|
Orwell vs Murakami
Người Kinh Tế
đọc tác phẩm mới nhất của Haruki Murakimi:
Liệu ông ta
trở thành quá qui ước?
Tuyệt.
Chỉ cần 1 cú
đánh thôi.
Phê bình
& Điểm sách là như thế đấy!
GCC “lâu
lâu” được bạn văn khen, rất kiệm lời!
Ðánh cú nào
ra cú đó.
Với nhà thơ
NS, chỉ cần hai từ "dễ dãi và sung sướng".
Với bạn quí,
thì “đi tìm 1 cái mũ đã mất”
Hoặc “Thật Lạt”,
thay vì “Thất Lạc”!.
Thảo nào NS
gọi là tên sa đích văn nghệ!
[Lại tự thổi!
Why not?]
Tờ TLS Nov
18, 2011, đọc tác phẩm mới ra lò của Murakami, cũng chê thấu trời, dưới
cái
tít, Mộng mị Orwell, Orwellian
Reveries, Đếch phải thế giới này, Not of this
World, thứ rẻ tiền, [cheap].
Tờ báo nhắc lại lời Kenzaburo Oe, khi đọc
Murakami: Chỉ là những lèm bèm về văn hóa ăn nhậu đớp hít của Tokyo
[mere
reflections of the vast consumer culture of Tokyo], và những thứ văn
hóa chìm của
thế giới nói rộng ra [subcultures of the world at large] (1)
HARUKI
MURAKAMI filches from George Orwell’s “Nineteen Eighty-Four” for the
title of
his new novel, “1Q84”, making a play on kyu, the Japanese word for
nine, by
transposing the letter “Q” for the number “9”. Significantly, the
action also
takes place over the last nine months of 1984. But it would be a
mistake to
conclude from this that Japan’s magical postmodernist has spent nearly
1,000
pages writing about a dystopian world where couples make love in an ash
glade,
hardly daring to speak because of the all-listening microphones in the
trees.
Mr Murakami’s main influence here is not so much Orwell as Philip
Pullman; his
“1Q84” less a stairway to another world than a heave-ho into a whole
new
universe.
Chàng tưởng
chàng thuổng Orwell, nhưng thực ra, Philip Pullman; cuốn sách của chàng
không hẳn
là 1 cái thang đưa tới 1 thế giới khác [thế giới toàn trị mà Orwell
tiên đoán,
và sau trở thành hiện thực], nhưng một “heave-ho” [dimissal: từ chối]
vào trọn
1 vũ trụ mới.
Note: Bài
này, TV tính dịch, nhưng Phạm Vũ Lửa Hạ dịch rồi. Có tí khác, so với
bản in
trong sách. Bản trong sách đầy đủ hơn và kèm những ghi chú thật thú vị.
Có lẽ
phải đi 1 đường bổ túc, sau.
Để thay thế TV
giới thiệu bài Hitchens điểm cuốn tiểu sử Koestler, và, tất nhiên, nhắc
tới Đêm
Giữa Ngọ, và, tất nhiên, nhắc tới Trại Loài Vật.
Song kiếm hợp bích:
Chỉ cần
hai tác phẩm, đủ đả bại Đế Quốc Đỏ!
Koestler
by Steiner
Note: Đọc được
câu này, thật thú vị, trong bài viết B.B. của Steiner, về Bertolt
Brecht. [B.B]
Trả lời
Walter Benjamin, sau khi chạy thoát Nazi, và đi một đường thăm viếng
Moscow,
"Này kiếm được mảnh vườn dưỡng già ở đó chưa?", B.B. phán:
“Tớ là một
tên CS, nhưng đâu phải là một thằng ngu!"
[B.B. is
said to have replied when Walter Benjamin - himself soon to die a
hounded
fugitive - asked whether the great playwright would seek haven in
Moscow,
"I am a Communist, not an idiot"]
K. mở ra ‘cái gọi là’ Mặt
trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là Xịa. ST có là
nhờ
nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng
hạ!] Bộ sách vĩ đại Văn Học Miền Nam
của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên
chi địa khác! Rockefeller Foundation, thí dụ.
Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is:
one third genius, one third blackguard, and one third lunatic”
[Tôi
nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3 khủng, mát], tay cảnh
sát
chìm
giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù Pentonville, báo
cáo với sếp.
Cái may lớn
lao nhất trong đời Gấu, là đọc Đêm
Giữa Ngọ, đúng lúc thật cần nó.
Tuy nhiên,
những đấng cùng thời với Gấu, như Đào Hiếu, HPNT, thí dụ, làm sao mà
không đọc
nó, khi Phòng Thông Tin Huê Ký phát không cho tất cả?
Đọc loáng
thoáng bài của Hitchens, về K, vớ được câu
này:
Otto Katz có
lần nói với Koestler, “Chúng ta, tất cả thì đều có mặc cảm tự ti, nhớn
nhỏ này
nọ, nhưng của bạn, đếch phải tự ti, mà là 1 nhà thờ”. Koestler mê quá,
bèn bệ vô
tiểu sử của mình.
“We all have
inferiority complex of various sizes, but yours isn’t a complex – it’s
a cathedral”.
Đọc tập tiểu
luận của Hitchens, những bài viết về những tác giả nổi cộm như
Koestler,
Sebald… thì Gấu nhận ra, nội lực của ông là của 1 nhà báo, nhiều hơn là
của nhà
văn. Ông thua một Vargas Llosa, nếu nói về phía nhà văn, và thua một
Steiner, nếu nói
về phía triết học, và phiá… Lò Thiêu.
So với một tên Gấu Cà
Chớn, về đọc, thì cũng khác.
Gấu đọc nhiều hơn Hitchens, về phía Cái Ác của thế kỷ 20: Hitchens bỏ
qua rất
nhiều tác giả, đúng ra ông phải đọc, nếu là 1 tay viết như ông. Trong
phần Di sản
của chủ nghĩa toàn trị, bài viết "W.G. Sebald: Kinh Cầu,
Requiem, cho nước Đức”, nhận xét về Sebald, dưới đây,
theo Gấu, chưa đúng – không phải không đúng. Sebald đau Cái Ác
của thế
kỷ, qua vụ Lò Thiêu, và văn của ông không hề chỉ vì/về văn mà thôi:
W.G. Sebald,
mà cái chết yểu, premature, vào tháng Chạp 2001, thì vẫn còn được tưởng
niệm, mourned,
bởi tất cả những người yêu viết chỉ vì viết, by all who love writing
for its
own sake…
Sai. Chưa đúng. Chưa tới.
Steiner, mê làm nhà văn,
thành thử với riêng tác phẩm của ông, ông chỉ mê có mỗi 1 cuốn, viềt
về Hitler: The Portage to San
Cristobal of A.H
Người phỏng
vấn: Ông có lần nhắc tới "kiên nhẫn nắm bắt" (patience of
apprehension), và "hỏi tra phơi mở" (open-endedness of asking), theo
đó giả tưởng có thể nhập cuộc; nhưng ông lại mô tả những giả tưởng của
ông như
là "những ám dụ tranh luận, những dàn dựng tư tưởng". Liệu ông vẫn
coi chúng là "những dàn dựng tư tưởng"?
George
Steiner: Đúng là như vậy. Văn giả tưởng của tôi, nằm trong tổng mục
chung
chung, của những giáo sư, những nhà phê bình, học giả; những người
thích thử
thách chính bàn tay của họ, một hoặc hai lần trong đời, thể loại giả
tưởng. Những
truyện đầu cho thấy một gợi ý về câu hỏi trung tâm của tôi. Tôi cho
rằng The
Portage to San Cristobal of A.H còn hơn
thế nữa. Cuốn sách này có thể có một cuộc đời nào đó. Proofs là một dụ
ngôn
khác, một dụ ngôn trí thức; những diễn văn trong A.H., những phần đoạn
trong cuốn
tiểu thuyết, có lẽ thực sự làm người đọc xúc động, chúng cũng là những
tiểu luận.
Tôi biết điều đó. Chúng là những phát biểu, tuyên bố đề thuyết, niềm
tin, xác
tín, tra hỏi. Sự bí mật, theo đó, bằng cách nào, một nghệ sĩ sáng tạo -
chúng
ta chưa có câu trả lời - tạo ra được một tiếng nói, một nhân vật
ba-chiều, mười-chiều,
có được một cuộc sống độc lập, sự bí mật này thật ít dính dáng tới
những quyền
năng thuần lý trí, hay mang tính hệ thống, phân tích. Có những tiểu
thuyết gia
hết sức thông minh, Trời biết, và có thể Proust là một cái đầu mạnh mẽ
nhất của
thế kỷ, theo một số cung cách nào đó, nhưng rất nhiều người không theo
cung
cách như vậy. Họ chẳng thể nào cho biết chuyện hội ngộ - giữa họ và
ngôn ngữ -
tạo nên sự sống động, cái điều (đang) diễn ra trước mắt bạn, khiến bạn
quên cả
tên tác giả. Đó là thiên tài, đó là sáng tạo, và chắc chắn là tôi không
có nó.
Hai trang của Chekhov đem đến cho bạn cả một thế giới, và không thế nào
bạn
quên nổi những tiếng nói. Chúng đây này, chúng có đó. Đó là một điều
khác hẳn,
mà một người nào đó như tôi, có thể làm được.
-Như vậy,
vai trò tư tưởng trong giả tưởng chỉ là phụ thuộc?
-Đúng là một
câu hỏi hắc búa. Có những cuốn tiểu thuyết mà người ta gọi là lớn,
chúng sống
do nội dung mang tính ý thức hệ, mang tính trí thức. Khá nhiều tiểu
thuyết của
Thomas Mann là theo kiểu này. Cuốn Người Không Phẩm Chất (Man Without
Qualities) của Musil, được hằng hà những triết gia cũng như là những
nhà phê
bình văn học bàn về nó. Nhưng cái này hiếm. Đừng đòi một chuyện như
thế, ở nhà
tạo giả tưởng dị thường nhất của thời đại chúng ta - đừng cười tôi chứ,
bạn! -
người đó là Georges Simenon. Tôi có thể lấy trên giá sách của tôi,
chừng 10 hay
12 cuốn về Maigret, và nếu phải so với 5 hay 10 trang của Balzac, hay
20 trang
của Dickens (ông này nhẩn nha thuộc bậc thầy, Balzac cũng vậy): Simenon
chỉ cần
hai hoặc ba đoạn. Có một cuốn Maigret mở ra với một tiếng ồn lớn. Ba
giờ sáng tại
khu Pigalle, khu phố cổ đèn đỏ Paris, tay chủ quán rượu kéo tấm sắt
đóng cửa tiệm.
Rầm một tiếng. Dội ra từ đó, là tiếng xe giao sữa, tiếng chân kẻ ăn
sương trở về
nhà kiếm giấc ngủ, tiếng người đi vô Khu Cầu Muối (Les Halles) kiếm đồ
ăn sẵn,
cho một ngày đang ló dạng. Simenon không chỉ đem đến cho bạn một thành
phố,
không chỉ một điều không một sử gia nào có thể vượt được, về nước Pháp,
nhưng
còn điều này: rằng hai hoặc ba con người liên quan tới câu chuyện, đã
sẵn sàng
trước mắt bạn. Bằng một cách nào đó, Simenon cho bạn nhận ra rằng những
bước
chân của người đàn ông vừa đóng sập tấm cửa, rồi những tiếng chân rời
xa quán,
cách chúng lết đi gợi sự tò mò. Và thế là bạn nhập vô mấu chốt quan
trọng thứ
nhất của câu chuyện. Đó là cái gọi là mysterium tremendum (điều rất
thiêng) về
sáng tạo ra một nhân vật tự chủ. Nhưng vâng, đó có thể là ý thức hệ.
Tôi may được
quen Arthur Koestler, biết được cái điều: ai mà chẳng dám đánh đổi tất
cả, nếu
viết được một tác phẩm như là Bóng Đêm Giữa Ban Ngày: một trong những
hành động
tối thượng của tư tưởng. Đối với tôi, đây là một trường hợp biên cương
[giữa
văn học và ý hệ]. Nó sẽ vẫn còn được đọc, không chỉ vì Gletkin và
Rubashov là
những nhân vật giả tưởng, mà còn vì những tranh luận về chủ nghĩa
Stalin, chủ
nghĩa Marx, về sự tra tấn, và khủng bố: đâu là bản chất của sự dấn thân
tới chết,
với ý hệ? Đâu là bản chất của dối trá, nhằm bảo vệ chính nghĩa? Đúng là
một cuốn
sách giầu có. Koestler đưa vô, khá đủ độ đậm của cuộc sống, khiến nó
không
nghèo nàn như là một kịch bản về ý hệ.
-Ông vẫn còn
thích viết giả tưởng?
-Vâng, nhưng
tôi chưa vươn tới tầm, xứng với những đề tài làm tôi đứt ruột đứt gan.
Tôi cứ
trở đi trở lại hoài với khởi đầu một câu chuyện, hay là một cuốn tiểu
thuyết
nho nhỏ, về một đề tài như sau: chúng ta hoặc đang ở một hòn đảo Hy Lạp
thời kỳ
mấy ông tướng, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, hay Nam Mỹ: bất cứ một nơi nào trên
trái đất,
nhưng phải là một chế độ cảnh sát trị. Một người đàn ông trở về nhà với
vợ con,
và vào cái lúc họ đi vô giường ngủ, hay ở bàn ăn, bà vợ ngửi thấy mùi
tra tấn ở
ông chồng (anh ta đã tra tấn người suốt buổi). Anh ta chẳng bao giờ nói
về chuyện
đó, vậy mà các bà biết: họ biết họ đang chia giuờng sẻ gối với những
người đàn
ông đã làm gì với thân thể của những người đàn ông đàn bà khác. Cội
nguồn xa
xưa nhất của nó, là từ Lysistrata, của Aristophanes, về những người đàn
bà
không chịu ngủ với chồng, cho tới khi họ ngưng chém giết. Ở đây, không
chỉ là
chuyện họ không chịu ngủ với chồng, nhưng một căn bệnh khủng khiếp bắt
đầu xâm
nhập vô ngay chính hành động ái ân, và sau cùng những người đàn bà bắt
đầu làm
thịt mấy ông chồng. Lại còn chuyện những đứa trẻ nữa: làm sao chúng
sống, với sự
hiểu biết về điều người cha làm?
Nhưng chuyện
này phải do tay một bậc thầy, mà tôi thì không. Tôi cứ quanh quẩn hoài
với nó,
mà cứ thấy nó cay nghiệt, riết róng, cứng ngắc, và trừu tượng thế nào
ấy. Một bậc
thầy sẽ biết phải nói gì về bữa ăn tối, về tiếng động nhỏ nơi giường
ngủ, và
ông ta sẽ để chúng cứ thế diễn ra. Ông ta sẽ tóm được bạn.
Phỏng
Vấn Steiner
Về cái cảm
giác, bà vợ ngửi ngay ra mùi sát nhân, tra tấn ở nơi chồng, Gấu
đọc
Solz, và hình như không chỉ Solz, mà nhà thơ Hoàng Hưng, cũng đã từng
viết về hai
người đi đường, trái chiều, ánh mắt đụng nhau, là biết liền, đã từng ở
Gulag,
và thường là họ tránh nhau, hoặc có đấng đổi qua lề bên kia.
Hitchens
không tới
cái mức thính mũi như thế, theo Gấu!
Ông ta là bạn
(?) của Marin Amis, nhưng thua Amis xa.
Nhất là Amis
của Nhà Hội, House of Meetings!
Note:
Hitchens quả đúng là bạn của Amis:
Back in London, he became the wunderkind of the literary world there,
first
with a job on the Times Literary Supplement and then, aged
twenty-seven, as
literary editor of the left-wing and at that time highly influential
New
Statesman, where he met, among others, Christopher Hitchens,
who has remained a lifelong friend and political sparring partner.
John
Banville đọc Nhà Hội (1)
Executioner Songs
By John Banville
Christopher
Hitchens, 1949-2011
Note: Bạn thân của Martin
Amis.
Người đòi đưa Kissinger ra tòa vì tội ác chống lại nhân loại (2)
Gấu,
nhà văn
Nhà
Hội
Gấu đọc bài thơ của Hoàng
Hưng, cùng lúc đọc Nhà Hội, House of Meetings của Amis, cũng
viết về xứ
sở đó, và cùng lúc, nhớ những ngày Gấu đã ở đó.
Câu thơ "Vợ khóc một đêm" làm Gấu nhớ tới, một trong những câu mở ra Nhà
Hội.
Đây là chuyện tình tay
ba, giữa hai anh em cùng mẹ khác
cha, cùng yêu một
cô gái. Cô gái lấy người em, và người em đi tù, cô từ Moscow đi thăm
nuôi chồng,
ở mãi Biển Bắc, thuộc Bắc Cực, và được ngủ lại với chồng tại nhà hội.
Đêm đó là
đêm tân hôn của họ, tuy đã lấy nhau từ bao năm. Ông anh chồng cũng bị
tù tại
đó, và ông anh lo dọn giuờng, trang hoàng nhà hội cho đêm tân hôn của
hai vợ chồng!
Ông em bị bắt, chỉ vì ca ngợi Mẽo, America, trong khi, sự thực, Mẽo,
America,
là "code name" của Zoya, cô bạn gái người Do Thái mà hai anh em cùng
yêu. [Lý do Hoàng Hưng bị bắt không "thơ mộng" như ở đây. Xin xem ông
trả lời phỏng vấn trên RFA]
It's a love story. So of course I must begin with the House of Meetings.
Đây là một câu chuyện tình. Và như thế, lẽ tất nhiên, tôi phải bắt đầu
bằng Nhà
Hội.
*
... in his new novel, House of Meetings, the first since the widely
criticized
Yellow Dog (2003), Amis has subjected himself to a decided cooling-off.
House
of Meetings is short, the prose is controlled, the humor sparse, while
the
characters strike us as real, or at least possible, people. It is a
remarkable
achievement, a version of the great Russian novel done in miniature,
with
echoes throughout of its mighty predecessors. There is the Dostoevskyan
struggle between ill-matched brothers carried on against a vast and
unforgiving
Tolstoyan landscape; there is a star-crossed Zhivagoan love that
endures a
lifetime; there are immense journeys, epic sufferings, agonized
renunciations,
unbearable losses; there is even a revelatory letter, kept for twenty
years and
only read on the brink of death, as well as a homely sister, called
Kitty,
whose task it is to fill in this or that necessary detail of the
narrative.
The book tells the story of two half-brothers, both of whom are in love
with
the same woman, Zoya, and both of whom spend terrible years together in
one of
the labor camps of the Gulag. The unnamed narrator, a decorated hero of
the war
against Hitler, who defected to America in the 1980s and made his
fortune
through the invention of an item of prosthetic gadgetry, has returned
to Russia
to revisit the place in the far north of Siberia where he and his
brother, Lev,
were held as slave workers from the late 1940s until well into the
1950s, after
Stalin had died. Neither of them had committed any crime. The narrator
was
arrested, like many Russian veterans who fought in Germany,
on suspicion of having been exposed to fascist and Western influences
while
outside the USSR.
Lev was convicted for having been heard "praising America"
in his college cafeteria line (in fact, he had been praising "The
America's," his code name for Zoya)...
Trong cuốn tiểu thuyết mới, cuốn đầu tiên kể từ cuốn bị phạng tơi bời Chó
Vàng (2003), Amis tự ép mình vào một văn phong thư giãn, không nặng
nề như
những cuốn trước. Ông tự nhận ông là một thứ nhà văn gây sốc, a 'shock'
writer.
Thế nào là một nhà văn 'sốc'? Ngay trong thư mở ra Nhà Hội, ông
giải
thích: Vào thập niên 1930, có một người thợ mỏ tên Aleksei Stakhanov,
mà theo
như một số người, đã đào được hơn một trăm tấn than - chỉ tiêu là
7 tấn -
chỉ trong một ca. Từ đó có thuật ngữ, "sự thờ phụng những Stakhanov",
"the cult of the Stakhanovites", hay những "shock-workers."
Và cũng từ đó, ra thuật ngữ "shock-writers": Những nhà văn được lấy
ra khỏi đội lao động, và được huấn luyện, để viết như điên, những bài
văn tuyên
truyền, ngụy trang thành những cuốn tiểu thuyết. Ông viết, tôi là một
"shock" writer như thế, nhưng mà để nói ra sự thực.
Nhà Hội ngắn, giọng văn được kiềm chế, hài, hề
sơ sơ, trong khi những
nhân vật đập vào mắt độc giả, như người thực, hoặc cố như thực. Một
thành tựu
đáng kể: một ấn bản của thứ đại tiểu thuyết của Nga được thu nhỏ lại,
trong đó
vang vọng lên những bậc tiền nhân, là những đại tiểu thuyết gia Nga. Ở
trong
đó, có cuộc chiến đấu, đúng kiểu của Dos, giữa hai anh em chẳng có tí
tị gì hợp
nhau, cùng đâu lưng chống lại một phong cảnh rộng lớn bao la không thể
nào tha
thứ, đúng kiểu của Tolstoy, trong đó có một cuộc tình, đúng kiểu Bác
sĩ
Zhivago của Pasternak, thứ tình yêu sao quả tạ chiếu mệnh kéo dài
cả một đời
người...
John Banville: Bài
Ca Của Tên Đao Phủ
*
Những nhà văn được lấy ra khỏi đội lao động, để viết như điên... Ui
chao, thôi
đành vậy, đành phải bắt chước nhà văn nhớn Nobel văn chương, Gunter
Grass,
nghĩa là, đành phải thú tội trước bàn thờ:
Gấu này, trong hai năm lao động khổ sai tại nông trường Đỗ Hòa, được
lấy ra khỏi
đội lao động, là cũng để làm một shock-writer. Cứ gần đến ngày lễ lớn
của dân tộc,
là viết như điên, để ca ngợi Đảng và Nhà Nước VC.
*
Con tầu rền rĩ, khi tớ trở lại
vùng biển Bắc Cực, nơi có những trại
tù gulags. Đ.M. Tha lỗi, tớ văng tục. Đó là điều dơ dáy cuối cùng mà
một thằng
già 85 tuổi còn có thể làm được. Và bạn còn phải nghe nhiều, về những
điều còn
tục tằn hơn thế nữa.
Bạn biết, tớ là anh hùng trong
cuộc chiến Yêu Nước, tớ bị án tù 10
năm ở Norlag, sau đó chỉ ít lâu. Bạn không biết, tớ đã từng "làm thịt",
"đưa em vào Hạ", rất nhiều ghệ Đức, năm 1945. Hãnh diện?
Không. Xin tha thứ? Cũng không. Đó là một cách ở đời. Lính tráng mà. Ghệ
mà. Chúng tớ hiểu luật chơi.... Tớ không thể nào chịu nổi, có một em sờ
sờ ra
đó, mà lại không chịu làm ăn, không chịu chiếm đoạt. Không chịu tỉ tê,
hỏi coi
em đã từng đụng trận ra làm sao. Bao nhiêu trận rồi, bao nhiêu thằng đi
qua đời
em rồi.... ấy vậy mà, khi thằng em của tớ đến trại, tớ như đứng tim,
khi nghe
nó nói, Zoya bi giờ là vợ của em.
Bons
baisers de
Russie
Tờ Lire đọc Nhà Hội, của Martin Amis, bản tiếng Tây:
Những nụ hôn bồng bồng từ Liên Xô: Cái tít này, là
từ Ian Fleming. Thành
thử thật khó dịch từ "Bon", vì nó còn liên quan đến James Bond.
Tên tôi là Bond. James Bond.
Tên tôi là Gấu. Gấu Nhà Văn.
Trong tập tiểu
luận có hai bài về Graham Greene. Một, điểm bộ tiểu sử Greene, gồm ba
cuốn, của
Norman Sherry. Một, được sử dụng làm bài Giới
thiệu, Intro, cho cuốn Người của chúng ta ở Havana, Our
Man in Havana, của Greene.
Hitchens
hoàn toàn vô thần, còn Greene, dù thế nào, vẫn là nhà văn Ky Tô. Có thể
vì sự
khác biệt này mà Hitchens không đọc được Greene, mặc dù bài viết của
ông được dùng
làm bài giới thiệu 1 tác phẩm của Greene, như trên cho thấy. Một trong
những câu
bảnh nhất của Greene, là tôi phải kiếm ra 1 vì Chúa Trời, và cho ông ta
đấu với
Con Quỉ ở trong tôi, nói như thế là vẫn công nhận có Chúa!
Trong những
lời khen Hitchens, đa số đều coi ông là nhà viết tranh luận, một trong
những nhà viết
tranh luận lớn, one of the world’s great polemicists, như tờ Globe and Mail gọi
ông. Đúng. Nhưng có lẽ phải vô, nhà vô thần lớn nữa. Ông là tác giả của
cuốn
Chúa Thì Không Lớn, God Is Not
Great: How Religion Poisons Everything. Marx đã
từng phán như vậy rồi, tôn giáo là thuốc độc của quần chúng.
Quả là
"dưới trung bình", nói theo Thầy Cuốc!
Trong
những
bài viết, có một, thật là tuyệt vời, với riêng Gấu, là bài điểm cuốn Ngồi Nhà Của
Những Hồn Ma của Isabel Allende. Gấu cũng đã từng viết về cuốn
này, bài đăng trên
tờ Tuổi Trẻ ở Sài Gòn, thời gian Gấu đang tìm đường chuồn.
Orwell
On Animal
Farm
For all I know, by the
time this
book [Animal Farm] is
published my view of the Soviet regime may be the
generally-accepted one.
But what use
would that be in itself? To exchange one orthodoxy for another is not
necessarily an advance.
-George
Orwell, "The Freedom of the Press"
ANIMAL FARM,
as its author later wrote, "was the first book in which I tried, with
full
consciousness of what I was doing, to fuse political purpose and
artistic purpose
into one whole." And indeed, its pages contain a synthesis of many of
the
themes that we have come to think of as "Orwellian." Among these are
a hatred of tyranny, a love for animals and the English countryside,
and a deep
admiration for the satirical fables of Jonathan Swift. To this one
might add
Orwell's keen desire to see things from the viewpoint of childhood and
innocence: He had long wished for fatherhood and, fearing that he was
sterile,
had adopted a small boy not long before the death of his first wife.
The partly
ironic subtitle for the novel is A Fairy Story, and Orwell was
especially pleased
when he heard from friends such as Malcolm
Muggeridge and Sir Herbert Read that their own offspring had enjoyed
reading
the book.
Christopher Hitchens
[Bài viết được dùng làm
"Intro" cho ấn bản 2010 của cuốn Trại
Loài Vật]
Đọc khúc
trên, và cái tiểu tít,“truyện thần tiên” thì Gấu nhớ ra lý do tại sao
tên Đông
B nhắc tới “Sợ Lửa” của Doãn Quốc Sĩ.
Chắc chỉ có vậy.
Bởi là vì Gấu
nhớ là, “Sợ Lửa”, đọc từ hồi còn học trung học, là câu chuyện 1 anh
chàng sợ… lửa, đến chót đời, sắp ngỏm, mới
dám làm khán
giả của 1 dám cháy, về, bịnh, ngỏm, trong hạnh phúc.
Nếu đúng như
thế, thì nó giống cái truyện suốt đời ăn chay, thèm muỗng nước mắm
trước khi
lìa đời của Thụy Vũ.
Tính đọc chùa, nhưng gõ Google không ra “Sợ Lửa”.
Về Trại Loài
Vật
Vào thời gian cuốn sách
này [Trại Loài
Vật] được xb, cái nhìn của tôi về chế độ Xô Viết thì là chung
chung, như được
nhiều người chấp nhận. Nhưng, ích chi đâu, một cái nhìn, tự thân, như
thế? Đổi 1
cái cùm [orthodoxy: chính thống, dòng chính, lề phải… ],
lấy 1 cái cùm khác, thì đâu nhất thiết là 1
“tiến bộ”?
-George
Orwell, "The Freedom of the Press"
Trại Loài Vật, như tác giả của nó
sau
đó viết, “là cuốn sách thứ nhất trong đó tôi cố, với tất cả ý thức về
cái việc
mình đang làm, nấu chảy, hòa nhập mục đích chính trị và mục tiêu nghệ
sĩ thành trọn
1 cục”. Và quả thế, những trang sách của nó chứa 1 tổng đề của rất
nhiều đề tài
mà chúng ta có thể coi là “có tính Orwell”, trong số đó, là sự thù ghét
độc tài,
bạo chúa, tình yêu loài vật và đồng quê Anh, một ngưỡng mộ sâu xa dành
cho những
truyện ngụ ngôn châm biếm của Jonathan
Swift. Tới điểm này thì có thể coi Orwell
như 1 người
thèm nhìn sự vật bằng con mắt của 1 đứa con nít, và sự ngây thơ: Trong
đời riêng,
Orwell là 1 đấng đàn ông rất sợ cây súng thịt của mình, vô dụng, suốt
đời thèm làm
bố, và sau cùng, sợ vô sinh, bèn nhận 1 đứa con nít làm con nuôi, không
lâu, trước khi bà vợ đầu của ông mất.
Cái tiểu tít có tí tiếu lâm của cuốn tiểu
thuyết, Một Truyện Thần Tiên,
và Orwell rất lấy làm hài lòng, khi nghe được, qua mấy
đấng bạn quí của ông, rằng lũ hậu huệ của họ, rất mê đọc nó.
Orwell
Bài viết của
Hitchens cho biết trường hợp Orwell viết Trại Loài Vật, nguyên nhân ông
cho vô
danh sách đen, những bạn quí có mùi VC Hồng Mao… TV sẽ scan và giới
thiệu độc
giả, tóm tắt những gì quan trọng, và liên quan tới xứ Mít, nhân trong
nước xb nó,
dù nghe nói, đã bị tịch thu.
Danh sách
Orwell
Danh sách
Orwell, quả là có thực, được Orwell gửi cho một bộ phận của Bộ Ngoại
Giao vào
năm 1949, gồm những người mà Orwell nghi ngờ có cảm tình với CS. Trước
đây, chỉ
nghe đồn, và thường được nhắc tới với tí khôi hài. Vào
mùa thu 2002, Celia Kirwan, mất, và cô con
gái tìm thấy nó, và sau đó, đã được đăng một phần trên tờ The Guardian
vào
Tháng Năm. Timothy Garton Ash, được cô con gái bà Celia cho coi, bèn đi
một bài
thật chi tiết về nó, trên NYRB số 25 Tháng Chín, 2001.
Celia Kirwan
là ai? Một em đẹp ơi là đẹp, bạn rất quí của Orwell. Em là em vợ của
Koestler.
Ông đã từng ngỏ lời xin bàn tay người đẹp, và em là người thứ nhất nhận
bản
danh sách, vì là nhân viên IRD thuộc Bộ Ngoại Giao. Tán tỉnh không nên
thân,
Orwell bèn đi đường vòng, muốn giúp em tiến thân trong nghề làm nhân
viên mật vụ,
bèn trao cho em danh sách 38 tên gồm nghệ sĩ, nhà văn, ký giả, theo
ông, là những
tên “cryptocommunisstes”, [cryto: nằm vùng], những bạn đường của CS, có
cảm
tình với CS.
*
Thánh cũng
phải bị coi là có tội, cho đến khi được chứng tỏ vô tội. Orwell viết về
Gandhi,
chỉ vài tháng trước khi ông gửi “danh sách đỏ” cho Celia. Gậy ông đập
lưng ông,
luật của Orwell nay áp dụng cho chính ông, Thánh Saint George của
“chính văn
Ăng lê”. Tuy nhiên, ngay cả khi tất cả những chứng từ được trình ra, và
sử gia
TCDT mặt sắt đen xì được triệu tới, thì sự vô tội của Orwell vẫn chẳng
thể nào
chứng tỏ được.
Có lẽ Orwell
cũng không nghĩ là mình vô tội, và gật gù chấp nhận, đúng tớ có tội,
nếu cái tội
đó là, ‘tớ là một chiến sĩ của cuộc chiến tranh lạnh’.
Ông là dũng
sĩ diệt chiến tranh lạnh trước khi nó bắt đầu, giơ cao ngọn cờ đầu,
cảnh báo sự
nguy hiểm của chủ nghĩa toàn trị của Xô Viết trong Trại Loài Vật, trong
khi hầu
hết mọi người còn say men chiến thắng của Hồng Quân, người đồng minh
anh hùng của
chúng ta, trước Nazi ! Ông xuất hiện trên từ điển Ốc Phò của Anh, như
là tác giả
của từ “chiến tranh lạnh’. Ông đã chiến đấu, tay cầm súng chống lại chủ
nghĩa
phát xít tại Tây Bán Nhà, và bị một viên đạn xuyên qua cổ họng. Ông
chiến đấu
chống chủ nghĩa CS với cái máy chữ, và viết ào ào [chẳng thua gì thằng
cha Gấu!],
như có hẹn gấp, gặp Thần Chết!
*
Un écrivain
de la guerre froide
Nhà văn thời
kỳ chiến tranh lạnh
Thay vì
"lại đâm bực" với cái trò mật vụ của Orwell, chúng ta phải đặt mình
vào cái thế của ông, trong nội dung lịch sử của thời của ông, đúng như
Ash đã
làm. Bị kết án tử bởi bịnh lao phổi, ông mất, năm sau đó, 1950, “Danh
sách
Orwell” (1949), có thể được coi là một “Trầm Tư” của ông, giống như của
Hồ Hữu
Tường: Từ cuộc chiến Tây Ban Nha, Orwell biết rất rõ cái gọi là guồng
máy CS [bỗng
nhiên Gấu lại nhớ tới Nguyễn Đức Quỳnh và những buổi Đàm Trường Viễn
Kiến của
ông, những ngày liền sau 1954 tại Sài Gòn. Tờ Sáng Tạo, lúc đầu cũng có
ý định
này: báo động về một guồng máy thâm hiểm của VC], những điệp viên của
nó, cách
hành xử tàn nhẫn vô nhân đạo của nó, thông qua quyền lực, hay, một khi
nắm được
quyền lực. Chẳng thua gì Koestler, ông không hề có một tí ti ảo tưởng
về thực tế
Xì ta lin nít. Cuộc xâm lăng Đông Âu của các “đảng anh em" cũng làm ông
tỉnh
thêm ra.
*
Tình hình
Orwell viết "Danh sách đỏ" rất tương tự của Hồ Hữu Tường, khi viết Trầm
Tư: Trong lúc đếm từng giờ từng phút cái chết đang tới gần. HHT, án tử
hình của
Diệm. Orwell, bệnh lao phổi giai đoạn chót.
Một ông mơ Đức
Phật trở lại với dân Mít. Một ông lo Tây Phương thua Cuộc Chiến Lạnh.
So there is
the text. What is the context? In February 1949, George Orwell was
lying in a
sanatorium in the Cotswolds, very ill with the TB that would kill him
within a
year. That winter, he had worn himself out in a last effort to retype
the whole
manuscript of 1984, his bleak warning of what might happen if Britain
succumbed
to totalitarianism. He was lonely, despairing of his own wasted health,
at the
age of just forty-five, and deeply pessimistic about the advance of
Russian
communism, whose cruelty and treacherousness he had personally
experienced,
nearly at the cost of his own life in Barcelona during the Spanish
Civil War.
The communists had just taken over Czechoslovakia, in the Prague coup
of
February 1948, and they were now blockading West Berlin, trying to
strangle the
city into submission.
He thought
there was a war on, a "cold war," and he feared that the Western
nations were losing it. One reason we were losing, he thought, was that
public
opinion had been blinded to the true nature of Soviet communism. In
part, this
blinding was the product of understandable gratitude for the Soviet
Union's
immense role in defeating Nazism. However, it was also the work of a
poisonous
array of naive and sentimental admirers of the Soviet system, declared
Communist Party (CP) members, covert ("crypto-") communists, and paid
Soviet spies. It was these people, he suspected, who had made it so
difficult
for him to get his anti-Soviet fable Animal Farm published in the last
year of
the last war.
Từ đi thực tế
tới làm một nhà tiên tri
De
l’exprérience au prophétisme
Nicole Zand
17 Sept 1982
Nếu ông
không đi Catalogne, nếu ông không tận mắt chứng kiến những bạn bè của
ông bị thủ
tiêu theo lệnh của Moscow bởi những người CS Tây Ban Nha, chắc chắn ông
không
thể nào viết ra được hai tuyệt tác Trại
Loài Vật và 1984, cuốn
sau ông vừa hoàn
tất là buông cây viết, thở phào một phát, rồi đi. Ấy, quên chưa kể
tuyệt tác
“Hommage à la Catalogne” [Cuốn này dịch ra tiếng Việt có thể gọi là Giã
Biệt
Cách Mạng 30 Tháng Tư 1975, bởi vì quả là có một thời kỳ ngắn ngủi, cả
nước
không nói, nhưng chắc chắn cả Miền Nam say mèm giấc mơ “Tổ quốc ơi ta
yêu Người
mãi mãi, Từ trận thắng hôm nay ta xây lại bằng 10”, cho đến khi giấc mơ
biến
thành thực tại giống như ác mộng, “Tổ quốc ơi, ăn khoai mì chán quá, Từ
trận thắng
hôm nay ta ăn độn dài dài!”]. Hommage
là một ghi nhận tuyệt vời, một chứng từ,
về cuộc chiến Tây Ban Nha, ở đó, ông khám phá ra, một xã hội không giai
cấp ở
trong dạng tí ti, microcosme, của nó, cùng lúc ông nhận ra, ở những kẻ
chiến đấu
"một điều gì rất quái, insolite, rất thê lương, sinistre - một không
khí sợ
hãi, nghi kỵ, bất an, bất trắc, và thù hận”. Giống như một bầy chuột.
Con người
này, Orwell, không hề biết sợ hãi, bạn bè của ông xác nhận điều này,
nhưng suốt
đời bị ám ảnh bởi những con chuột.
Tay này, Gấu
mới đọc đây thôi, nhân chuyến đi Mẽo thăm bạn, vớ vội 1 cuốn của ông ở
quầy,
trong khi chờ lên máy bay, không ngờ đọc được quá. Trước, cứ đinh ninh,
"dưới
trung bình", như những thi sĩ Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, "dưới
trung bình",
so với đại thi sĩ, đại nhạc sĩ, đại biên khảo…. Nguyễn Tôn Hịt!
Mua, còn 1
phần vì hai bài trong đó, đọc loáng thoáng lúc ở tiệm sách.
Một, viết về Trại
Loài Vật, và một, Hội Chứng
Mít [thay vì đọc Bên Thắng
Nhục!]
Ui chao, về
nhà đọc, mới thú. Bài về Greene, "đúng y chang" của Gấu!
Hitchens lôi đúng cái bài viết của Greene mà Gấu đã từng xuýt xoa, trên
Tin Văn, liên quan đến “vấn nạn”, có mấy NQT.
Hà, hà!
Còn nhiều
bài
tuyệt lắm!
Regis
Debray, có thời mê Che qua làm quân sư quạt mo cho xừ lủy. Đã từng sáng
lập triết
lý bi đát, la philosophie tragique, thời kỳ Gấu mới lớn. PCT giới thiệu
triết lý
bi đát cho Mít đọc, Chu Tử bèn mượn luôn, vờ PCT!
Nhớ, bạn quí lắc đầu than,
ông CT này nhảm quá!
Hommage à la
France littéraire, đi 1 đường thổi Tẩy văn chương!
Trong có bài
Malraux khùng, La folie de Malraux,
đập thầy của ông anh nhà thơ của GCC. Debary dạo đầu:
Hai chục
năm
sau khi ngỏm, ngày 23 Tháng 11, 1996, tro cốt Malraux được đưa vô Viện
Chư
Thần: Cả nước Tẩy trang trọng chào Người, "hommage solennel de la
nation". Tờ
Nhân Loại, L’Hummanité cho phép tôi tham
dự 1 tí [participer brièvement].
Hai năm sau đó, 1 diễn đàn, colloque, được tổ
chức tại Paris, đề tài “Le Miroir des
Limbes của André Malraux và hiện đại tính
văn chương”, trong đó, có tôi và Jorge Semprun, được mời tham dự.
Dịp để suy tư
dài, réfléchir longuement, về số phận sau khi chết của 1 tác phẩm, ít
người biết
tới, của một khuôn mặt nổi tiếng.
Bài kèm sau đây
Chuyên đề về
George Orwell và Trại súc vật – Tố Hữu có đạo thơ của George Orwell? (1)
Anh
Cả, Đại Ca Bắc Kít, Big
Brother của Orwell, gốc Nga!
Mục Sổ Tay của tờ TLS, April
16, 2010 cho biết tin động trời trên.
Seeing the future
Một ấn
bản của cuốn Orwell, một đời thư tín, tới bàn giấy của
chúng tôi, và thế là chúng tôi mò index, vần T, coi ông có lèm bèm gì
về TLS
không, và vớ được một câu thật ly kỳ: “Tôi đã thỏa thuận là sẽ điểm
cuốn We cho TLS, khi bản tiếng Anh ra lò”,
Orwell viết cho tay học giả người Nga, Glub Struve.
Mừng quá, chúng tôi lục TLS
archives, tẽn tò!
We viết năm
1920, nhưng đến năm 1927 mới xuất hiện trên một tờ báo của di dân Nga.
Bản
tiếng Anh, có sớm hơn, nhưng xb ở Mẽo. Theo tay biên tập cuốn Orwell một đời lụm cụm viết thư cho bạn bè,
thì Orwell, đến năm 1944 vẫn chưa được sờ vô We, Chúng Tôi,
như trong thư ông viết cho Struve, nhân sách của ông được
giới thiệu ở Nga. “Tôi biết lơ tơ mơ về văn chương Nga”. Struve bèn
giới thiệu We của Zamyatin.
Sau đó, Orwell vớ được bản
dịch tiếng Tây, Nous Autres, mê quá, ghi chú tía lia.
Và Benefactor, Ân Nhân, Thiên Sứ,
Người Anh Ruột Bắc Kít, Abel...
của Zamyatin,
biến thành Big Brother của
Orwell, và biến thành Công An Tư
Tưởng của
Mít chúng
ta!
Nhân nhắc tới
Tố Hữu, bèn giới thiệu bài thơ “Cây Táo Nhà Ông Lành”, của thi sĩ Tẩy,
Bonnefoy
Cây Táo nhà ông
Lành
Đi qua nhà Ông
Lành,
Nhìn cây táo
Xuyên qua nó
Là đủ rồi
Bởi là vì tả
tơi, bụi bặm, một cái cây ở đường phố như thế
Là cả mặt trời
chân lý chiếu qua tim
[Là cả thiên
nhiên, cả bầu trời]
Chim chóc
nghỉ ngơi ở đó, gió lay động, rồi mặt trời
Cùng nói lên
hy vọng, mặc dù "đường ra trận mùa này đẹp lắm"
[mặc dù cái
chết]
Triết gia
Mi có khi nào
có cái may có cây táo nhà Ông Lành, như trên, ở con phố của mi?
Tư tưởng của
mi sẽ bớt cứng nhắc, mắt của mi sẽ tự do hơn
Bàn tay của
mi sẽ không ham muốn nhiều hơn,
bóng đêm
L'ARBRE DE LA RUE DESCARTES
Passant,
Regarde ce
grand arbre et à travers lui,
Il peut
suffire.
Car même
déchiré, souillé, l'arbre des rues,
C'est toute
la nature, tout le ciel,
L'oiseau
s'y pose, le vent y bouge, le soleil
Y dit le
mêrne espoir, malgré la mort.
Philosophe,
As-tu chance
d'avoir l'arbre dans ta rue,
Tes pensées
seront moins ardues, tes yeux plus libres,
Tes mains
plus desireuses de moins de nuit.
THE TREE ON
DESCARTES STREET
Passer-by,
Look at this
big tree. Look through it:
Maybe this
tree is enough.
A
street-tree, it's dirty and torn.
But still
it's all of nature, all of the sky:
Where the
wind blows, where birds alight,
Where the
sun tells of hope, always the same
In spite of
death.
Philosopher,
If you're
lucky enough to have this tree in your street,
Your
thoughts will come easier, your eyes will rove freer,
Your hands
will reach out for less night.
Yves Bonnefoy
Nếu ông không đi Catalogne, nếu
ông không tận mắt chứng kiến bạn bè của ông bị Moscou ra lệnh làm thịt,
bởi những người CS Tây Ban Nha, chắc chắn ông không thể nào viết ra
được hai tuyệt tác như Trại Loài Vật,
và 1984, mà ông hoàn tất
xong là đi liền, cùng với cuốn Hommage
à la Catalogne, một chứng liệu tuyệt vời về cuộc chiến Tây Ban
Nha, mà ở đó, ông khám phá cái thế giới bé tí, của một xã hội không
giai cấp, và cũng còn khám phá ra ở những kẻ chiến đấu, “một điều gì đó thật ghê rợn, kinh tởm –
cái không khí nghi kỵ, sợ hãi, bất an, thù hận che giấu”. Giống
như một lũ chuột.
Đó là không khí Hà Nội, những
năm chiến tranh, giữa đám nhà văn Bắc Kít, và bây giờ, được khui ra?
NQT
Một trong những cách đọc mới về
Orwell, trên tờ Le Magazine
Littéraire số Tháng Chạp 2009, là của một nữ triết gia Mẽo,
Martha Nussbaum, giáo sư đại học Chicago. Trong bài viết Một thế giới không có sự thương hại,
bà tra hỏi, qua 1984, và tác
giả của nó, Orwell, những thành phần cơ bản của tình cảm cảm thông, les
fondements du sentiment de compassion. Một tác giả khác, Éric Dior,
trong bài viết L’enragé de la
lucidité, coi vị trí của Orwell tương tự của Camus, mặc dù cả
hai đều thoát thai từ thời kỳ Ánh Sáng: Ông Tây thuộc địa Camus thì mê
mặt trời và đàn bà; ông Hồng Mao thích bia bọt âm ấm, không khí âm u ẩm
ướt của mấy tiệm bia rượu và làm vườn
Liêu Thái –
Cuộc thảo luận “lạ” về Trại Súc Vật trên bãi biển Đà Nẵng (1)
Hồi học cấp
II, bên cạnh những quyển sách như sách của Hứa Thuần Phỏng, tôi còn đọc
một số
sách khác, như Sợ lửa của
Doãn Quốc Sỹ. Giờ đây không biết cuốn Sợ
lửa lưu lạc
nơi đâu, tôi không tìm thấy nó. Tôi vừa đọc Sợ lửa, vừa đọc Những tên
biệt kích
của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hồi đấy
đọc thật
là tạp, nhưng không có Orwell để đọc. Mãi sau này khi đi du học tôi mới
biết
Orwell. Sợ lửa được xếp là chuyện cổ tích, giống như Trại súc vật là
ngụ ngôn.
Khi ở nước ngoài, biết tôi là người Bắc, có người hỏi tôi đã đọc Orwell
chưa? Tôi thấy thật tội
nghiệp cho người đặt câu hỏi đó. Khung cửa văn chương
của họ
chỉ gói gọn ở mỗi Orwell.
V/v Sợ
Lửa ra, tính sau [để đọc lại, cho chắc ăn, vì Gấu không nghĩ Sợ Lửa liên quan tới 'vấn nạn" VC,
hay rộng ra, toàn trị], Gấu sợ rằng, người đáng tội nghiệp ở đây, chính
là Đông A!
V/v Orwell, để
riêng Trại Loài Vật ra tính
sau, chỉ hai cuốn, 1984 của ông, và Bóng Đêm giữa Ban Ngày của Koestler
làm đổi hẳn diện
mạo thế giới. Không có hai cuốn đó, là Châu Âu đã bị nhuộm đỏ.
Gấu đọc trong cuốn Kẻ Lạ ở
Quảng Trường, Stranger on the Square, khi cuốn Bóng Đêm ra lò,
Sartre bắt đệ tử đi lùng, đốt sạch, nhưng trong số Magazine Littéraire,
Dec 2009, đặc biệt về Orwell, cho biết, việc đốt này do ĐCS
Pháp chủ trì.
Trên Tin Văn, có hai trang
dành cho, 1 Orwell, 1 Koestler.
Orwell
Le
Magazine Littéraire, Dec
2009
Nhớ bức hình Cha Lý!
Trại Loài Vật của
Orwell, Tôi
Chọn Tự Do của Victor Kravchenko, và Đêm giữa Ngọ của Koestler:
Ba nhà văn, ba cuốn sách, ba
cứu tinh của nhân loại!
Nhờ chúng mà Âu Châu nói Không với CS
Tuổi trẻ của Gấu được tạo
dáng [shape] nhờ hai trong ba cuốn đó!
Hai cuốn sau, hồi 1954 được
Phòng Thông Tin Huê Kỳ cho dịch, biếu
không độc giả Miền Nam!
Đêm giữa Ngọ, khi
xb tại
Pháp, được Sartre ra lệnh cho đệ tử đi từng tiệm sách thâu gom, đem đốt
bỏ, như
trong Kẻ Lạ ở Quảng Trường
cho biết
Koestler
Giả như có người nào hỏi
Đông A, đã đọc
Orwell chưa, thì người đó có lý đo để hỏi như vậy. Giả như có đọc
Orwell
thì chắc chắn phải có 1 cái nhìn khác về CS.
“Khung cửa văn chương”
dùng cho Orwell cũng hơi sái. Orwell là nhà văn chính trị. Chính
trị mới là
điều ông quan tâm:
“POLITICAL
WRITER ", un écrivain politique, c'est la formule
que Berrnard Crick s'efforce de préciser.
Chính là trong ý nghĩ đó, "nhà
văn chính
trị", mà Yann Martel, nhà văn Canada, gửi cho thủ tướng nước của ông
cuốn "Trại
Loài Vật", y chang cái tay hỏi Đông A đã đọc Orwell chưa:
Nhà văn
chính trị thì vẫn là nhà văn [Điều này thì cũng là văn
chương: Sự tiêm chủng
vắc xin!]
Trại Loài Vật là thí dụ tuyệt
hảo về những điều mà văn chương có thể đem đến cho chúng ta: một thứ
lịch sử
cầm tay. Một độc giả chẳng biết tí gì về thế kỷ thứ 20, Stalin là thằng
chó
nào, Trốt Kít quái vật hả, Cách Mạng Tháng 10 quái thai ư: Trại
Loài Vật sẽ
chuyên chở tới cho vị độc giả đó cái cốt yếu, cốt tủy về điều gì đã xẩy
tới cho
những người láng giềng ở bên kia Bắc Cực của chúng ta [dân Canada]: Cái
quái
thai, tởm lợm, bại hoại của một lý tưởng [giải phóng, thống nhất đất
nước, thí
dụ], sự hư ruỗng, thối nát của quyền lực, sự lạm dụng ngôn từ, sự băng
hoại của
cả một quốc gia – tất cả đều có ở trong đó, chỉ trong một tiếng nấc của
trên
trăm trang sách. Và khi đọc những trang này, độc giả trở nên minh mẫn
hơn, nhờ
uống 'lầm' thuốc độc chính trị! Điều này thì cũng là văn chương: Sự
tiêm chủng
vắc xin!
Ui chao, đúng là trường hợp đã
xẩy ra cho GNV: Giả sử những ngày
mới lớn không vớ được Đêm giữa Ngọ,
thì thể nào cũng nhẩy toán, lên rừng làm
VC, phò Hoàng Phủ Ngọc Tường, đúng như một tên đệ tử của Thầy Cuốc
'chúc' Gấu!
Đoạn trên thật là tuyệt cú mèo,
nhưng thua… Brodsky khi ông viết
về thơ, về Kinh Cầu: "Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ
mới
có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào một cái
gì mà
nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một
khi cái
đầu chịu thua không thể nắm bắt được. Theo nghĩa đó, cả thế giới nâng
niu bút
hiệu Anna Akhmatova."
Và bây giờ cái lý do rất cá
nhân tại sao tôi viết ‘mấy lời’ gửi
ông, kèm cuốn Trại Loài Vật:
người Do Thái Âu Châu, bị Nazi sát hại cũng cần có
lịch sử của họ, dạng cầm tay. Và đó là điều tôi cố gắng làm với cuốn
sách tới
của tôi.
Nhưng căng lắm đấy, tôi tự nhủ tôi, làm sao sàng lọc từ đống rác lịch
sử, [lịch
sử Mít cùng cuộc chiến đỉnh cao của nó] với bao nhiêu là máu, là lệ,
vào một
tiếng nấc, của vài trang [Tin Văn], làm sao biến sự ghê rợn, điều tởm
lợm, kinh
hoàng thành một điều gì nhẹ nhàng ư ảo, [trên không gian net], chẳng
ngon cơm
một tí nào đâu!
Le
Monde Littératures
Dossiers
& Documents
N°389
Septembre 2009
Orwell, ou l’invention du
vrai
S'il est un
écrivain politique, c'est bien George Orwell (1903-1950). Impérialisme
colonial, injustice sociale et aliénation du prolétariat, poussées de
fièvre
d'un totalitarisme occidental qu'il combat sur tous les fronts,
l'écrivain
britannique est un preux qui fait feu de tout genre, roman, reportage,
essai,
pour défendre la liberté humaine. Un art de la guerre contre ce « Big
Brother »
dont il a inventé le concept pour mieux le démasquer.
Né en 1903 au
Bengale, Orwell, de son vrai nom Eric Arthur Blair, est issu d'une
famille
bourgeoise traditionnelle. Il arrive en Angleterre à l'âge de 4 ans, et
fréquente l'aristocratique « public school » d'Eton. A la fin de ses
études, il
s'engage dans la police impériale des Indes, dans laquelle il sert
jusqu'en
1927. Lors d'une permission, en effet, il décide de ne pas rejoindre
son poste:
continuer à servir l'impérialisme lui est devenu insupportable.
Désormais résolu
à prendre le parti des opprimés contre les oppresseurs, il part à la
rencontre
des « damnés de la terre» de son époque, bien décidé à partager leurs
conditions de vie. A l'autommne de 1927, il s'installe dans un quartier
pauvre
de Londres, avant de partir pour Paris
au printemps de 1928. Il y passera deux ans, travaillant comme plongeur
et
serrveur, jusqu'à ce que sa santé fragile le contraigne à rentrer en
Angleterre.
Il travaille, écrit et enseigne de temps à autre pour gagner sa vie,
tout en approfondissant
son expérience de la pauvreté au contact des ouvriers, des cueilleurs
de
houblon ou des clochards.
Cette période de
calme temporaire va donner naissance à ses premiers romans et établir
sa réputation
d'écrivain et de journaliste. Dans la
dèche à Paris
et à Londres (La Vache enragée, dans une première traduction) est
publié en
1933 et relate dans le détail, et sur un ton percutant, les expériences
de sa
vie dans les deux villes. L'année suivante paraît à New York Une
histoire birmane, que son éditeur a refusé par crainte d'un
scandale.
Viennent ensuite
deux romans: en 1935, Une fille de
pasteur, et, en 1936, Et vive
l'aspidistra,
qui contiennent des aperçus déprimants de la misère des classes
laborieuses
dans les années 1930. Sa réputation d'écrivain progressiste est alors
suffisamment étaablie pour que le « Club du livre de gauche» lui
demande d'écrire
un rapport sur le chômage qui sévit dans le nord de l'Angleterre. Et
c'est Le
Quai de Wigan. Publié en 1937, ce livre critique sans ménagement
les conditions
de logement, la misère, la saleté, la déchéance des travailleurs; il
constitue
un tournant dans la mesure où il marque un engagement dans la vie de
l'écrivain.
En effet, si la première partie est fidèle à la tradition
journalistique et
descriptive où Orwell excellle, la deuxième est une réflexion sur le
socialisme
et la notion de classe. Pour se situer dans la société et pour se
définir
politiquement, Orwell a besoin de partir des faits, qu'il s'efforce de
rapporter de façon aussi objective que possible.
De l'engagement à l'écriture
La guerre civile
éclate en Espagne, et c'est une étape capitale qui s'ouvre dans la vie
d'Orwell. Il part en Catalogne, s'engage dans le POUM (Parti ouvrier
d'unification marxiste), se bat aux côtés des anarchistes socialistes
plutôt
qu'aux côtés des communistes orthodoxes des Brigades internationales.
Ayant
réussi à gagner la France,
il rentre en Angleterre. Il rompt définitivement avec le marxisme
orthodoxe et
s'inscrit au Parti travailliste indépendant.
Horrifié par ce
qu'il a vu d'injustices et de souffrances, désillusionné par son
expérience qui
s'est révélée elle aussi inefficace, il se met à écrire Hommage à
la
Catalogne. Paru en 1938, ce livre s'adresse avant tout à
l'intelligentsia,
et se propose de servir d'antidote aux mensonges de la presse
britannique de
l'époque. Hommage à la Catalogne est un livre engagé, mais
Orwell, par
souci d'honnêteté intellectuelle, met à plusieurs reprises ses lecteurs
en
garde contre son propre parti pris.
De 1939 à 1943, Orwell, pour des raisons de santé, ne peut ni faire la
guerre
ni se déplacer comme auparavant. Après la publication de son quatrième
roman, Un
peu d'air frais (d'abord paru en français sous le titre Journal
d'un
Anglais moyen), il écrit quelques-uns de ses essais les plus
connus, tels Inside
the Whale, Boys' Weeklies, The Lion and the Unicorn, Socialism and the
English
Genius. Il fait du journalisme, écrit ses « Lettres de Londres»
pour la
revue américaine Parrtisan Review, publie de nombreux comptes
rendus de
livres, travaille pour la BBC, puis devient rédacteur littéraire de
Tribune.
Son refus des compromis, sa défiance envers toute discipline de parti,
son
inefficacité en tant qu'homme d'action ont conduit Orwell à une impasse
politique, d'où il tente alors de sortir par l'écriture. La Ferme
des
animaux, sous-titrée « Un conte
de fées », est un moment décisif de son
évolution littéraire. A côté du thème politique (démythification de la
révolution soviétique et affirmation de la quasi-inévitabilité de la
trahison
de toute révolution), se dessine une intention littéraire que révèle le
respect
scrupuleux de la forme de la fable.
Dans son dernier roman,1984, le choix d'un autre genre
traditionnel,
l'utopie, et la création d'un héros de stature véritablement tragique
ne
laissent aucun doute quant au projet littéraire d'Orwell. 1984 témoigne
d'une énergie créatrice admirable dans la condamnation d'un univers
totalitaire
fait de mensonges, de trahisons et de terreur. Cette vision
apocalyptique est
celle d'un homme seul et malade, et il s'isole dans l'île de Jura, au
large de
l'Ecosse. Par ailleurs, il est atteint d'une tuberculose aiguë, dont
les
attaques ne lui laissent guère de répit: hospitalisé en septemmbre
1949, à
Londres, il meurt en janvier 1950 .•
Monique Triomphe 30 juillet 1971
Un
militant de la tendresse
Pour l'auteur de «
1984 », la «décence ordinaire» du peuple constitue la source de toute
résistance et de toute émancipation
Qui veut parler
fidèlement de George Orwell doit utiliser certains mots aujourd'hui
démodés,
qui font rire à peu près tout le monde: rébelllion, lutte, solidarité.
Il faut
en prendre son parti, pourtant. Car, sous la plume de
l'écrivain-reporter britannique,
ce vocabulaire engage une expérience qui fonde l'existence vraiment
humaine:
l'élan de sympathie envers les opprimés.
Bien qu'il doive
sa célébrité à La Ferme des animaux et
à 1984, ce serait une erreur
de
présenter Orwell comme un théoricien du politique. Son œuvre est celle
d'un poète
militant, qui cherche à maintenir l'espoir vivant. Dans ses romans
comme dans
ses enquêtes de terrain, il a inventé un style de la tendresse, tout
entier au
service des rencontres. Il a fait de sa plume un outil de
reconnaissance, qui
doit permettre aux humbles de retrouver l'estime de soi.
Si Orwell décrit
avec tant de finesse le pouvoir totalitaire et ses perversions, c'est
d'abord
parce que ce pouvoir étouffe les sentiiments qui permettent de faire la
différence
entre un troupeau résigné et des hommes révoltés: la colère devant
l'injustice
faite à autrui, l'apptitude à s'identifier, la loyauté.
En 1938 déjà, à
son retour du front espagnol, Orwell publie son Hommage à
la Catalogne. Il y salue la bienveillance du peuple, et
ces “éclats de grandeur d'âme” qui l'ont aidé à tenir malgré la
souffrance, les
désillusions: le geste de deux miliciens anarchistes qui lui donnèrent
leur
ration de tabac, le fou rire j'une vieille paysanne aux abords de
Huesca, ou
encore son coup de 'oudre pour ce jeune camarade itaaien, dans une
caserne de
Barcelone: « C'est étrange, l'affection qu'on peut ressentir pour un
inconnu!
Ce fut comme si la fougue de nos deux cœurs nous avait momentanément
permis de
combler l'abîme d'une langue ( ... ), et de nous rejoindre dans une
parfaite intimité.»
Ici commence la
révolution. Pour changer le système, elle doit d'abord se déployer au
ras du
quotiidien, au cœur des relations humaiines, à partir de ce qu'Orwell
nommme «
common decency », la «décennce ordinaire ». Plutôt qu'une posture
morale, il
s'agit d'un ensemble de pratiques, une certaine manière de se tenir
dans le
monde, une capaacité à aider, à donner, à admirer.
Avant Bruce Bégout,
qui publie un essai intitulé De la
décence ordiinaire, au moins deux ouvrages avaient souligné
l'importance de
cette notion chez Orwell: Bernard Crick, dans la biographie de
référennce qu'il
lui a consacrée, et Jean Claude Michéa, dans son Orwell, anarchiste
tory. Mais
Bruce Bégout ne fait pas que reprendre la même idée. D'une plume douce
et
précise, il la développe, il l'affine aussi, et montre que chez Orwell
l'apologie des petits et des dominés ne va pas sans un certain «
populisme ».
En allant vivre parmi les déclassés de Londres et de Paris, à la fin
des années
1920, l'écrivain anglais avait voulu inscrire leurs souffrances dans sa
propre
chair, et il en était revenu avec la certitude que « l'homme ordinaire»
était
doué d'une bonté spontanée. A ses yeux, c'est là que résidait le
creuset de toute
résistance collective et de toute émancipation universelle.
Cela dit,
pourquoi certaines qualités morales seraient-elles réservées aux
pauvres?
L'homme du commun n'est-il pas, comme les autres, travaillé par la
violence, la
cruauté? L'auteur de 1984 sait très
bien que oui, lui qui décrit la société totalitaire comme une machine à
exploiter les plus bas instincts. Mais il veut croire que, chez les
exploités,
les mauvaises pulsions ne se libèrent que dans certaines circonstances
exceptionnelles
: “Orwell ne nie pas la présence d'inclinations perverses chez l'homme,
mais il
met en doute leur caractère ordinaire, comme si ces dernières ne
pouvaient
naître et se développer que dans des contextes particuliers”, note
Bruce
Bégout.
La guerre est
l'un de ces contextes. De 1943 à 1947, George Orwell tient une
chronique
hebdomadaire dans Tribune, un journal dont les idées se situent à la
gauche du
Parti travailliste. Intitulées « A ma guise », ces chroniques traitent
de sujets
très divers, depuis l'arrivée du printemps jusqu'aux annonces
matrimoniales, en
passant par la fête de Noël, l'état de la presse, la hausse des prix ou
encore
l'antisémitisme. La plupart de ces textes étaient déjà disponibles en
français,
mais les éditions Agone ont eu la bonne idée d'en publier
l'intégraalité en un
seul volume.
Le chroniqueur
prend soin de distinguer entre l'humilité du peuple et la morgue des
puissants:
si l'agressivité des receveurs d'autoobus doit être mise au compte
d'une “névrose
provoquée par la guerre”, les propos xénophobes de deux hommes
d'affaires
s'expliquent avant tout, selon lui, par la « méchanceté active» liée à
leur
condition.
C'est un peu
caricatural, dira-t-on. Oui, mais Orwell n'est ni philosophe ni
sociologue. Pour
lui, l'écriture n'a qu'une vocation: briser la solitude des hommes, les
aider à
créer des liens. «Comment rendre les gens conscients de ce qui se passe
en
dehors de leur petit cerrcle, voilà un des principaux problèmes de
notre temps,
et une nouvelle technique littéraire va devoir être inventée»,
assure-t-il.
Loin de forrmer un programme doctrinal, ses textes désignent le point
de fragilité
propre à toute espérance socialisste: privée de son élément
émotionnnel, la
révolution est sans âme; couupée de ses ressources fraternelles, la
politique
est sans entrailles .•
Jean Birnbaum 26
septembre 2008
« Il faut
prendre parti»
C'est le
sentiment d'injustice qui poussait au travail!' écrivain britannique,
tour à
tour journaliste, pamphlétaire ou polémiste
Depuis 1984,
l'année la plus célèbre de la politique fiction, dont il fut,
pourrai-ton dire,
la vedette, on aurait pu croire George Orwell oublié. Aussi est-ce une
sorte de
résurrection qui s'annonce avec la publication de l'énorme masse des
essais,
articles et lettres, à peu près entièreement inédits en français.
Quatre volumes
permettront de suivre la maturation des œuvres en même temps que la
progression
de la pensée et de l'engagement d'un des écrivains anglais les plus
originaux
de ce siècle. Un écrivain pour qui l'art était “l'invention du vrai”.
“En tout
cas, une chose est certaine, la littérature fut toujours le premier de
ses soucis,
écrivait Simon Leys. Cette constatation ne met nullement en question la
gravité
de son proopos.”
Journaliste,
pamphlétaire, polémiste, Orwell n'a jamais été ce qu'on nommait alors
un
écrivain « prolétarien». Il n'a pas non plus été marxiste, même si un
de ses
chiens s'appelait Marx ... « Tout ce que j'ai écrit d'important depuis
1936,
chaque mot, chaque ligne, a été écrit, directement ou indirecteement,
contre le
totalitarisme et pour le socialisme démocratique tel que je le conçois
",
proclame-t-il dans un texte-manifeste de 1946, « Pourquoi j'écris ",
placé
en introduction du présent volume. “Ce qui me pousse au travail, c'est
touujours le sentiment d'une injustice, et l'idée qu'il faut prendre
parti.”
Après son refus
d'entrer à l'université et les cinq années dans la police impériale des
Indes,
en Birrmanie, Orwell prend conscience de ce qui est désormais pour lui
inacceptable,
comme cette pendaison qu'il rapporte avec une froide précision,
conduite par
des bourreaux amateurs prêts à tirer sur les jambes du mourant pour
l'empêcher
de “gigoter”. Il démissionnera en 1927, conforté dans son dégoût
naturel de
toute autorité. Il a vingt-quatre ans; il décide de devenir écrivain
coûte que
coûte ..
« Au cours de ces
dernières années, je suis arrivé à obtenir de la classe capitaliste
qu'elle me
donne chaque semaine quelque argent pour écrire des livres contre le
capitalissme. Mais je ne m'illusionne pas au point de penser que cette
situation est destinée à durer éternelleement ", écrit-il dans Pourquoi
j'ai adhere à l'Independent Labour Parrty, le 24 Juin 1938.
« Au fond, un patriote»
On pressent à
travers ces écrits la montée de l'engagement devant les dangers qui
entraîneront
le monde dans une guerre inéluctable. “Tout ce qu'on peut écrire en ce
moment
est vicié par l'effroyable sensation que l'on se précipite vers un
abîme, et que,
même si nous ne pouvons rien empêcher, il faut bien tenter quelque
chose pour
sy opposer.”
Le pacte
germano-soviétique mettra les choses au net: “Dans la nuit qui précéda
le pacte
germano-soviétique, je rêvai que la guerre avait commencé, écrit-il
dans De
droite ou de gauche, c'est mon pays en juin1940. Ce rêve m'appprit deux
choses
: un, que j'éprouverai plutôt du soulagement quand éclaterait cette
guerre tant
redoutée et, deux, que j'étais au fond un patriote.” Capituler serait
une insulte
à la résistance républicaine en Espagne. “Mais qu'on ne se méprenne pas
sur le
sens des mots. Le patriotisme n'a absolument rien de commun avec le
conservatisme.”
La guerre éclate et, conséquence dérisoire, la police vient saisir chez
lui son
exemplaire de Tropique du cancer de Henry Miller!
Familier de Big Brother,
Orwell est mort sans avoir pu imaginer que le totalitarisme soviétique
pourrait
s'effondrer dans un proche avenir. Comme le dissident Andreï Amalrik,
qui
avait, dans les années 1970, posé la question sacrilège: “L'Union
soviétique
surrvivra-t-elle à 1984?” Sans oser croire à la réalité de ses désirs
.•
Nicole Zand
26
janvier 1996
« Pourquoi
j'écris»
“POLITICAL WRITER
", un écrivain politique, c'est la formule que Berrnard Crick s'efforce
de
préciser.
Pourquoi j'écris?”
Orwell lui-même pose la question, dans un article, et y répond: “...
Lorsque je
revois mon œuvre, je constate qu'invariablement c'est quand je manque
de but
politique que j'écris des livres sans vie, que je me trahis en me
laissant
aller à des composiitions décoratives, des phrases sans signification,
des
adjectifs colorés, de la guimauve trafiquée.”
Il serait donc un
écrivain engagé, le pendant anglais de l'intellectuel de gauche
français. En
fait la comparaison se soutient difficileement et l'originalité
singulière
d'Orwell s'affirme, quand, par exemple, il éérit en 1946, soit deux ans
avant
la parution de 1984: “Ce que j'ai le plus desire faire tout le long de
ces dix
dernières années, c'est transformer l'écriture politiique en art.” De
fait, il
tranche et se démarque nettement de l'écrivain militant, bien qu'il se
situe
sur la gauche du parti travailliste et qu'il y milite. “Farouchement
égalitaire, libertaire et démocrate, mais par comparaison avec le
Continent d'une
surprenante absence de théorie, un mélange d'évangéliste et de séculier
",
voilà comment Bernard Crick le dépeint. Ce qui frappe chez Orwell c'est
cette
vocation, ce désir d'écrire qui s'affirme tout le long de sa vie,
révèle un
mode d'être, une sensibilité aiguë, un pouvoir de découvrir et de
restituer,
par les seules voies de la créaation littéraire, un climat, un temps,
un monde
donné .•
Edmund AEC Maleh
18 Mai 1981
De l'expérience au prophétisme
S'IL N'ÉT AIT PAS
allé en Catalogne, s'il n'avait pas vu de ses yeux ses camarades
liquidés par
les commuunistes espagnols sur ordre de Moscou, il n'aurait sans doute
jamais
écrit ses deux chefs-d' œuvre - La Ferme des animaux et 1984 qu'il
termina
juste avant de mourir -, ainsi que Hommage à la Catalogne, le meilleur
témoignage sur la guerre d'Espagne, où il découvre une sorte de
microcosme
d'une société sans classes, mais aussi chez les combatttants « quelque
chose
d'insolite et de sinistre - atmosphère de suspicion, de peur,
d'incertitude et
de haine voilée ». Comme des rats ...
Cet homme qui ne
connaissait pas la peur, ses camarades de Catalogne l'attestent, aura
toute sa
vie l'obsession des rats: à 15 ans déjà, dans une lettre à un ami, il
écrit: “J'ai
acheté une de ces grosses cages à rats avec un piège [cette cage qu'on
jette à
la tête du héros de 1984 pour qu'il se fasse ronger la cervelle!].
C'est
vraiment un sport d'attraper un rat, de le laisser sortir et de lui
tirer
dessus quand il s'en va.” A l'école, il enverra aussi un rat mort au
surrveillant général « comme cadeau d'anniversaire» ...
Animal Farm,
cette expérience d'autogestion des « bêtes d'Angleterre », où « tous
les
animaux sont égaux, mais certains sont plus égaux que d'autres », ne
rencontrera
pas l'enthousiasme de son éditeur habituel, qui refusera le livre. Le
succès
sera immense, la critique le compare alors à Swift.
Clarté d'analyse
Avec 1984, dont «
le but véritable est, explique-t-il, de discuter les conséquences de la
division du monde en zones d'influence », et d'indiquer, en les
parodiant,les
conséquences intellectuelles de ce qu'il nomme le « col1ectivisme
oligarchique
», il ne s'en prend pas seulement au mythe soviétique du totalitarisme.
Il voit
plus loin.
La prémonition,
la clarté d'anaalyse, ce qu'on a parfois appelé le prophétisme de
George Orwell sont tout à fait
confondants, en avance de plus de trente-cinq ans sur les « nouveaux
philosophes» et leur méfiance des idéologies.
Orwell n'a pas eu
besoin d'aller en URSS pour connaître « Big Broother» et savoir «
quelle sorte
de sourire se cachait derrière la moustaache noire». Sa clairvoyance
est tout
aussi étonnante à propos de la bombe A: au lendemain d'Hiroshima, il
devine que
« les trois blocs posséderont bientôt la bombe atomique et le monde
sera près
d'un nouveau désastre». « La peur inspirée par la bombe et d'autres
armes
futures sera si grande, écrit-il en 1947, que tout le monde veillera à
ne pas
les utiliser. Cela me semble la pire des
possibilités. Cela signifieerait la division du monde en deux ou trois
grands
super-Etats, incapaables de se dominer mutuellement et impossibles à
renverser
par des réformes internes.»
Cet homme
paradoxal et double, élève d'Eton et trotskiste, conservateur et
anarchiste,
Don Quichotte et Sancho Pança, était un génie. « Orwellien » est deven
un
adjectif, synonyme d'avenir catastrophique ... Pourtant, les articles,
les essais,
les romans de cet homme qui voulut “faire de l'écrit politique un art”
tout en
écrivant « utile» sont plus subtils .•
NicoleZand
17septembre 1982
*
Nếu ông không
đi
Catalogne, nếu ông không tận mắt chứng kiến bạn bè của ông bị Moscou ra
lệnh làm
thịt, bởi những người CS Tây Ban Nha, chắc chắn ông không thể nào viết
ra được
hai tuyệt tác như Trại Loài Vật,
và 1984, mà ông hoàn tất
xong là đi liền, cùng
với cuốn Hommage à la Catalogne,
một chứng liệu tuyệt vời về cuộc chiến Tây Ban
Nha, mà ở đó, ông khám phá cái thế giới bé tí, của một xã hội không
giai cấp, và
cũng còn khám phá ra ở những kẻ chiến đấu, “một điều gì đó thật ghê rợn, kinh tởm
– cái không khí nghi kỵ, sợ hãi, bất an, thù hận che giấu”.
Giống như một lũ
chuột.
Đó là không khí Hà
Nội, những năm chiến tranh, giữa đám nhà văn Bắc Kít, và bây giờ, được
khui ra?
NQT
Một
trong những cách đọc mới
về Orwell, trên tờ Le Magazine
Littéraire số Tháng Chạp 2010, là của một nữ triết
gia Mẽo, Martha Nussbaum, giáo sư đại học Chicago. Trong bài viết Một thế giới
không có sự thương hại, bà tra hỏi, qua 1984, và tác giả của nó, Orwell,
những
thành phần cơ bản của tình cảm cảm thông, les fondements du sentiment
de
compassion. Một tác giả khác, Éric Dior, trong bài viết L’enragé de la lucidité,
coi vị trí của Orwell tương tự của Camus, mặc dù cả hai đều thoát thai
từ thời
kỳ Ánh Sáng: Ông Tây thuộc địa Camus thì mê mặt trời và đàn bà; ông
Hồng Mao thích
bia bọt âm ấm, không khí âm u ẩm ướt của mấy tiệm bia rượu và làm vườn
Anh
Hai, Đại Ca Bắc Kít, Big
Brother của Orwell, gốc Nga!
Mục Sổ Tay của tờ TLS, April
16, 2010 cho biết tin động trời trên.
Seeing the future
Một ấn
bản của cuốn Orwell, một đời thư tín, tới bàn giấy của
chúng tôi, và thế là chúng tôi mò index, vần T, coi ông có lèm bèm gì
về TLS
không, và vớ được một câu thật ly kỳ: “Tôi đã thỏa thuận là sẽ điểm
cuốn We cho TLS, khi bản tiếng Anh ra lò”,
Orwell viết cho tay học giả người Nga, Glub Struve.
Mừng quá, chúng tôi lục TLS
archives, tẽn tò!
We viết năm
1920, nhưng đến năm 1927 mới xuất hiện trên một tờ báo của di dân Nga.
Bản
tiếng Anh, có sớm hơn, nhưng xb ở Mẽo. Theo tay biên tập cuốn Orwell một đời lụm cụm viết thư cho bạn bè,
thì Orwell, đến năm 1944 vẫn chưa được sờ vô We, Chúng Tôi,
như trong thư ông viết cho Struve, nhân sách của ông được
giới thiệu ở Nga. “Tôi biết lơ tơ mơ về văn chương Nga”. Struve bèn
giới thiệu We của Zamyatin.
Sau đó, Orwell vớ được bản
dịch tiếng Tây, Nous Autres, mê quá, ghi chú tía lia.
Và Benefactor, Ân Nhân, Thiên Sứ, Người Anh Ruột Bắc Kít, Abel...
của Zamyatin,
biến thành Big Brother của Orwell, và biến thành Công An Tư Tưởng của
Mít chúng
ta!
Liêu
Thái – Cuộc thảo luận
“lạ” về Trại Súc Vật trên bãi biển Đà Nẵng
Talawas
Note:
Bài viết, và những cái còm,
theo Gấu, chỉ nói được một ‘nửa sự thực’ về cuốn Trại Loài Vật.
Nhờ nó, và Bóng đêm giữa ban ngày
mà Châu Âu thoát bị nhuộm đỏ, theo bài viết của Applebaum về Koestler,
trên NYRB:
Yesterday's Man?
Coi
những nhân vật trong đó là
những 'quái vật' ở ngoài đời, là làm giảm thế giá của cuốn sách.
Phụ
trang văn học đặc biệt về
Orwell, của tờ Le Monde, đã sử dụng thuật ngữ “phát minh ra cái
thực”, "Orwell, ou l’invention du vrai", để dành cho sự nghiệp
văn chương của Orwell.
Cũng
theo nghĩa đó mà người dân Miến đã coi
Orwell như là
một nhà tiên tri của xứ sở của họ, như một trong bài xã luận của tờ
Asia
Literary
Review viết:
Ở Rangoon, người
ta nói,
Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu thuyết, không
phải một,
và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese Days,
là câu
chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại Loài Vật, Animal
Farm, những
năm khủng khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win, và 1984:
Ác mộng
ngày hôm nay, [tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia
of today”.]
Nguồn
Hơn nữa, cái tít
Trại Súc Vật, hơi bị nhảm, ấy là vì người Việt dùng từ ‘súc vật’ để
chửi!
Le
Magazine Littéraire, Dec
2009
Nhớ bức hình Cha Lý!
Trại Loài Vật của Orwell, Tôi
Chọn Tự Do của Victor Kravchenko, và Đêm giữa Ngọ của Koestler:
Ba nhà văn, ba cuốn sách, ba
cứu tinh của nhân loại!
Nhờ chúng mà Âu Châu nói Không với CS
Tuổi trẻ của Gấu được tạo
dáng [shaped] nhờ hai trong ba cuốn đó!
Hai cuốn sau, hồi 1954 được
Phòng Thông Tin Huê Kỳ cho dịch, biếu
không độc giả Miền Nam!
Đêm giữa Ngọ, khi xb tại
Pháp, được Sartre ra lệnh cho đệ tử đi từng tiệm sách thâu gom, đem đốt
bỏ, như
trong Kẻ Lạ ở Quảng Trường cho biết
« Pourquoi
j'écris»
“POLITICAL WRITER
", un écrivain politique, c'est la formule que Berrnard Crick s'efforce
de
préciser.
Pourquoi j'écris?”
Orwell lui-même pose la question, dans un article, et y répond: “... Lorsque je
revois mon œuvre, je constate qu'invariablement c'est quand je manque
de but
politique que j'écris des livres sans vie, que je me trahis en me
laissant
aller à des compositions décoratives, des phrases sans signification,
des
adjectifs colorés, de la guimauve trafiquée.”
Il serait donc un
écrivain engagé, le pendant anglais de l'intellectuel de gauche
français. En
fait la comparaison se soutient difficilement et l'originalité
singulière
d'Orwell s'affirme, quand, par exemple, il érit en 1946, soit deux ans
avant
la parution de 1984: “Ce que
j'ai le plus desire faire tout le long de
ces dix
dernières années, c'est transformer l'écriture politiique en art.” De
fait, il
tranche et se démarque nettement de l'écrivain militant, bien qu'il se
situe
sur la gauche du parti travailliste et qu'il y milite. “Farouchement
égalitaire, libertaire et démocrate, mais par comparaison avec le
Continent d'une
surprenante absence de théorie, un mélange d'évangéliste et de séculier
",
voilà comment Bernard Crick le dépeint. Ce qui frappe chez Orwell c'est
cette
vocation, ce désir d'écrire qui s'affirme tout le long de sa vie,
révèle un
mode d'être, une sensibilité aiguë, un pouvoir de découvrir et de
restituer,
par les seules voies de la création littéraire, un climat, un temps,
un monde
donné.• Edmund
AEC Maleh
18 Mai 1981
Nhà văn chính
trị, đó là Orwell.
Ông phán: Đọc lại tác phẩm của mình, tôi ngộ ra một điều, chính là khi
mất mẹ
nó mục đích chính trị, là tôi viết ra những cuốn sách như kít!
Giấc đại mộng của tôi, là, làm sao biến 'chính văn', lối viết chính
trị, thành nghệ thuật.
It's
true that politics drove much of his writing, but we should also value
his
masterly characterizations of some of literature's most memorable losers
BOOK 2:
ANIMAL FARM
BY GEORGE ORWELL
April
30, 2007
To
Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
P.S. Happy birthday
Dear
Mr. Harper,
Now
that your Flames have
been knocked out of the playoffs I guess you'll have more free time on
your
hands.
I fear that some may
criticize me for the second book I am sending you, Animal Farm, by
George
Orwell. It's so well known, and it's another book by a dead white male.
But
there is time yet to be representative of all those who have harnessed
the word
to express themselves-believe me, they are varied and legion-unless you
lose
the next election, which would likely give you even more time to read,
but not,
alas, according to my suggestions.
Many of us read Animal Farm
when we were young perhaps you did too-and we loved it because of the
animals
and the wit. But it's in our more mature years that its import can
better be
understood.
Animal Farm has some commonalities
with The Death of Ivan Ilych: both are short, both show the
reality-changing
power of great literature, and both deal with folly and illusion. But
whereas
Ivan Ilych deals with individual folly, the failure of one individual
to lead
an authentic life, Animal Farm is about collective folly. It is a
political
book, which won't be lost on someone in your line of business. It deals
with
one of the few matters on which we can all agree: the evil of tyranny.
Of
course a book cannot be reduced to its theme. It's in the reading that
a book
is great, not in what it seeks to discuss.
But I also have a personal
reason for why I've chosen Animal Farm: I aspire to write a similar
kind of
book.
Animal Farm first. You will
notice right away the novel's limpid and unaffected style, Orwell's
hallmark.
You get the impression the words just fell onto the page, as if it were
the
easiest, the most natural thing in the world to write such sentences
and paragraphs
and pages. It's not. To think clearly and to express oneself clearly
are both
hard work. But I'm sure you know that from working on speeches and
papers.
The story is simple. The
animals of Manor Farm have had enough of Farmer Jones and his
exploitative ways
so they rebel, throw him out, and set up a commune run according to the
highest
and most egalitarian principles. But there's a rotten pig named
Napoleon and
another one named Squealer-a good talker he-and they are the nightmare
that
will wreck the dream of Animal Farm, as the farm is renamed, despite
the best
efforts of brave Snowball, another pig, and the meek goodness of most
of the
farm animals.
I've always found the end of
Chapter II very moving. There's the question of five pails of milk from
the
cows. What to do with them, now that Farmer Jones is gone and the milk
won't be
sold? Mix it with the mash they all eat, hints a chicken. "Never mind
the
milk, comrades!" cries Napoleon. "The harvest is more important.
Comrade Snowball will lead the way. I shall follow in a few minutes."
And
so off the animals go, to bring in the harvest. And the milk? Well, "
...
in the evening it was noticed that the milk had disappeared."
With those five pails of
white milk the ideal of Animal Farm, still so young, begins to die,
because of
Napoleon's corrupted heart. Things only get worse, as you will see.
Animal Farm is a perfect
exemplar of one of the things that literature can be: portable history.
A
reader who knows nothing about twentieth-century history? who has never
heard
of Joseph Stalin or Leon Trotsky or the October Revolution? Not a
problem:
Animal Farm will convey to that reader the essence of what happened to
our neighbors
across the Arctic. The perversion of
an ideal,
the corruption of power, the abuse of language, the wrecking of a
nation - it's
all there, in a scant 120 pages. And having read those pages, the
reader is
made wise to the ways of the politically wicked. That too is what
literature
can be: an inoculation.
And now the personal reason
why I've sent you Animal Farm: the Jewish people of Europe
murdered at the hands of the Nazis also need to have their history made
portable.
And that is what I'm trying to do with my next book. But to take the
rubble of
history-so many tears, so much bloodshed-and distil it into some few
elegant
pages, to turn horror into something light-it's no easy feat.
I offer you, then, a literary
ideal of mine, besides a great read.
Yours truly,
Yann Martel
P.S. Happy birthday.
*
Trại Loài Vật là thí dụ tuyệt
hảo về những điều mà văn chương có thể đem đến cho chúng ta: một thứ
lịch sử cầm
tay. Một độc giả chẳng biết tí gì về thế kỷ thứ 20, Stalin là thằng chó
nào, Trốt
Kít quái vật hả, Cách Mạng Tháng 10 quái thai ư: Trại Loài Vật sẽ chuyên chở tới
cho vị độc giả đó cái cốt yếu, cốt tủy về điều gì đã xẩy tới cho những
người láng
giềng ở bên kia Bắc Cực của chúng ta [dân Canada]: Cái quái thai, tởm
lợm,
bại hoại của một lý tưởng [giải phóng, thống nhất đất nước, thí dụ], sự
hư ruỗng, thối nát
của quyền lực, sự lạm dụng ngôn từ, sự băng hoại của cả một quốc gia –
tất cả đều
có ở trong đó, chỉ trong một tiếng nấc của trên trăm trang sách. Và khi
đọc những
trang này, độc giả trở nên minh mẫn hơn, nhờ uống 'lầm' thuốc độc chính
trị! Điều
này thì cũng là văn chương: Sự tiêm chủng vắc xin!
Ui
chao, đúng là trường hợp đã
xẩy ra cho GNV: Giả sử những ngày mới lớn không vớ được Đêm giữa Ngọ,
thì thể nào
cũng nhẩy toán, lên rừng làm VC, phò Hoàng Phủ Ngọc Tường, đúng như một
tên đệ
tử của Thầy Cuốc 'chúc' Gấu!
Đoạn trên
thật là tuyệt cú mèo, nhưng thua… Brodsky khi
ông viết về thơ, về Kinh Cầu: "Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ
có
thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào
một cái
gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay,
một khi
cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được. Theo nghĩa đó, cả thế giới
nâng niu
bút hiệu Anna Akhmatova."
Và bây giờ cái lý
do rất cá nhân tại sao tôi viết ‘mấy lời’ gửi ông, kèm cuốn Trại Loài
Vật: người
Do Thái Âu Châu, bị Nazi sát hại cũng cần có lịch sử của họ, dạng cầm
tay. Và đó
là điều tôi cố gắng làm với cuốn sách tới của tôi.
Nhưng căng lắm đấy,
tôi tự nhủ tôi, làm sao sàng lọc từ đống rác lịch sử, [lịch sử Mít cùng
cuộc
chiến đỉnh cao của nó] với bao nhiêu là máu, là lệ, vào một tiếng nấc,
của vài
trang [Tin Văn], làm sao biến sự ghê rợn, điều tởm lợm, kinh hoàng
thành một điều
gì nhẹ nhàng ư ảo, [trên không gian net], chẳng ngon cơm một tí nào
đâu!
|