra,
từ Beckett, một phần, là do/của ngôn ngữ: Khi
cái gì được nói ra thì nó
bắt buộc phải là nói trật, trìa: When anything
is said, it must inevitable be missaid.
Thê thảm hơn thế nhiều, đây
là hiện tượng đói ăn, thiếu dinh dưỡng, chết
dần chết mòn, không phải chỉ của ngôn ngữ,
mà là của nạn nhân Lò Thiêu.
“Every word is like an unnecessary
stain on silence and nothingness.”
― Samuel Beckett
Mọi từ thì cũng như vết
trầy không cần thiết lên im lặng và
hư vô.
V/v Không đọc được.
GCC đã từng thú nhận, không
đọc được Dickinson, và không chỉ Dickinson, mà
còn nhiều nhà thơ khác, và trước đó,
không đọc được thơ.
Tuy nhiên, chưa bao giờ không đọc
được, mà chê 1 tác giả, như NDT và
bà Huệ, chủ diễn đàn Gió O. Bà này
chê thơ TTT, thua cả thơ Nguyễn Đăng Thường, và Nguyễn
Đăng Thường cũng nhân đó, bèn chê TTT
tơi bời hoa lá cành. Sa-đích. [Không phải
từ của GCC]. Thua cả thơ Đỗ Quí Toàn!
Ui chao đến thơ TTT mà còn không
đọc được, thì làm sao đọc được Beckett?
Lê Thị Huệ: So sánh hai bài thơ "Tiễn Một Nguời Vào
Dĩ Vãng Đậm Màu" với bài thơ "Phục
Sinh" của Thanh Tâm Tuyền. Là một khoảng cách
lớn lao. Bài Phục Sinh làm
dáng và rỗng, chỉ được cái phá cách,
self-esteem vào thời đó. Bài "Tiễn Một
Người Vào Dĩ Vãng Đậm Màu", già
dặn, trí tuệ cũng phá cách nhưng cái
phá cách của một lõi trí. Anh có
tự cảm thấy cái khoảng cách
chữ nghĩa giữa anh và nhà thơ lãnh tụ thơ
Tự Do thời 1960 ở Việt Nam.
Nguyễn Đăng Thường: Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận
là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi
là ngôn ngữ đời thường, có thể chưa được
đóng mộc. Khi nhại, hay cập nhựt Bài Ngợi Ca Tình
Yêu của Thanh Tâm Tuyền với tựa
đề mới Bài Ngợi Ca Chó Đá,
tôi nghĩ tới nội dung bài thơ của Thanh Tâm
Tuyền, và hiện tình đất nước ta hôm nay nhiều
hơn ngôn ngữ, dù nội dung và hình thức
như hình với bóng, không thể tách đôi.
Tác phẩm bị giễu nhại vẫn còn y nguyên, nhưng
đã có thêm những tác phẩm song đôi.
Tác phẩm bị, được giễu nhại nhiều nhứt, là bức tranh
La Joconda, cho ra đời vô số những tranh "nhại
họa" vô cùng thú vị. Salvador Dalí cũng nhại
tranh Andy Warhol với các tranh Marilyn Mao.
Các lãnh tụ độc tài vì bất an nên
rất sợ bị chế giễu. Cậu Ủn Bắc Hàn là một thí dụ.
http://www.gio-o.com/NguyenDangThuong/NguyenDangThuongPhongVan4.htm
Thơ của vị bằng hữu NTST có tới tam tuyệt,
cực kỳ cao ngạo, cực kỳ cao sang, và cũng cực kỳ tâm
sự, riêng tư - đúng như thế, GCC chưa từng khen ai
theo cái kiểu đãi bôi, hay, phán loạn cào
cào, không có chứng từ dẫn chứng, nhưng quả có
1 sự rắc rối, khó hiểu, ở đây.
Vị này, Nam Kít, và, dân
Nam, họ rất ưa xuề xòa.
Tâm sự, riêng tư, OK, nhưng cao ngạo,
cao sang, vô lý quá, hà, hà!
Đàn bà ba miền, theo GCC, cái
gọi là cao sang, thường là thuộc dân Huế.
Tinh tế, tế nhị, Bắc Kít.
Nam Kít, kể như chẳng có gì
hết.
Vậy mà bà này, ôm "tam
tuyệt" vào thơ của bà, quái dị thực!
Ngồi một lát cho ấm ghế
đá
Một lát thôi
lệ ấm bàn tay
Ui chao, chỉ cần hai câu thơ thôi,
là đã ôm hết cả cõi thơ, cả cõi
đàn bà, vô mình rồi!
NQT
Phục sinh
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo
đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu
tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi
giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội
lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh
tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi
tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật
TTT
Bài "Phục Sinh" làm dáng và
rỗng, chỉ được cái phá cách, self-esteem vào
thời đó.
LTH.
self-esteem? [tự sướng?].
Chắc cũng giống xeo phi?
Và chắc là do câu thơ “tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ"?
Nhớ, lần cả đám bạn ông em, Thất Hiền, xúm
nhau lại "tra tấn" ông anh vì bài thơ này,
vì cái từ "sao", trong "buổi chiều 'sao' vỡ vào
chuông giáo đường"....
"Ðâu phải mưa ô buy
vào thành phố"...
1954, vào Nam, thi sĩ Thanh
Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên
có những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những
dòng nhạc của một "Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội",
hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ
loáng thoáng, trong tập "Tôi không còn
cô độc", đã một thời làm ngơ ngẩn cả đám bạn bè
hồi cùng học trung học.
Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số là Phạm Năng Cẩn rất mê
câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến
Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là
mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra, và...
cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành
bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương trên những chiếc áo
Mùa Thu, Hà Nội!
Sủng coi bộ không hài
lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong
lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ
trả lời: ô buy là một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô
buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
Sau này tôi được biết,
người miền nam gọi trái phá là trái
ô buy. Họ gọi phạm nhe là người y tá, và
hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã từng
khổ sở vì không hiểu nghĩa của nó, sau cùng
truy ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier.
Nước Pháp, “hóa thân”
vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân”
vào từ ô buy, và được một nhà thơ miền
bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận
của “trái đại bác” Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ
một nhà thơ, biến thành cơn mưa bụi ở một miền đất khác,
trong cùng một quê nhà, sao mà may mắn hơn
cái từ chiên hẩm hiu thế!
Bởi vì không phải ngẫu
nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”:
ông vẫn bị những cơn mưa từ cái thành phố mà
ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên
mà ông bạn ngày xưa của tôi tán
ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
Patti Page
Patti Page, who has died aged
85, had a huge hit in the United States with How Much Is That Doggie
In The Window? and became the biggest-selling female star of the
1950s.
Patti Page, nữ danh ca số 1
của 1 thời, đã mất, thọ 85 tuổi
Ui chao, Em này đúng
là thần tượng của Anh Cu Gấu nhà quê Bắc Kít.
Và có thể - có thể gì nữa
- của nhà thơ TTT, vì nhà thơ hẳn là
cũng quá mê em, và Jazz.
O, Let me go, lover, Smoking my sad cigarette… Trong Tôi Không Còn Cô Độc,
TTT cũng có vài bài vinh danh Jazz, hình
như thế.
Trong Liên Đêm.
Thí dụ bài này, nền của nó
chẳng là tiếng kèn của Jazz ư:
Dạ khúc
Anh sợ những cột đèn
đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến
công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày
sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng
dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai (1)
Bài thơ này có
1 giai thoại thú lắm, do chính thi sĩ kể và
được 1 em ca sĩ xì ra. Bài thơ được phổ nhạc và
mấy em cứ hát sai đi [chắc là cố tình] "đưa em vào
quán trọ".
Nghe nói, thi sĩ bực
lắm.
Nếu là Gấu, thì không bực!
Bài thơ thần sầu,
Anh là thằng điên
khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày
sắp tới
Chiếc kèn hát
mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm
thơ thì phải có "một chút Paris, hay
nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa ơi!
Note: Tên này, bửn thực!
NQT
Hắn ta có thể chê thơ
TTT, hơn thế nữa, khi ông còn sống, nhóm Sáng
Tạo còn, vì hắn sống cùng thời với họ.
Bài viết của hắn, đúng là thứ “ai điếu” mà
Brodsky chửi, 1 thứ thuốc thử đạo hạnh của những tên còn
sống, khi viết về những người đã chết. Cũng thế, là những
gì mà tên Lang Băm viết về Gấu, khi núp váy
1 người đàn bà, viết cực kỳ nhơ bửn về TTT, về NXH. Bởi
thế mà GCC mới dám phán, lũ Mít viết văn làm
thơ, cả từ Bắc cho tới Nam, thiếu hẳn “cái gọi là” đạo
hạnh. Một tên thi sĩ như tên “TMBLCP”, thì chôm
thơ Joseph trên trang Tin Văn, rồi phán, đọc đâu đó
trên Thời Tập, trong khi hắn đã từng được TTT coi là
bạn, và đã từng được ông làm thơ tặng nữa, tếu
thế!
Đi tù VC, TTT mang theo Beckett.
Viết về Beckett, là để tặng cô con gái.
Lạ, cực lạ.
Và Gấu giải thích, cô con gái
của ông là hình ảnh của Hà Nội, thành
phố “nền” của tập thơ đầu tay của ông, "Tôi không
còn cô độc". Bài thơ “Dạ Khúc”, nền của
nó, là Jazz, với những hình ảnh Hà
Nội, "nửa đêm Hà Nội", mà tên sĩ chuyên nghề nhạo nhại thơ người, không
làm sao nhận ra, do đố kỵ.
Cái gì làm cho
TTT nhắc tới Beckett?
Theo Gấu, có 1 cái gì
đó liên hệ giữa ông và Beckett, nếu như
chúng ta chấp nhận cái nick mà Steiner ban cho
Beckett, trong 1 bài viết trên The New Yorker,
“Master of nuance and scruple” [Sư phụ của sắc thái và
ngần ngại”].
Không thể viết sau Trại Tù của TTT, tương
tự sự câm lặng của Beckett.
Beckett's reductio of language-Echo's Bones, the
title of his early book of verse, is a perfect designation-relates
to much that is distinctive of modern feeling. "It was the same, the
word is not too strong" exhibits the tense playfulness oflinguistic
philosophy. There are passages in Beckett nearly interchangeable with
the "language exercises" in Wittgenstein's Investigations; both stalk
the vapid in- flations and imprecisions of our common speech.
Act Without Words (1957) is to drama
what "Black on Black" is to painting, a display of final logic. Beckett's
silences, his wry assumption that a rose may indeed be a rose but that
only a fool would take so scandalous a proposition for granted or feel
confident of translating it into art, are akin to monochrome canvas,
Warhol statics, and silent music. But with a difference. There is in
Beckett a formidable inverse eloquence. Words, hoarded and threadbare
as they are, dance for him as they do for all Irish bards. Partly this
is a matter of repetition made musical; partly it springs from a cunning
delicacy of to and fro, a rhythm of exchange closely modelled on slapstick.
Beckett has links with Gertrude Stein and Kafka. But it is from the Marx
Brothers that Vladimir and Estragon or Hamm and Clov have learned most.
There are fugues of dialogue in Waiting for Godot-although "dialogue:'
with its implication of efficient contact, is painfully the wrong word-that
come nearest in current litera-
ture to pure rhetoric:
VLADIMIR: We have our reasons.
ESTRAGON: All the dead voices.
VLADIMIR: They make a noise like wings.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like sand:
ESTRAGON: Like leaves.
Silence
VLADIMIR: They all speak at once.
ESTRAGON: Each one to itself.
Silence
VLADIMIR: Rather they whisper.
ESTRAGON: They rustle.
VLADIMIR: they murmur.
ESTRAGON: They rustle.
Silence
VLADIMIR: What do they say?
ESTRAGON: They talk about their lives.
VLADIMIR: To have lived is not enough for them.
ESTRAGON: They have to talk about it.
VLADIMIR: To be dead is not enough for them.
ESTRAGON: It is not sufficient.
Silence
VLADIMIR: They make a noise like feathers.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like ashes.
ESTRAGON: Like leaves.
Long silence
STEINER: OF NUANCE AND SCRUPLE
Note: V/v cái từ, tiếng Tây,
Beckett, dịch qua
tiếng Anh, sau dịch trở lại tiếng Pháp, thì cái
từ tiếng Pháp, không còn sử dụng được nữa, bữa nay
kiếm ra rồi:
http://www.tanvien.net/Souvenir/Daily_Notes.html
Nói về đặt tít, thì,
nếu Sến cực độc, cực ngắn, gọn, thí dụ, sửa giùm
Gấu những cái tít như Dịch Là Cướp, Miếng Cơm Manh Chữ…
khi Gấu còn cắp rổ theo hầu Sến, và Chợ Cá còn,
thì Cô Tư, cực thần sầu trong cái gọi là “chiều
sâu tâm linh” của từ, thí dụ "Xác Bụi", "Cúi
Xuống Là Đất"...
Gấu Cái lần đầu đọc,
chỉ nội cái tít "Cúi Xuống Là Đất", là
đã lắc đầu bái phục.
Nhưng, 1 cách nào
đó, Gấu Cái bảnh hơn Cô Tư, ở cái phần “viết
như không viết”, như em Sad Seagull của Gấu nhận ra, hà,
hà!
Em phán, Miền Nam của
Thảo Trần bảnh hơn Miền Nam của Cô Tư, vì chưa nhiễm độc
Bắc Kít.
Cô Tư, do gia đình hình như cũng có
tí mắc mớ với Cách Mạng, nên khác Thảo Trần,
có chồng là nhà văn Ngụy, đi tù VC nhiều
lần!
Thua xa… Beckett.
Với ông này cái
tít đúng là tử công phu. Gấu mới lôi
cuốn về Beckett, trên, mua từ đời nào, ra đọc.
Hóa ra thì là Cioran cũng đã từng
gọi Beckett là 1 vì phong nhã.
Trong bài viết ngắn của
ông về bạn mình, Cioran viết về từ Lessness,
của Beckett, dịch từ “Sans”, tên 1 tác phẩm tiếng Tẩy của
Beckett. Cioran bị hớp hồn, ”envouté”, bởi từ này, và
một bữa, un soir, ông biểu bạn, tôi không làm
sao tìm ra 1 từ tiếng Tẩy nào tương đương với nó
[tất nhiên, không phải từ “sans” mà nó được dịch
từ đó ra].
“Tôi không thể nào
ngủ được nếu không kiếm ra 1 từ ra hồn, honorable. Thế là cả
hai bù đầu kiếm, bằng cách kết hợp những từ chung quanh hai
từ sans, và moindre. Và khi từ giã,
cả hai đều thất vọng.
Trở về nhà, Cioran vẫn khổ với nó, cho đến lúc
ông bật ra ý nghĩ, hay là mò từ nguồn la
tinh, và ngày hôm sau, ông viết cho Beckett,
cái từ sinéité,
và tuyệt vời làm sao,
cũng đúng lúc đó, Beckett kiếm ra từ này.
Đúng là 1 giai thoại thần sầu. TV post sau đây,
để chứng minh, là không phịa ra.
Le texte francais Sans s'appelle en anglais Lessness, vocable
forgé par Beckett, comme il a forgé l'équivalent
allemand Losigkeit. Ce mot de Lessness (aussi insondable que l'Ungrund
de Boehme) m'ayant envouté , je dis un soir à
Beckett que je ne me coucherais pas avant d'en avoir trouvé en
francais un équivalent honorable ... Nous avions envisagé
ensemble toutes les formes possibles suggerées par sans et moindre. Aucune ne
nous avait paru approcher de l'inépuisable Lessness,
mélange de privation et d'infini, vacuité synonyme d'apothéose.
Nous nous séparames plutôt décus. Rentré à
la maison, je continuai à tourner et retourner dans mon esprit
ce pauvre sans. Au moment ou j'allais capituler,
l'idée me vint qu'il fallait chercher du côté du latin
sine. J'écrivis le lendemain à
Beckett que sineité me semblait le mot rêvé.
II me repondit qu'il y avait pensé lui aussi, peut-être au
même instant. Notre trouvaille cependant, il faut bien le reconnaitre,
n'en était pas une . Nous tombâmes d'accord qu'on devait abandonner
l'enquête, qu'il n'y avait pas de substantif francais capable d'exprimer
l'absence en soi, l'absence à l'état pur, et qu'il fallait
se résigner à la misère métaphysique d'une
préposition.
E.M. Cioran: Quelques rencontres.
Về cái từ “người phong
nhã”, "l’homme noble", thì Cioran viện tới hai đấng, Maitre
Eckhart và Nietzsche, cũng đã từng viết về từ này,
tức là về Beckett và với Gấu, thì thêm vô,
ông bạn Bạn!
Re: TTT.
TTT ngay từ khi mới xuất
hiện, là đã bị chửi tơi bời hoa lá cành rồi.
Đâu phải đợi đến khi ông nằm xuống, để được 1 tên
cũng cùng thời với ông, là NDT lôi thơ ra chê
đâu.
Nhưng thà là như thế.
Một khi 1 tác giả đã mất đi, viết về họ, là
cả 1 "tử công phu" theo Gấu. Phải có 1 cái nhìn
hết sức đứng đắn, và hơn thế, phải có những phát
hiện mới về tác giả mà mình đề cập tới.
Bạn NL đọc TTT, coi Liên Điêm là bi khúc,
tuyệt.
NQT
Hôm
trước đang nói dở câu chuyện về "bi ca" tức "élégie",
Rilke và nhà thơ Việt Nam nào thực sự viết "bi
ca", thì vướng tí chút lộn xộn :p nên giờ
mới nói tiếp được.
Bi ca là một vấn đề hết sức lớn của văn chương phương Tây.
Tôi từng dịch một bài (xem ở
đây), một người đã gọi ngay một người là "élégiaque",
tức là một cách vinh danh rất lớn; vì kinh ngạc
quá nên tôi đã dịch ngay bài ấy: hai
ông thầy của tôi, một trực tiếp, một gián tiếp, xưa
kia chẳng ưa gì nhau, thế mà về già lại đổ đốn đi
ca ngợi nhau :p
Thơ Việt Nam nếu có một thứ rất đặc biệt, thì là
"thơ thể hành".
Đặc điểm của thơ thể hành là rất dễ làm. Ai
cũng làm được, gần gần như lục bát. Tôi chỉ cần ngồi
năm phút là tạo ra được một bài nhìn qua rất
là giống "Tống biệt hành" (không hề nói phét).
Lời lẽ hoang vắng, đầy mélancholie và nostalgie, chữ nghĩa
khúc khuỷu, nhịp thơ uất hận vân vân. Nhưng đó
là nhìn vẻ ngoài. Thơ thể hành
dễ làm nhưng có một đòi hỏi cốt yếu, chệch một li
là hỏng: bài thơ phải thực sự nhất khí quán
hạ. "Thăm mả cũ bên đường" của Tản Đà chưa hề ăn thua,
mà tôi thấy đỉnh cao của thể này chính là
"Giời mưa ở Huế" của Nguyễn Bính.
Người ta rất ca ngợi bài "Ta về" của Tô Thùy
Yên, nhưng đó là một bài thơ hỏng.
Còn bi ca? Nhà thơ Việt Nam duy nhất viết bi ca là
Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong tập Mặt trời tìm
thấy, là một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh Tâm Tuyền còn
đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt vào tương lai, một
hiện tượng rất quái gở....
Cái sự kiện, khi TTT nằm xuống, được hải ngoại vinh danh,
là do thái độ đạo hạnh của ông, hơn là do
thơ, theo GCC.
Bài viết trên đây, nhớ là Tin Văn cũng
đã lèm bèm về nó rồi, nhưng không làm
sao kiếm ra được..... Thơ TTT, theo Gấu, đi đúng cái đường
mà Brodsky nhận xét, về 1 thi sĩ thứ thiệt, càng
già càng bảnh.
Nhất: Thơ tù. Rồi tới Liên Đêm, rồi tới
Tôi không còn cô độc.... Nhưng
Tôi không còn cô độc có
những nét cực kỳ ngây thơ, của TTT khi còn trẻ, ở Hà
Nội, cái gì gì, "nụ hôn đầu ôm mái
tóc lang thang", thí dụ.
Tks
NQT/Đài Sử
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên ngọc
trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/36.html
CELLO
Those who don't like it say it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.
Adam Zagajewski
Hồ Cầm
Kẻ không thích,
thì phán,
Ui dào chỉ là cái vĩ cầm chưa
thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra khỏi bản đồng
ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện thì
đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng thì
thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.
Robert Frost
Stopping By Woods on a Snowy
Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Tạm dịch:
Dừng ngựa bên rừng buổi
chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng
ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà
cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này,
chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng
mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái
Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có
cái tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated thing
than I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying,
"the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more
subtle way.
Think of Robert Frost. You of course remember the
lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the
poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And
miles to go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for "days," for "years,"
for a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death."
Perhaps I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the
pleasure lies not in our translating "miles" into "years" and "sleep"
into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This
craft of verse
Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên nói
thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc
rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó không
giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác
- thí dụ, "mặt trăng thì như là... " - Không,
nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của thi
sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập
lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến
thành "ngày", thành "năm", và dài
dài mãi ra, và "ngủ", có nghĩa là,
ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách
dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái
tít!
Những lời hứa phải giữ!
Bài tiểu luận lấy làm
tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí,
On Grief and Reason, của Brodsky, là
viết về [vinh danh] Robert Frost.
Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh
nhật lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà phê bình
sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent literary
critic at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu
có cẳng, goblet, phán, Robert Frost là nhà
thơ khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có
những tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng
là từ dành cho Frost:
Now, I want you to make the distinction
here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is always a “fait accompli”, whereas terror always
has to do with anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with
his sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's
forte, not the former. In other words, his posture is radically different
from the Continental tradition of the poet as tragic hero. And that difference
alone makes him- for want of a better term-America.
Ui chao, đọc 1 phát, Gấu
nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng
Đông Phương!
Between Two Worlds
Brodsky ventures, "American poetry
is essentially Virgilian, which is to say contemplative."
Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu
hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm
thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga,
có thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách
thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên khác,
và sự chứng thực, justification, còn bảnh hơn, even
greater, Auschwitz, bởi vì con số những người chết trong
trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với Lò Thiêu,
hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng,
retorted, Adorno: “Làm sao một người có thể ăn trưa
[sau Lò Thiêu]?”
Trong bất cứ trường hợp,
thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ
thơ đó [that poetry].
Thơ ca Mít, nhất là đám Miền
Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và
TTT trả lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có
gì xẩy ra?
Note: Phản ứng của Brodsky, trước câu
phán của Adorno, đúng, nhưng sai, do ông không
làm sao phân biệt được Cái Ác Nazi và
Cái Ác Châu, y chang trường hợp Auden, hay Hass,
không đọc được thơ Osip Mandelstam. Thuật ngữ thường được dùng
cho Lò Thiêu, "không thể nói được", "unspeakble",
đúng ra phải dùng cho Cái Ác Á
Châu.
Nhờ "nói được", qua những kẻ sống sót,
như Celan, Levi.... cho nên Âu Châu sống sót
Cái Ác Nazi, và có thuốc chủng, như Todorov
phán: Khử bằng hồi ức.
Cái Ác Á Châu, vô phương!
Chúng làm Ác, tạo Ác, và
dửng dưng như không:
Thánh Nhân Bất Nhân, Coi Thiên
Hạ Như Chó Rơm!
Bạn chỉ cho GCC thấy, 1 tên Bắc Kít, nhỏ
1 giọt nước mắt cá sấu , cho 1 tên Ngụy, đi tù
17 niên, như Thảo Trường, thí dụ?
Memory as a Remedy for Evil
Todorov mở ra cuốn sách
nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc
trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận
xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân
Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và
chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver
us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta
có... quỉ, và chỉ có Thượng
Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng
con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm
hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng
này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ thống nhất
nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn
trị!
Thế mới chết!
(1)
Todorov
Re: Pourtant,
il affirme qu'« on peut aimer passionnément la
littérature, sans pour autant croire qu'hors des livres
il n'y a point de salut ».
Today at 2:42 PM
“on peut aimer
passionnément la littérature, sans pour autant croire qu'hors
des livres il n'y a point de salut”
Bác Gúc dịch:
One can passionately love literature, without believing
that outside of books there is no salvation
Nôm na, mình yêu sách nhưng
đừng nghĩ chỉ có sách mới cứu!
Bac khoe khong?
I am OK. Tks
Osip
Mandelstam
8
It's true, I lie in the earth, moving
my lips,
But what I say will be learned in every school:
The round earth is rounder in Red Square,
And its slope asserts itself, willingly,
The round earth is rounder in Red Square,
And its slope is vast, unexpectedly
Sloping down-to fields of rice-
As long as one last slave is left alive.
May 1935
Osip Mandelstam: Voronezh Notebooks
Đúng như thế đấy, tớ nằm trong lòng
đất, mấp máy môi
Nhưng những gì tớ phán thì
sẽ được học trong mọi ngôi trường
Trái đất tròn, tròn hơn,
ở Công Trường Đỏ
Và đường cong của nó, khẳng định
chính nó, rất ư là hài lòng
Trái đất tròn, tròn hơn
ở Công Truờng Đỏ
Và đường cong của nó rộng rãi,
thênh thang, rất ư là không ngờ
Đường cong trải dài mãi ra, tới
đồng, tới ruộng
Trải dài mãi
Cho đến khi tên nô lệ cuối cùng,
còn lại.
INTRODUCTION
W. H. AUDEN once complained to Joseph Brodsky:
"I. don't see why Mandelstam is considered a great poet. The
translations that I've seen don't convince me at all"*-a comment
that indicates the conflict between Osip Mandelstam's reputation
as one of the greatest poets of the twentieth century and his equally
notorious impermeability to translation, if not to comprehension itself.
Why is Mandelstam so hard to get at? There is, of course, the density
of his language and imagery and the prominent role of rhyme and rhythm
in his work. He was one of the great “orchestrators" of language, one
of the great masters of sound and cadence, which has posed enormous-some
would say insuperable-obstacles to translation. Related is the tantalizing,
and perennial, question of the differences between Russian and English poetic
practice, a question whose scope and complexity is beyond my capacity to
deal with here. But underlying everything, I think, is the
* Joseph Brodsky, "The Child of Civilization,"
in Less Than One: Selected Essays (New York:
Farrar, Straus and Giroux, 1987), 142.
unique, the radical demand that Mandelstam places
on his readers. All of Mandelstam's poetry is excavated from
the midden of his experience. This is its fundamental, invariable,
characteristic, and essential principle. There was little of the
theoretician and nothing of the mystic in him; he was the most earthly
of men. One can see this clearly in the highly unusual way he treats
three common poetic images, both in the Voronezh Notebooks
and in his earlier poetry, images through which he expressed his horror
at being separated from life. Not just by death-though death was a real
threat when he was composing the Notebooks -by any-thing that prevented
him from immersing himself in physical, palpable existence. For Mandelstam,
the sky (nebo) most often suggested not some paradise or heaven
but sexless, inhuman, asphyxiating emptiness. The appearance of stars
in his poetry indicated, as his wife, Nadezhda, pointed out, not a movement
toward the eternal but the shrinking away from the essentially human and,
therefore, the coming to an end of the poetic impulse. And air ( vozduhk)-or
rather the lack of it, one of Mandelstam's greatest preoccupations in the
Notebooks-stood in not as an animating principle, not as some cipher for
the soul, but as an earthly element. It represented the most insistent of
the triad of life's physical necessities-food, water, breath-and by extension
the freedom to move in a physical world..
Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
It's the classic picture of
doom. Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade
old, their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian
fascism, the flower of their achievements destined to be crushed by the new
czar, Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - each will
die in his own tortured way. Mayakovski, rebuffed in love,
imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at the age
of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948,
cherished projects betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted
abroad and closely watched at home. Pasternak, long denied by
his government, will finally survive Stalin - yet, when his magnum
opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in 1958, he will
not be permitted to accept, his book burned, his name excoriated in
his homeland.
But there they stand in 1928, brave young
hearts, frozen in triumph, the last symbols of a civilization
about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky they
are, these three, able to experience lives of great crisis and choice.
Were they not gifted with an energy that brought them each full-bore
into what Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril
of their times"?
We shall all lose, it is inevitable. The issue
is how we lose, on what terms. These three men played out their
lives across the dark landscape of a cursed country, each sought
as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind tortured
them with the impossibility of reason.
I do not seek such death. I choose the milder
climes of the USA circa the late twentieth century - although
these times, less sinister certainly than Stalinist ones, may
be equally dangerous-for what is in danger, in the largest sense,
is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the sterile,
timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests
too can be boredom. Luxury, television and the accelerating sameness
of information can be far more ruthless than war or disease.
So I say-in death, rest. There is much time
later to sleep.
Until then party - party hard, suffer hard.
Live lives suffused with cycles of joy and sorrow. Participate
above all in the travails of your time, as artists your shoulders
equal to all working and struggling people, neither higher nor
lower but equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris
Pasternak - I salute you.
- Oliver Stone
The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật. Ở cái
xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo
Đảng, phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh, như bộ
ba trên đây.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris
Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các bạn.
Ở cái xứ Bắc Kít,
toàn Kít!
Một bức hình
cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà
thơ lớn chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách Mạng
thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ
nát bấy ra trên những hòn đá của phát
xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền nát
dưới gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski, Pasternak
- mỗi người một cái chết,
mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự tuyệt
trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát
vào năm 1930, ở tuổi đời 36. Trái tim bể của Eisenstein
ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị
phản bội, nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách
hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng chặt chẽ khi ở nhà.
Pasternak, đã
từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ,
sau cùng sống sót chế độ Stalin – tuy nhiên
khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ Zhivago được trao Nobel, ông không
được phép đi nhận giải, sách bị đốt, tên bị
trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng, như bức
hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang,
vào năm 1928, ba trái tim trẻ, can đảm, đông
lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của
1 nền văn minh trước khi khùng điên, ba trợn. Tuy
nhiên, riêng tôi, thì lại nhận ra 1 điều,
họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể
kinh nghiệm những cuộc khủng hoảng lớn, và chọn lựa lớn.
Làm sao
Ông đã làm sao...
Tố Hữu
Vào tháng 11 năm 1933,
Osip Mandelstam sáng tác bài thơ trứ
danh “Vịnh Stalin”, ‘người leo núi Cẩm Linh’, ‘kẻ sát
nhân tên làm thịt dân quê’. Tháng
Năm 1934, ông bị bắt vì tội 'phản cách mạng',
bị tra hỏi trong 2 tuần, nhưng lạ lùng làm sao, do
lệnh trên ban xuống, không bị làm thịt hay bỏ tù,
mà chỉ bị ‘cách ly nhưng đừng để chết’. Hai vợ chồng
trải qua 3 năm lưu vong ra khỏi những thành phố lớn; khi trở
về, sống giữa đám bạn bè lòng vòng ở Moscow.
Tháng Năm 1938, ông chồng bị bắt trở lại, kết án
5 năm tù, và lần này bị đầy đi Vladivostok, chỉ
kịp gửi một cái note, cho ông em/anh, gửi ‘quần áo
sạch’; ông không thoát được mùa đông
tại đó. Bà vợ sống dai hơn ông chồng 42 năm, nhẩn
nha nhớ lại thơ chồng. Chúng ta được biết những chi tiết hiếm
quí đó là qua hồi ký tuyệt vời của bà
vợ, “Hy vọng chống lại hy vọng”
Là một độc giả mê cuốn hồi ý
trên, Robert Litell gặp bà vợ nhà thơ vào
năm 1979, cuộc gặp gỡ ông kể lại ở cuối cuốn tiểu thuyết
của ông, một giả tưởng tái tạo dựng những sự kiện trong
4 năm, từ khi nhà thơ trước tác bài thơ vịnh
Xì Ta lin, cho tới cái chết của ông, cộng thêm
vào đó là những giọng nói của Osip, của
bạn bè của ông, của thời của họ, cộng giọng nói
giả tưởng hóa của tay trùm cận vệ Xì….
Tribute
to Hoàng Cầm
Có 2 cách đọc Nguyễn
Tuân?
Không chỉ NT, mà còn Hoàng
Cầm, thí dụ.
Nhưng với HC có tí khác.
Nói rõ hơn, VC, sĩ phu Bắc Hà
đúng hơn, đọc HC, khen thơ HC, là cũng để thông
cảm với cái hèn của tất cả.
Của chung chúng ta! (1)
1. Tình cờ ghé Blog
của me- xừ Đông B, ông ta gọi cái món
này là 'mặc cảm dòng chính'!
Hình như tụi Mẽo cũng có thứ
mặc cảm này, 'chỉ sợ mình Mẽo hơn tên hàng
xóm'.
Anh VC thì cũng rứa! Nào là
phục hồi nhân phẩm cho Ngụy, nào là em về
đâu hỡi em khi đời không chút nắng, đời gọi
em biết bao lần!
Khổ một nỗi, khi chúng mất nhân
phẩm thì không thể nào phục hồi được!
"Tớ phục vụ một cái nghĩa cả cà
chớn, và tớ nhận tiền từ nhân dân Bắc Kít
mà tớ lừa bịp họ với những bài thơ 'lá liếc'
nhảm nhí của tớ. Tớ là một tên bất lương. Nhưng
mà này, bản thân tớ thì là cái
thống chế gì ở đây? Tớ chỉ là một hạt cát
trong Cái Ác Bắc Kít… Đây là lỗi
lầm của cái thời mà có tớ sống ở trong đó”!
Hà, hà!
Hút
vậy hại sức khoẻ lắm.
Câu ấy ai cũng nói. Nhưng nó
theo cả đời rồi. Mình phải cầm đóm lấy mới ngon.
Để người châm hộ không ngon.
Thật ra sống đủ rồi, không muốn sống
đau ốm, thế nên cho trách giời một tí.
Khốn nạn thực. Từ hải ngoại tốn
công tốn của, chịu nhục, bò về, để châm đóm
cho nhà thơ, mà vưỡn bị chửi, xê ra cho người
ta hút thuốc lào.
Để mi châm hộ, hút, mất cả ngon!
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
You
invented me. No such person exists, that's for sure,
There's no such creature
anywhere in sight.
No poet can quench my
thirst, no physician has a cure,
The shadow of your ghost
haunts me day and night.
We met in an unbelievable
year,
The energies of the world
were worn through,
The world was in mourning,
everything sagged with
fear,
And only the graves were
new.
In the absence of light,
how black the Neva grew,
The deaf night surrounded
us like a wall . . .
That's exactly when I
called out to you!
What I was doing-I didn't
yet understand at all.
And, as if led by a star
you came to me,
As if walking on a carpet
the tragic autumn had grown,
Into that house ravaged
for the rest of eternity,
From whence a flock of
burned verses has flown.
1956
Mi phịa ra ta. Làm
gì có cô gái nào tên
là BHD, chắc chắn như thế,
Làm gì có
thứ bông hoa lạ như thế ở khắp mọi nơi, trong tầm
nhìn
Chẳng tên thi sĩ nào
có thể làm dịu cơn khát của ta,
không tên y sĩ nào có thứ thần
dược chữa trị,
Cái bóng của
con ma tình, là mi, tên GCC, làm
khổ ta ngày và đêm
Hai đứa ta gặp nhau đúng
trong cái năm không thể nào tin
tưởng được đó
Nhiệt tình trọn thế
gian đốt trọn cuốn lịch
Thế giới ư, tóc tang
tang tóc, mọi chuyện chùng xuống vì
sợ hãi
Chỉ những nấm mồ là
mới.
Thiếu vắng ánh sáng,
con sông Neva bèn càng đen thui
Đêm điếc đặc bao quanh
đôi ta như bức tường
Đúng là vào
lúc như thế ta gào tên mi, GCC!
Ta đang làm gì
đây - Ta chẳng thể nào hiểu
Và, như thể được
1 vì sao dẫn dắt,
Mi bèn đến với ta....
Selected and Translated
by Lyn Coffin
OSIP MANDELSTAM
I
July 28, 1957
AND LOZINSKY'S DEATH
SOMEHOW broke the thread of my reminiscences. I no
longer dare to recall things that he cannot corroborate (about
the Poets' Guild, Acmeism, the journal
The Hyperborean, and so forth). In recent
years we rarely saw each other because of his illness and I didn't
get a chance to have a real talk with him about some important
matters or to read him my poems from the 1930s ( Requiem).
Probably that accounts for the fact that he continued to think
of me to some degree as the same poet he had known long ago in
Tsarskoe Selo. This became clear when we were both reading the proofs
of my collection From Six Books in 1940.
* * *
Something similar
happened with Mandelstam, who of course knew all my
poems, but in a different way. He did not know how to reminisce
rather it was a different sort of process for him that I
don't have a name for now, but something doubtless akin to creativity.
(For example, Petersburg in The
Noise of Time seen through the bright eyes of a five-year-old
boy.) Mandelstam was one of the most brilliant conversationalists.
He didn't just listen to himself and answer himself, which is what almost
everyone does nowadays. In conversation he was polite, quick to react,
and always original. I never heard him repeat himself or "play the
same old record”. He learned foreign language with unusual ease
Poetry
and History: Polish Poetry after
the End of the World
In 1973, when I was twenty-three years old,
I decided to stop in Warsaw during a year I was
traveling in Europe. From that trip I remember one chilly
gray dusk in particular when I walked through the neighborhood
that had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling
home from work, but their activity only seemed to accentuate
the eerie and even ghostly absence of all those missing
persons, an annihilated people. One didn't need to travel to
Auschwitz to feel guilty absence and palpable vacancy. That night
I reread Czeslaw Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the
Ghetto," "A Song on the End of the World," and "Dedication." This
last poem was addressed to "You whom I could not save," and dated Warsaw,
1945. Its key stanza has thereafter set a standard of moral seriousness
in poetry:
What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will be
cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without knowing
it,
That I discovered, late, its salutary aim,
In this and only this I find salvation.
Milosz's early poems are all haunted by
survivor's guilt, the poignancy of living after
what was, for so many, the world's end. Poetry here becomes
an offering to the dead, a form of expiation, a
hope for redemption.
Reading the work of Zbigniew
Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa
Szymborska-the half-generation after Milosz-I
soon discovered that all of postwar Polish poetry was
similarly haunted by guilt, initiated in the apocalyptic
fires of history. These writers shared an important collective
experience, and the formative nature of that experience
helped shape the spirit of their work. Born in the
early 1920s, they grew up during one of the few periods
of independence in Polish history, but they came of age during
the terrible years of World War II. Poland lost six million
people during the war, nearly one-fifth of its population,
and the young writers felt the almost crushing burden of speaking
for those who did not survive the German occupation. "I am
twenty-four / led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote
in "The Survivor." It was no boast. No wonder, then, that at the
conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to free him:
They used to pour millet on graves or poppy
seeds
To feed the dead who would come disguised
as birds.
I put this book here for you, who once lived
So that you should visit us no more.
Edward Hirsch: How to Read
a Poem and Fall in Love with Poetry
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là
khi loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố
phường bận rộn, nhưng hình như càng
làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn của những
người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò
Thiêu làm khỉ gì, chỉ ở đây
thôi mà đã cảm thấy cái sự
trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi đi 1 đường
đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài thơ
đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống sót, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”,
cái tận cùng thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng tặng
cho người chết, một hình thức cứu chuộc.
Đọc
Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa
Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz – tôi liền khám
phá ra là, tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan
thì đúng là bị ám ảnh bởi tội lỗi,
bật ra từ những ngọn lửa tận thế của lịch sử....
Đầu năm thấy mấy
bài thơ dán trên Gio-O có vẻ
đẹp ra,người mần ra nó cũng thấy đường mương ống cống
trên mặt mình mờ lặn đi bớt.
Hổng biết nhà thơ họa Nguyễn
Man Nhiên có thấy tranh mình vậy không.
Cám ơn Việt Văn Đà Lạt,
chủ biên GIÓ-O.
Hiếm khi chủ nhân
trang TIN VĂN khen ai, xin đa tạ như một sự khích lệ
quý báu.
Chúc bác
Quoc Tru Nguyen an lành, hạnh phúc, viết càng
uyên bác nhân mừng năm mới.
http://www.gio-o.com/Chung2/NguyenThuySongThanhCamTayHon.htm
cầm tay hôn biết địa chỉ
Hôn tay xong ngàn thu
sau
Chẳng bao giờ còn thấy nhau
Linh hồn em anh đã giữ
Đem đi đâu đi đâu
Đi đâu
Note: Bạn có thể sử dụng những
gì mà Borges viết về Robert Frost, qua mấy
bài thơ Tin Văn vừa giới thiệu, Làm
quen với Đêm, Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ,
Kinh Cầu..... cho bài thơ của vị nữ thi sĩ, phu nhân
nhà thơ Khoa Hữu. Như cái tập sách Anh Văn vỡ
lòng mà Gấu vớ được ở Trại Tị Nạn, lấy câu
thơ của Frost làm nhan đề, Lời Hứa Để Giữ, Promises
To Keep: GCC cũng lấy cụm từ đó làm cái entry cho mẩu
viết này.
Mít chúng ta quả là
có những lời hứa phải giữ.
GCC, dịch bài thơ tiếng Anh đầu
tiên trong đời, của Frost, là cũng có
ý đó.
"And miles to go before I sleep/
And miles to go before I sleep.
"And miles to go before I sleep/
And miles to go before I sleep." There we see that the
same words have two different meanings. In the first of the last
two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And
in the last line, sleep stands for death.
And that, I think, is the chief achievement
of Frost. He could write poems that seem simple, but every
time you read them you are delving deeper and finding many winding
paths and many different senses. So Frost has given us a new idea
of metaphor. He gives us metaphor in such a way that we take it as
a simple, straightforward statement. And then you find that it is
a metaphor. "And miles to go before I sleep/ And miles to go before
I sleep." There we see that the same words have two different meanings.
In the first of the last two verses, the words stand for miles and
going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.
Và đó là thành
tựu “lớn nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost.
Ông có thể viết những bài thơ xem ra thì
thật giản dị, nhưng mỗi lần chúng ta đọc, là mọi
lần chúng ta đào bới sâu thêm, và tìm ra không
biết bao nhiêu là lối đi, và nghĩa
nghiếc khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem
tới cho chúng ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông
cho chúng ta ẩn dụ, theo cái cách mà
chúng ta coi nó như là 1 phát biểu
tự nhiên, giản dị, thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn
ngộ ra, đây là
1 ẩn dụ:
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu
sau!
Ông [Borges] đồng ý với…
Gấu, ẩn dụ không
đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự,
là đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi
trưa hè “Ôi nắng vàng sao mà
nhớ nhung", nhìn sang nhà hàng xóm,
thấy cái áo cánh trắng phất phơ bay
trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ,
và nhớ ra là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè,
về.
Khám pháp đó
chỉ là bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "siêu
hình mà nói", Dũng khám phá
ra tình yêu của mình!
ROBERT FROST
NEITHER
OUT FAR NOR IN DEEP
The people along the sand
All turn and look one
way
They turn their back on
the land.
They look at the sea all
day.
As long as it takes to
pass
A ship keeps raising its
hull;
The wetter ground like
glass
Reflects a standing gull.
The land may vary more;
But wherever the truth
may be-
The water comes ashore,
And the people look at
the sea.
They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever
a bar
To any watch they keep?
Không xa mà cũng chẳng
sâu
Đám
người dọc theo cát
Tất cả quay và
nhìn một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả
ngày.
Con tàu dâng
thân lên
Chừng nào nó
đi qua
Thân tầu, lóng
lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu
đứng sững.
Đất có thể tang
thương như thế nào
Một khi sự thực thì
như thế nào đó –
Nước vẫn tạt vô
bờ
Và mọi người nhìn
ra biển
Họ không thể nhìn
xa
Họ không thể nhìn
sâu
Nhưng liệu có 1
cái kè đá nào
Cho bất cứ 1 cái
nhìn mà họ giữ?
Phản chiếu một hải âu
đứng sững.
Tuyệt!
Tất nhiên, với riêng Gấu!
Đầu năm thấy mấy bài thơ dán trên Gio-O
có vẻ đẹp ra,người mần ra nó cũng thấy đường mương ống cống
trên mặt mình mờ lặn đi bớt.
Hổng biết nhà thơ họa Nguyễn Man Nhiên có thấy
tranh mình vậy không.
Cám ơn Việt Văn Đà Lạt, chủ biên GIÓ-O.
Valentine's Day 2017
ĐÊM LỄ TÌNH NHÂN
NGỒI NƠI GÓC SÂN TRƯỜNG
Không ai - không có ai
nơi nầy
Chỉ có vầng trăng trên ngọn
cây
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn
tay
Trời chưa nguôi trút ào
cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan
Hồng nhan một nét ,- trời một cõi
Nghiệm đời mình sao ngó gốc
cây
Giữa bao la gió còn ai gọi
Nhà ở đâu, -ta ở nơi nầy
Mái trường, cơn-mê-đời trú
ẩn,
Tình ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Thấy đời mình gan lì lặng lẽ
Bền bỉ xù xì đứng lớn lao
Lệ hạt tặng cây buồn gởi gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần
Những bước xuân xanh ngoài kia
phố
Có buộc sợi tình quanh ngón
chân .
nguyễn thùy song thanh
Note: Tình
ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Tuyệt!
Bất giác, nhớ thơ tù
của ông anh, TTT, làm tặng bạn:
Mừng sinh nhật bạn
Th.T.
Chốc đã thấy mình sáu
mươi bốn
Sống thế quả là có ghê
gớm
Cớ sao hồn mộng vẫn chưa khuây?
Phải chăng giấc tình còn lẩm
cẩm?
Một mai viễn khách ngó trời
Tây
Lúc ấy tha hương ngộ bóng
nhạn.
Tháng Chín gió thổi
như chim như mây
Rong ruổi theo hương lạnh tản mạn
84.
Bài thơ của vị bằng hữu, còn
nhiều câu quá đỗi thần sầu, Gấu lọc 1 câu,
liền với mạch thơ TTT.
Mấy câu sau đây, quả đúng
ý Borges, thơ là để trao cho thi sĩ.
Hồng nhan một nét ,-
trời một cõi
Nhà ở đâu, ta ở nơi
này
Quá bảnh! Quá
hách xì xằng!
Lệ hạt tặng cây buồn gởi
gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần
Có buộc sợi tình
quanh ngón chân .
Có sợi tình buộc quanh ngón
chân
theo GCC, cũng đặng!
Tks. Many Tks
NQT
Khi
Thomas Mann từ Đức đến California, người ta hỏi ông về văn
chương Đức, ông trả lời: "Văn chương Đức là
nơi tôi đang ở (German literature is where I am).
Nếu một người Đức dám chấp nhận điều này,
tôi cũng dám chấp nhận. Bây giờ tôi sửa
soạn để chết tại đây. Cũng chẳng quan trọng chi chuyện đó.
Vả chăng tôi cũng không biết chốn nào khá
hơn. Mà nếu có biết, tôi cũng chưa kịp sửa soạn
để đổi đời.
Brodsky: Tôi
hết còn tin vào nơi chốn ấy
Chỉ 1 câu thơ "hồng nhan 1 nét, trời
1 cõi", sợ còn bảnh hơn, cả Mann lẫn Brodsky!
German literature is where I am
Trời ở đâu, nhan
sắc của ta ở đó!
Vị này, làm sao mà không
đọc được, và làm sao mà không cảm được,
những dòng thơ của Anna Akhmatova?
Bà cũng đã từng
lặn lội trong bao nhiêu năm, thăm nuôi chồng, sĩ quan VNCH
bị lũ Bắc Kít đem đi đầy tận mãi Cực Bắc Bắc Việt?
Chỉ mấy dòng thơ, đầy cao ngạo, cao sang,
và rất ư là tâm sự, riêng tư:
Ngồi một lát cho
ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn
tay
Trời chưa nguôi
trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan
Câu cuối, quá tuyệt!
Ui chao, khen quá, sợ, lại bị chửi, mi ít
khen ai!
Nhưng hách nhất, phách
lối nhất, thì phải là câu phán của chính
Brodsky, về mình:
I was only too glad to be the handmaid
of genius, and to be taken for granted.
Tớ thật khoái tỉ khi được coi là tên
tà lọt của thiên tài, và được bảo đảm
như vậy.
GCC sợ
rằng, vị này cũng thừa sức để mà "khiêm tốn"
về thơ của mình, như... Brodsky!
Đây cũng là ý của Anna Akhmatova,
khi gặp nữ thần thi ca:
THE MUSE
When at night I await the beloved
guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?"
I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her
hand?"
But now she is here. Tossing aside
her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am."
1924
Nữ Thần Thi Ca
Ðêm, ta đợi vị khách
quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước
nàng, người cầm cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ, nàng ở đây.
Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò
hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa
Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi
nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”
Requiem
I never sought asylum among aliens
Never cowled myself in a crow's wings.
I stood as my people stood, alone-
In my marrowbones, their sorrow.
[Translated by Vladimir Azarov &
Barrry Callahan, in Strong Words]
REQUIEM
No, it wasn't under a foreign heaven,
It wasn't under the wing of a foreign power,-
I was there among my countrymen,
I was where my people, unfortunately, were.
1961
[Translated by Lyn Coffin]
Note: Những dòng thơ trên,
của Akhmatova, thì cũng có thể áp
dụng vô trường hợp NTST.
Kinh Cầu
Không, không phải dưới
thiên đàng ngoại
Không phải dưới cánh quyền lực
ngoại
Tôi ở giữa đồng bào tôi
Dân tộc tôi, bất hạnh
Ở.
Thơ Tháng Tư
Live at Club Revolution
Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll...
Thơ Tháng Tư
Live at Club Revolution
Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll
In a slow, absentminded striptease.
Her shoulders are already undraped,
And so is one of her sagging breasts.
The kisses she blows to us
Are as cold as prison walls.
Once we were a large wedding party.
It was a sunny weekend in June.
Women wore flowers on their straw hats
And white gloves over their hands.
Now we run dodging cars on the highway.
The groom, someone points out, looks like
President Lincoln on a death notice.
It's time to burn witches again,
The minister shouts to the congregation
Tossing the Bible to the ceiling.
Are those Corinna Brown's red panties
We see flying through the dark winter trees,
Or merely a lone crow taking home
His portion of the day's roadkill?
Charles Simic
Nhạc sống tại Câu Lạc Bộ Cách
Mạng Thành Hồ
Tương lai xứ Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống tắc nghẹn
Trong một xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ để trần
Cũng thế, là một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em ban cho chúng ta
Lạnh như tường nhà tù Phan Đăng Lưu
Một lần tụi này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi này đang chạy xe lắt léo
trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một tay nào chỉ ra,
Sao giống y chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.
Đã đến giờ lại thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn thấy bay trên nền trời tối thui
mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1 chú quạ
đem về nhà
phần chia những xác chết vì xe cán trong ngày?
Mother Tongue
That's the one the butcher
Wraps in a newspaper
And throws on the rusty scale
Before you take it home
Where a black cat will leap
Off the cold stove
Licking its whiskers
At the sound of her name
Charles Simic
Tôi êu tiếng nước tôi
Đó là thứ tiếng mà tay đồ tể
Gói trong tờ báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ Lăng,
Rồi thẩy lên cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen nhảy qua cái bếp lò
lạnh tanh
Liếm liếm mấy sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu Miu”
|
|