*

China: Humiliation & the Olympics
TQ: Nhục Nhã & Olympics

By Orville Schell
Dark Matter
a film directed by Chen Shi-Zheng
Olympic Dreams: China and Sports, 1895–2008
by Xu Guoqi
Harvard University Press, 377 pp., $29.95
China's New Confucianism: Politics and Everyday Life in a Changing Society
by Daniel A. Bell

Princeton University Press, 240 pp., $26.95
China's New Nationalism: Pride, Politics, and Diplomacy
by Peter Hays Gries
University of California Press, 215 pp., $21.95 (paper)
China's Great Leap: The Beijing Olympic Games and Olympian Human Rights Challenges
Edited by Minky Worden, with an introduction by Nicholas Kristof
Seven Stories, 231 pp., $18.95 (paper)


Living without 'isms
''It's in literature that true life can be found. It's under the mask of fiction that you can tell the truth'

The idea behind it is that we need to bid goodbye to the 20th century, and to put a big question mark over those "isms" that dominated it
Sống đếch cần Ism!
Chính là trong văn chương mà đời thực có thể tìm kiếm thấy.

*

Note: Một bài phỏng vấn tuyệt vời. Tin Văn sẽ đi bản dịch trong những kỳ tới.
Tình cờ làm sao: Bạn phải đọc bài này cùng lúc với bài trên NYRB,
China: Humiliation & the Olympics TQ: Nhục Nhã & Olympics rồi suy ra trường hợp mấy anh Yankee mũi tẹt “Hà Lội ta hiên ngang ngửng đầu”, mới đã! NQT


Tuyển tập
Thảo Trường

Wednesday, July 30, 2008 3:26 PM
From
To:
Ong Gau,
Toi vua gui qua buu dien tang OB mot quyen Tuyen tap "Nhung Mieng Vun Cua Tieu Thuyet", day 550 trang , nang 1kg, do Nguoi Viet xuat ban va phat hanh. Toi tim mai moi ra cai dia chi….
Dung không?
Nhan duoc ong mail cho biet. Cai bia do Nguyen Dong lam.
*
Chúc mừng bạn ta.
Báo tin mừng liền tù tì, và trân trọng giới thiệu bạn đọc Tin Văn


Lèo nhèo NQL

Gấu có nhớ nhà không?
*
Clara

.&
Chúng ta nói gì nhỉ khi chúng ta nói về tình yêu của chúng ta?
[Note: To U. CM. NQT]

Có người tu hang Pắc Bó
Sau này thành Phật sướng ghê!

Thơ BCV
*
Note: Nguyễn Lương Vỵ, không phải Nguyễn Lương Vị.
*
Cu ta dài, sao thiến thành cụt?
Cái này sợ không phải lỗi của BVC.
NQT


Tất nhiên cá nhân tôi thì tôi vẫn rất ghét Mỹ vì thật ra Mỹ đã bán cả Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà rồi, bán đi những người gần gũi nhất của người Mỹ rồi. Về phần tôi, tôi vẫn có sự cảnh giác đối với Mỹ, thật sự đối với Trung Quốc và ngay cả đối với Mỹ.
Nhưng mà dứt khoát, chắc chắn rằng trong khu vực Đông Nam Châu Á này và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, cả cái vùng này người Mỹ không thể tìm được người bạn nào tốt hơn là người Việt Nam cả. Tôi khẳng định là như vậy.
Nguồn
Tay VC này giỏi.
Cái tình hình đất nước ta, bây giờ tương tự thời VNCH, Mẽo vô Miền Nam vì sợ TQ  liếm sạch DNA.
Bây giờ cũng vậy.
Đúng ý của Todorov:
Chủ nghĩa CS là con đường nhức nhối đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa bản tư.


Phim Nỗi buồn chiến tranh: Sẽ nhẹ nhàng hơn tiểu thuyết! 

Nhà văn Bảo Ninh viết dữ dội hơn, tập trung vào mặt trái của chiến tranh. Còn Nicolas Simon tập trung vào tình yêu của hai nhân vật chính. Thực ra Nicolas thích cái tên Thân phận tình yêu hơn.
*

Như vậy là tay làm phim nhận xét về cuốn truyện giống Gấu.
Nhưng chắc khó hơn Gấu, khi vạch mặt chỉ tên cái anh chàng nhân vật chính “có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”.
Nói rõ hơn, sau cái vụ em được Bộ Đội Cụ Hồ bề hội đồng ở ga Thanh Hoá, là em phải tự tử, để tạ tội, thì mới đúng là gái Bắc Kỳ!
*
Về kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là một sáng tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu thuyết gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường tượng ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”. Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có tên “Thân phận tình yêu”. Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".
Gấu đọc Nỗi Buồn

Ui chao, đọc lại văn của Gấu, không phải văn, mà là điểm sách, mới thấm lời độc giả của Gấu:

A. bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm tri kỷ, phải dạy người ta một điều gì đó nhưng không dạy đời. 

Toi phuc anh kinh khung, ve su doc, suc viet, su nhay ben va long tho mong.
*
Vậy mà có một độc giả 'ruột' phán, Tin Văn đen thui, trừ những trang viết về BHD.
Cũng độc giả này, than, đọc một câu thôi, có khi bần thần mấy ngày trời!
*
Trừ những trang về BHD.
Ui chao, tuyệt!
Tuyệt!
Tks. NQT


Gấu đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của BVVC

 Nhà văn Miền Nam được Time tiếp xúc, đề nghị, và đã nhận lời, trên nguyên tắc, theo Cao Bồi, là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
 Sau đó Gấu có hỏi ông, và ông gật đầu xác nhận chuyện này. NQT
*
Tôi không coi 'Nỗi buồn chiến tranh' là một sự đột khởi, đột biến của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, viết từ thế nhìn của người chiến thắng. Bởi trước đó đã có 'Đất trắng'. Nhưng đúng là phải chờ Bảo Ninh thì văn học viết về cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam mới vượt lên trên tầm 'thường'.
Khi đến với bạn đọc lần đầu, tác phẩm của Bảo Ninh phải ẩn thân dưới một cái danh khác: 'Thân phận của tình yêu.' Rõ là sến, vô nghĩa, rậm lời. Gọi tác phẩm bằng cái tên nguyên thủy của nó, mới có thể tiếp cận được với trường cảm xúc của tác giả. Ấy là tình yêu, tình bạn, tình đồng đội, tình người.
So với các tác phẩm có chung một đề tài (chiến tranh chống Mỹ, chiến tranh giải phóng, nội chiến vì phân biệt ý thức hệ), 'Nỗi buồn chiến tranh' rất mới về bút pháp. Sự chuyển đổi thời gian được mô tả thật nhuyễn, sự trôi chảy của ý thức đã được Bảo Ninh theo dõi không ngừng. Tuy nhiên, cái mới đó vẫn chưa thật là mới khi xét nó trong phạm vi tiến trình phát triển của văn học thế giới. Cái mới của một tác phẩm, xét đến cùng là ở cách 'nghiền ngẫm' hiện thực (chữ dùng của Lê Ngọc Trà). Trong nghĩa đó, đi vào đề tài chiến tranh, Bảo Ninh là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam biết nghiền ngẫm, nói được những điều chưa từng ai nói.
LMH
*

Nếu đã từng đọc 'Một thời để yêu, một thời để chết' của Remarque, hẳn bạn sẽ bị ám ảnh rất lâu, có thể là mãi mãi bởi hình ảnh cuối cùng tác phẩm: Người du kích Liên xô ngay sau lúc được giải thoát đã nâng súng bắn hạ người lính Đức vừa giải thoát mình. Một cách có ý thức? Hay vô thức? Không biết! Chỉ biết là viên đạn đã ra khỏi nòng súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh. Còn lại vĩnh viễn hy vọng không bao giờ thành thực của nhân vật chính. Còn lại vĩnh viễn một nỗi buồn: Nỗi buồn chiến tranh.
LMH

Cái cú bắn này, rõ ràng như ban ngày: Anh du kích Liên Xô lúc nào cũng nghĩ xấu về tên lính Đức, anh ta không tin thằng khốn nạn thực sự tha mình. Nó chờ mình chạy, rồi bắn, coi như bia sống. Nhân thằng chả mải mê đọc thư nhà, là đòm một phát.

Cái cú này đúng là cú giải phóng Miền Nam. Anh Ngụy tưởng là chiến tranh xong rồi, Mỹ cút rồi, Ngụy nhào rồi, thế là đòm một phát, đi hết cả Miền Nam.

Gấu nghe nói, sau khi hòa đàm Paris ký kết, mấy anh VNCH chạy đến hôn mấy anh VC, khóc ròng [xin nhắc lại, mấy anh VNCH, hình như có Vũ Văn Mẫu thì phải, khóc ròng], nước nhà độc lập thống nhất rồi. Gấu bất giác nhớ ông cụ Gấu, nghe Cụ Hồ đọc diễn văn Ba Đình, chạy về la lớn: Nước nhà độc lập rồi, sau đó bị thằng học trò cho đi mò tôm.
Đó là kỷ niệm độc nhất của Gấu về ông bố của mình, những ngày đầu Cách Mạng.
*

Chỉ biết là viên đạn đã ra khỏi nòng súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh.
Ui chao, câu này phải dành cho me-xừ Nhàn, giám đốc nhà xb Vàng Son, số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặc dù chiến tranh hết còn hấp hối, vào thời điểm đó.
Gấu đã từng viết về ông. Ngay sau 30 Tháng Tư, hưởng ứng lời kêu gọi của Tân Nhà Nước, tức Nhà Nước Cách Mạng, Nhà Nước Ăn Cướp, kéo cả gia đình đi Kinh Tế Mới. Buổi sáng hôm đó, chàng tà tà vác cuốc đi làm rẫy, mơ mộng đổi đời, không nghe tiếng anh du kích hô, đứng lại, thế là đòm một phát.
Chàng. Đúng là chàng.
Đúng ra phải gọi là Roméo, nickname mà đám nhân viên, tức Gấu, Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Mai đặt cho ông.
Juliette, cô bồ của ông, trước 30 Tháng Tư rông, kéo ông theo, ông lắc đầu. Tôi chọn vợ tôi. [Nhại Camus: Tôi chọn Mẹ tôi]


Đài gương soi đến dấu bèo
Bài đọc thêm: Cái Lỗ Hổng

Lèm bèm về dòng văn học "Lạc Đường"


Không phải "niềm vui lớn"

Nỗi buồn Istanbul

Điêu tàn ư, đâu chỉ Điêu tàn:
Tanpinar và Yahya Kemal trong những Xóm Nghèo Istanbul 

Tanpinar và Yahya Kemal thường sóng đôi, trong những chuyến tản bộ dài, ở những khu vực trơ trọi, xa xôi, và nghèo khổ của Istanbul. Một lần, một mình trở lại những nơi chốn xưa, trong “bốn khu vực rộng lớn và khốn cùng giữa Kocamustafa và những bờ tường của thành phố”, trong thời kỳ Đệ nhị chiến, Tanpinar bồi hồi nhớ lại, những cuộc đi dạo sớm sủa đó đã hữu ích cho ông biết là chừng nào. Cũng là từ những khu vực nghèo khổ này mà Gautier nhìn ra vẻ sầu muộn, nỗi buồn tỏa xuống khắp thành phố vào thời gian 1853; Tanpinar và Yahya Kemal bắt đầu những chuyến dã ngoạn của họ vào “những năm tủi nhục đình chiến”.

Khi hai ông nhà văn lớn lao của Thổ bắt đầu những chuyến tản bộ đầu tiên của họ, bẩy mươi năm đã qua đi kể từ những cuộc viếng thăm của hai nhà văn Pháp là Nerval và Gautier, tác phẩm của họ cả hai ông nhà văn bản xứ đều ngưỡng mộ; vào thời gian đó, Đế quốc Ottoman đang từ từ mất dần những đất đai của nó ở vùng biển Balkan và Trung Đông, ngày một nhỏ đi, nhỏ đi, và sau cùng biến mất, những nguồn thâu nhập nuôi sống Istanbul khô kiệt dần; mặc dù làn sóng thường trực di dân Hồi giáo chạy trốn họa diệt chủng tại những nước tân cộng hòa Balkan, con số người chết do cuộc Đệ Nhất Thế Chiến lên tới hàng trăm ngàn người, thành thử, dân số cũng như của cái của Istanbul cứ co cụm lại. Cùng thời gian này, Ấu Châu và Tây phương giầu có thêm lên, nhờ những tiến bộ về kỹ thuật lớn lao. Khi Istanbul trở nên nghèo khổ hơn bao giờ hết, nó mất sự quan trọng trên thế giới, và chỉ còn là một nơi chốn xa xôi, oằn xuống vì gánh nặng thất nghiệp. Khi còn là một đứa trẻ, tôi không hề có được cảm giác sống trong một thủ đô của thế giới, mà chỉ là tỉnh thành vùng nhà quê, nghèo đói.