Đọc lại
Nỗi Buồn Chiến Tranh
Nếu đã từng đọc 'Một thời để
yêu, một thời để chết' của Remarque, hẳn bạn sẽ bị ám ảnh rất lâu, có
thể là
mãi mãi bởi hình ảnh cuối cùng tác phẩm: Người du kích Liên xô ngay sau
lúc
được giải thoát đã nâng súng bắn hạ người lính Đức vừa giải thoát mình.
Một
cách có ý thức? Hay vô thức? Không biết! Chỉ biết là viên đạn đã ra
khỏi nòng
súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh.
Còn lại
vĩnh viễn hy vọng không bao giờ thành thực của nhân vật chính. Còn lại
vĩnh
viễn một nỗi buồn: Nỗi buồn chiến tranh.
---------
Phải! Mọi sự tàn phá, hủy
diệt diễn ra trong mọi cuộc chiến tranh rút lại sẽ thành ra thế, thành
nỗi
buồn, gặm nhấm linh hồn người còn sống, tàn hủy đời sống con người. Sẽ
không có
gì trôi qua. Thời gian sẽ phủ tro lên nỗi đau hy sinh mất mát. Và con
người
tưởng có thể nguôi quên, tưởng sẽ được xoa dịu. Và con người sẽ dần bị
cuốn vào
chuyện áo cơm của thời hậu chiến. Tuy nhiên, không phải là như thế. Còn
đó nỗi
buồn. Một nỗi buồn có khả năng triệt tiêu không chỉ thù hận mà cả niềm
vui đại
thắng, và vì thế bao chứa cả nỗi đau, lớn hơn nó, cao cả hơn nó.
---------
Tuy nhiên, không phải nhà văn
nào cũng cảm nhận được điều này khi viết về chiến tranh. Phải tỉnh táo
lắm,
nhân ái lắm, mê đắm cuộc đời này lắm mới có thể phát hiện được nỗi
buồn, sự cô
đơn tuyệt đối của nỗi buồn - như một định mệnh của những ai biết nghĩ -
khi
viết về một thời máu lửa. Đọc 'Chiến tranh và hòa bình', ta khâm phục
tài năng
mô tả chiến trận qua trường đoạn về Borodino của tác giả, song để nhận
diện sự
vô nghĩa của chiến tranh, cần phải nhập thân vào công tước Bolkonski,
lúc chàng
bị thương nặng, và bát ngát trên chiến trưòng của những xác chết là một
bầu
trời xanh đến nghi hoặc.
-----------
Đọc 'Con đường đau khổ', ở
những trường đoạn về chiến trận, người ta hay nhắc tới kỳ tích
Xaritxưn. Không
thể khác. Nhưng đoạn buộc tôi phải phục hiện trí nhớ nhiều nhất lại là
đoạn mô
tả cảnh hạm đội Bantic tự khai tử mình. Những tiếng nổ quặn lòng biển
cả. Sóng
gào thét. Gương mặt u ám của những thủy thủ vừa nhập thân vào cách
mạng, những
người sẽ lại là thường dân nếu có cơ may sống sót, khi chiến tranh qua
đi, khi
những cuộc cách mạng thôi gào thét.
*.
Lịch sử Việt Nam
nửa cuối thế kỷ hai mươi là lịch sử của những cuộc chiến kinh hoàng,
của những
cuộc cách mạng dữ dội như vậy. Chịu sự quy định của lịch sử mà con
người đang
viết ra, chứ không phải là của bất kể đường lối chính trị văn hóa nào,
lịch sử
văn học Việt Nam thời hiện đại bao chứa trong nó vô số kể các tác phẩm
viết về
chiến tranh. Tuy nhiên, viết đúng và đủ về cuộc chiến tranh đã buộc cả
dân tộc
phải hành quân, phải nã súng vào nhau, gạt bỏ đi những niềm vui phi
nhân không
phải chỉ của một phía, gạt bỏ đi những kích động hận thù, đại đa số tác
phẩm
viết về chiến tranh ở ta thời gian qua chẳng còn gì để nhớ.
--------------
Có thể tìm lý do ở thời gian.
Các tác phẩm đó bị quên bởi chiến tranh đã là một đề tài lên mốc? Thế
thì giải
thích làm sao chuyện người đọc bốn phương vẫn tìm về những trang sách
cổ điển,
chuyện chính chúng ta hôm nay lại đi tìm những tác phẩm soi chiếu lại
cuộc
chiến của những kẻ từng bị coi là kẻ thù ở đất nước mình? Hay các tác
phẩm viết
về chiến tranh Việt Nam
của
người Việt Nam
chưa đủ sức đọng bởi tác giả của chúng còn thiếu thời gian để lùi xa,
để chiêm
nghiệm, để lắng lọc lại hồn mình? Nhưng vấn đề cốt tử lại là ở chỗ đâu
là góc
nhìn của người cầm bút? 'Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc' của Solokhov vẫn
bị coi là
một tác phẩm chưa hoàn chỉnh và dở của cây đại thụ văn học xô viết này.
Nhưng
nếu không mang thước đo của văn học xô viết để ép vào nó thì ở trong
tác phẩm
này sáng lên những dòng viết rất tuyệt vời mà qua nó người ta hiểu tất
cả sự
khủng khiếp của chiến tranh. Đồng hoa hướng dương rung lên bởi tiếng
súng trận.
Những cánh hoa rơi rơi, lên thân hình bất động của người đã chết. Tiếng
ong vo
ve giữa chiến trường đột nhiên im lặng. Với một số người đọc, đấy không
phải là
sự thi vị hóa chiến tranh. Đấy là một đối lập nghệ thuật đã nói được
sâu sắc
cái phi nhân của cuộc chiến, từ mọi phía.
--------------
Vượt lên trên hiện thực, hóa
thân vào nhân dân, đã có những tác giả viết được những tác phẩm văn học
đáng
nhớ ở cả hai bên bờ Hiền Lương, và sau này ở cả ngoài biên giới Việt
Nam. Xa về
phương Nam có Võ Phiến, Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, có 'Tiền
đồn' của
Thế Uyên, 'Mùa hè đỏ lửa' của Phan Nhật Nam, ' Vài ngày làm việc ở
Chung sự vụ'
của Nguyên Sa... Rất nhiều. Vượt ra ngoài biên giới sau 1975 có Nguyễn
Mộng
Giác với 'Mùa biển động' và hàng loạt tác giả khác, viết về những năm
tháng cũ
như một hành vi trả nợ cho chính mình, cho đồng đội đã người còn người
mất xác.
Rất nhiều. Dẫn liệu này chắc chắn là không tiêu biểu do những hạn chế
trong sự
đọc của người viết. Phía bờ bắc, có Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Trần
Hiếu
Minh, Nguyễn Thi, Nguyễn Trọng Oánh... và đông đảo những cây viết
trưởng thành
trên miền bắc Xã hội chủ nghĩa. 'Đất trắng' của nhà văn quân đội Nguyễn
Trọng
Oánh đã hé ra cái bi thảm của cuộc chiến tranh vừa qua, một chỉ dấu
khác thường
nhưng không thể coi là bất ngờ của văn học trong nước. Bản lĩnh nghệ
thuật của
một nghệ sĩ trước hết là dám nói thật.
*.
Tôi không coi 'Nỗi buồn chiến
tranh' là một sự đột khởi, đột biến của văn học Việt Nam
viết về chiến tranh, viết từ
thế nhìn của người chiến thắng. Bởi trước đó đã có 'Đất trắng'. Nhưng
đúng là
phải chờ Bảo Ninh thì văn học viết về cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam
mới vượt
lên trên tầm 'thường'.
Khi đến với bạn đọc lần đầu,
tác phẩm của Bảo Ninh phải ẩn thân dưới một cái danh khác: 'Thân phận
của tình
yêu.' Rõ là sến, vô nghĩa, rậm lời. Gọi tác phẩm bằng cái tên nguyên
thủy của
nó, mới có thể tiếp cận được với trường cảm xúc của tác giả. Ấy là tình
yêu,
tình bạn, tình đồng đội, tình người.
So với các tác phẩm có chung
một đề tài (chiến tranh chống Mỹ, chiến tranh giải phóng, nội chiến vì
phận
biệt ý thức hệ), 'Nỗi buồn chiến tranh' rất mới về bút pháp. Sự chuyển
đổi thời
gian được mô tả thật nhuyễn, sự trôi chảy của ý thức đã được Bảo Ninh
theo dõi
không ngừng. Tuy nhiên, cái mới đó vẫn chưa thật là mới khi xét nó
trong phạm
vi tiến trình phát triển của văn học thế giới. Cái mới của một tác
phẩm, xét
đến cùng là ở cách 'nghiền ngẫm' hiện thực (chữ dùng của Lê Ngọc Trà).
Trong
nghĩa đó, đi vào đề tài chiến tranh, Bảo Ninh là nhà văn đầu tiên ở
Việt Nam biết
nghiền ngẫm, nói được những điều chưa từng ai nói.
-----------------
Không phải ngẫu nhiên mà 'Nỗi
buồn chiến tranh' đã dấy lên nhiều luồng ý kiến về nó, và ý kiến phê
phán có
lúc đã được đặt lại một cách nghiêm trọng, phi văn chương. Sự phê phán
này đến
từ cả phía những người đọc và người viết vốn rất nhạy cảm ủng hộ những
tác phẩm
văn học có một phận số không vui ở trong nước. Cùng đoạt giải của Hội
nhà văn
năm đó còn có 'Bến không chồng', 'Mảnh đất lắm người nhiều ma'. Các tác
giả
cùng đoạt giải thưởng năm đó với Bảo Ninh viết cũng thực tài, đặc biệt
là
Nguyễn Khắc Trường với 'Mảnh đất lắm người nhiều ma'. Tuy nhiên, xét
đến cùng,
họ chỉ xới xáo lại, thâm canh lại, đạt hiệu suất cao ở một vùng đất đã
từng
được vỡ. Bảo Ninh đi một con đường riêng, tái tạo lại cuộc chiến tranh
cả dân
tộc đã phải lăn mình vào trên một thế nhìn mới, có thể nói rất phi
chính thống.
Nhưng tôi tin rằng đây sẽ là cách nhìn cuộc chiến tranh đã qua của thế
hệ cháu
con ta, một cách nhìn tỉnh táo và nhân bản. Nếu đồng ý với Bảo Ninh về
thế nhìn
này, cùng quan sát và chiêm nghiệm, tất yếu ta sẽ đạt tới một nhận
thức: Không
có chiến thắng trong cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua. Đất nước thống
nhất,
song dân tộc Việt Nam
là một dân tộc thất bại. Chỉ khi nào thừa nhận điều ấy, chỉ khi nào
tước bỏ mọi
hào quang, ta mới trở lại là ta. Không nhất thiết phải đặt câu hỏi đây
có phải
là thông điệp Bảo Ninh muốn gửi tới bạn đọc. Những tác phẩm thực sự giá
trị
luôn luôn lấp lánh những vầng sáng mới trong những hoàn cảnh cụ thể, dị
biệt mà
tác giả chưa chắc đã hình dung ra được.
-------------
'Nỗi buồn chiến tranh' là một
tác phẩm không thể tóm tắt, dù có nhân vật chính. Nếu lấy cặp Kiên
Phương là
trục và tập hợp các sự kiện xung quanh mối quan hệ của họ, hiển nhiên
ta sẽ thu
hẹp phạm vi phản ánh của tác phẩm. Đọc 'Nỗi buồn chiến tranh' có cảm
giác như
đọc rất nhiều cốt truyện. Nhiều đoạn, nhiều câu chuyện trong hồi ức của
Kiên
nếu phát triển sẽ là những truyện ngắn cực hay. Chẳng hạn đoạn mô tả
cảnh
Phương hát cho những chàng lính thủy nghe 'Trên thế giới này ngọn gió
phũ phàng
nào sẽ thổi' vào chính lúc chiến tranh ập tới, vừa phũ phàng, vừa phi
lý. Chẳng
hạn: đoạn kể những người lính lần theo tiếng ghita đệm theo lời hát
'Năm tháng
vinh quang, khổ đau bất tận' mà họ nghe thấy trong giấc mơ để tìm đồng
đội.
Huyền diệu thay, chỗ đất được
định vị có hồn người quả có xương cốt một người lính và bên cạnh đó là
cây đàn
tự tạo còn nguyên vẹn. '... Chẳng biết có phải là do hư cấu thêm không
mà người
ta kể rằng khi vốc xương mùn và cây đàn vừa được đưa lên từ đáy huyệt
thì tất
cả những ai có mặt đều nghe thấy vang lên trong lòng rừng những âm điệu
bi
tráng của bài ca ấy. Sau đó thì vĩnh viễn tắt bặt. Bài ca chắc là đã
mãi mãi
lìa bỏ khu rừng...' (NBCT - 108) Những trường đoạn thấm đẫm chất thơ
buồn trang
trọng như thế không thể kể hết ở tác phẩm. Nhưng khác nhiều tác giả,
Bảo Ninh
không cốt đeo đuổi việc mô tả hiện thực sao cho sống động hay phi
thường. Những
mảnh thực tại chỉ được huy động làm tiêu chí cho Kiên - nhân vật chính
- lần
tìm lại chính mình. Hành trình nội tâm ấy mới cơ cực làm sao. Chỉ khi
nào đi
hết cùng Kiên hành trình ấy, mới nhận diện được gương mặt không phải là
gương
mặt đàn bà của chiến tranh. Cũng vì thế, những đoạn quan trọng nhất của
tác
phẩm phải là những đoạn mô tả Kiên trong trạng thái nhớ lại và suy
nghĩ. Mối
liên kết văn bản của 'Nỗi buồn' nằm ở đây. '... Kiên nhớ...' '... Kiên
nghĩ...'
Kiểu: '... Anh chẳng còn biết dùng đời anh vào chuyện gì nữa, việc học
hành, sự
thành đạt, đường tiến thân tất bật, những gì mà từ khi chiến tranh trở
về anh coi
là trọng bỗng chốc thành bèo bọt cả. Nhưng một kế sinh nhai tàm tạm anh
cũng
chẳng màng. Vẫn sống đấy, vẫn tồn tại đấy, vẫn có mặt, nhưng sâu xa về
mặt tinh
thần thì Kiên đã đầu hàng số phận rồi, trước cái không là gì của số
phận...' Ma
lực do nhân vật này tạo nên không phải là những khoảng đời, những trận
đánh đã
trải mà là những tâm trạng đã sống qua, những nhận thức đã đạt tới thời
chiến
tranh cũng như thời hậu chiến.
---------
Hãy thử cùng Kiên làm sống
dậy hồi ức về Can - một người lính trinh sát quả cảm đã đào ngũ chỉ vì
một lý
do duy nhất, một lý do không ai có thể quay mặt. '... Mấy đêm vừa rồi
tôi toàn
mơ thấy mẹ tôi gọi tôi. Có lẽ anh tôi đã chết mà mẹ tôi khổ não thành
lâm bệnh
rồi chăng?...'
Can đã chết một cái chết thê
thảm, ê chề, trước khi về được với mẹ. '... Thối quá thể là thối, cái
thằng bê
quay chết tiệt ấy. (Lời một người lính vệ binh đã tự tay chôn Can)...
Và cứ mỗi
lần qùy xuống trước bàn thờ các liệt sĩ của trung đội... Kiên thầm thào
khấn
gọi linh hồn Can, người anh em khốn khổ, bạc phước ra đi trong nhục nhã
chẳng
được ai đoái hoài...' Sẽ, khó tránh, lời lên án rằng Bảo Ninh cào bằng
giá trị,
nhân đạo chung chung. Nhưng tôi, một người đọc, lại nghĩ rằng dân tộc
mình sống
còn được chính bởi vì còn có chỗ cho một quan niệm như thế này về người
lính,
về con người... 'Dưới lòng sâu đất ấm của đại ngàn họ chung nhau một số
phận.
Không có người vinh kẻ nhục; không có người hùng kẻ nhát; không có
người đáng
sống và kẻ đáng chết...'
-------------
Nhận thức ấy mới cay đắng làm
sao, và mới đúng làm sao. Rút cục, chỉ làm 'Người' là có nghĩa. Không
có ranh
giới ý thức hệ khi biết nhìn nhau như những con người. Trong 'Nỗi buồn
chiến
tranh' có một trường đoạn thật đáng nhớ: hai đơn vị Quốc - Cộng sống
mái với
nhau - Bom - Anh lính miền Nam ngã lộn vào chiến hào của anh lính miền
Bắc. -
Lưỡi lê lóe sáng. Và, chỉ khi đâm dao lút vào vào người lính miền Nam,
anh lính
miền Bắc mới biết rằng người lính kia đã bị thương từ trước... 'Không
còn tiếng
súng cá nhân. Chỉ còn mưa mỗi lúc một mau. 'Mày nằm đây một lát nhé.
Tao lên
tìm ít vải và bông băng, sẽ quay lại ngay.' Anh ta ngừng rên và chớp
chớp mắt
nhìn tôi, mặt ướt ròng ròng nước mưa, nước mắt và máu... Nhưng tôi ngu
quá, mưa
lụt trời... đáy rừng tanh bành hàng trăm hố bom hố pháo. Cái hố của tôi
và
thằng ngụy ở dưới đó đâu rồi. 'Ngụy ơi, Ngụy ơi'... suốt đêm tôi cứ mò
mẫm lặn
tìm ... Bao năm qua, cứ nhìn cảnh mưa lũ là tim tôi lại như bị thọc
dùi. Tôi
nhớ tới con người ấy, nhớ tới sự ngu ngốc bạo tàn của tôi. Thà rằng tôi
giết
phứt anh ta. Đằng này... Là người thì không ai đáng phải chịu một nhục
hình như
tôi đã bắt anh ta phải chịu... (NBCT - 112)
Trong chiến tranh, nếu đó là
tình đồng đội đồng chí thì dễ hiểu. Nhưng đây là tình người, cái mà
chiến tranh
nhân danh song không chấp nhận. Nhưng chỉ có tình người mới có thể cứu
nổi con
người, chứ không phải là chiến tranh, muôn đời không phải là chiến
tranh. Tác
phẩm giống như một khúc ai ca nói với ta điều đó.
-----------------
Chiến tranh chỉ tàn diệt hồn
người. Người ta đã quen với sự chết đến độ có thể ngồi ăn bên xác chết
(NBCT
-123), song khi người sống xúc phạm người chết thì sự xúc phạm ấy có
giá trị
như một lời cảnh tỉnh 'hãy coi chừng mà xem lại nhân tính' (NBCT -127).
Ở 'Nỗi buồn chiến tranh'
không thiếu những cảnh dữ dội phi nhân nhìn từ cả hai phía, và nếu lấy
ý thức
hệ đo lường thì bên nào cũng có anh hùng. Nhưng, đây là cuối thế kỷ XX,
không
phải là thời của những trường ca một đi không trở lại. Đấy chính là bi
kịch của
dân tộc. Nhớ một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết đã làm say mê hàng
triệu
bạn đọc suốt nửa thế kỷ qua (Cuốn theo chiều gió) từng cắt nghĩa nguyên
nhân
trở thành anh hùng. Có thể vì sợ, vì phải giết đối phương để cứu lấy
mạng sống.
Có thể vì say máu. Tôi nghĩ điều này có lý. Chẳng lẽ lúc đâm lê vào
ngực nhau
người ta có thể nghĩ tới một lời hiệu triệu, một tấm gương dũng liệt
nào. Nhưng
như thế còn ít kinh khủng hơn. Thế đã đủ lắm rồi. Trong cuộc chiến vừa
qua, ở
cả hai phe, Việt Nam
ta đã có không ít anh hùng. 'Lời cầu nguyện cao cả nhất không phải là
lời cầu
xin chiến thắng mà là lời cầu xin hòa bình.' Từ cổ xưa con người đã
biết như
vậy. Nhưng dù thế thì con người vẫn bị cuốn vào vòng xoáy của chiến
tranh. Cái
gì giúp cho con người đứng lại trong qũy đạo chỉ dành cho con người?
Câu trả
lời muôn năm vẫn là tình yêu, vẫn là những hồi ức đẹp nhất về một thời
bình
yên, và cực nhọc thay, còn là khả năng xới xáo lại, soi chiếu lại tâm
can mình,
để nhận diện chính mình.
-------------
Dù hết sức dày dạn, Kiên biết
mình chỉ có hai mối tình. Mối tình đầu tiên dành cho Phương. Mối tình
cuối cùng
cũng dành cho Phương. Phương - người con gái vừa thơ ngây vừa khôn
ngoan, người
con gái dường như không giống một người con gái nào, ngưòi con gái đã
bị vùi
dập tức tưởi, vô lý, không ngờ nhất bởi cuộc chiến tranh mà cô đã chối
bỏ bằng
bản năng và tâm thức - với Kiên, luôn luôn là tất cả và mãi mãi. '...
Rất nhiều
năm về sau này, trong một đêm chìm đắm vào những thất vọng khô cằn,
Kiên đã mơ
thấy đời mình hóa thân thành một dòng sông trôi chảy trước mắt để đưa
anh về
vùng chết, thì đúng giây phút cuối cùng sắp buông mình, Kiên lại chợt
nghe
tiếng gọi của Phương từ buổi hoàng hôn cay đắng năm xưa cất lên kêu gọi
và lay
thức anh. Tiếng gọi cuối cùng ấy của mối tình đầu cũng đồng thời là âm
vang dã
nhập tâm về một cuộc đời hạnh phúc, một tương lai tươi sáng mặc dù đã
bị bỏ lỡ,
đã bị buông rơi nhưng không hề mất đi, mãi mãi còn đó, chờ đợi anh...
Mãi mãi
anh bị cuốn về không gian trải đến cuối chân trời quá khứ, những đốm
lửa chiến
tranh trong đời, vệt sáng của cuộc phiêu lưu đầu tiên và cũng là tia
sáng của
tình yêu rọi lên từ đáy xa thẳm của thời thơ ấu...' (NBCT- 312)
--------------
Phương là thế, là ánh sáng
soi riêng Kiên khi sa chân vào vũng tối của sự chém giết, của những cơn
say
hồng ma ở những nơi chỉ nghe tên thôi đã thấy rợn người: Chuông gọi
hồn, Đồi
xáo thịt. Giấc mơ về một tình yêu không thành với Phương đã giữ Kiên
lại bên bờ
vực mất nhân tính. Người con gái từ năm mười bảy tuổi đã biết rằng mình
sẽ yêu
cha của người yêu nếu ông ta còn trẻ, đã đi trong cuộc đời vừa tỉnh táo
vừa
thác loạn, với Kiên mãi mãi là biểu tượng trong trắng về Người Nữ. Phải
đặt
Phương song hàng với những người đàn bà trong văn học thủa ấy, những
người đàn
bà hát ru người yêu 'chim bằng ngoan của em ơi - đêm nay ngon ngủ sáng
mai lên
đường... (Lý Phương Liên - Lời ru với anh) mới thấy hết sự mới mẻ trong
nhận
cảm về con người của Bảo Ninh. Nhưng tôi nghĩ rằng đây mới đích thực là
gương
mặt người phụ nữ, những con người có bản năng thiên phú để hiểu trước
người đàn
ông rằng chỉ cuộc sống là đáng giá, 'nghĩa vụ của con ngươì trước trời
đất là
sống chứ không phải hy sinh nó, là nếm trải một cách đủ ngành ngọn chứ
không
phải là chối bỏ.' Dõi theo những hồi ức của Kiên về Phương, mái trường
Chu Văn
An, hồ Tây, bãi biển đêm chiến tranh đầu tiên... không hiểu sao tôi cứ
nhớ
Aimatov. Trong Giamilia, ông đã miêu tả cực kỳ sống động ngày những
chàng
Jighit lên đường, khi cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ.
Những trung
đoàn kị binh rùng rùng xuống núi. Cờ bay phía trước đoàn quân. Những
người đàn
bà khóc lặng lẽ. Họ đã khóc như thế ở mọi nơi trên thế giới này, từ lúc
con
người bắt đầu viết lịch sử bằng máu, trên những nẻo đường chiến tranh,
âm thầm
chua xót. Bằng chính khả năng cam chịu ấy, khả năng sống bền bỉ ấy,
những người
đàn bà đã cứu vãn đàn ông và cả thế giới này.
-------------
Ở 'Nỗi buồn chiến tranh',
cùng với Phương, còn có những nhân vật có khả năng tiên cảm chính xác
về cuộc
sống. Không thể không chú ý một điều: Họ đều là nghệ sỹ. Đấy là cha đẻ
(họa sỹ)
và cha dượng (thi sỹ) của Kiên. Họ đã chối bỏ cuộc sống thực tại đang
làm người
ta háo hức (thập niên những năm 60 ở miền Bắc). Người thì bằng hành vi
tự hủy
thế giới nghệ thuật của mình. Người thì bằng ngôn từ. Phương và họ làm
thành
một dòng chảy ngược chiều thời đại, đã có lúc làm Kiên hổ thẹn, bực
bội, nghi
ngờ. Thế nhưng tính chất tiên tri của cảnh tượng người cha hóa tranh
qua lời kể
của Phương, lời dặn trước buổi đi xa của người cha dượng 'Hãy cảnh giác
với tất
cả những gì thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì
đấy' ; câu
hỏi nửa tò mò, nửa nghiêm trang, nửa nhạo báng của Phương: 'Anh sẽ giết
nhiều
người chứ? sẽ trở thành anh hùng chứ?' sẽ đeo đẳng Kiên mãi về sau này,
buộc
anh phải sống một cách rất không bình thường ở chiến trường, phải chùn
tay
trước mỗi hành động báo thù ( NBCT - 1976)...
... Buộc anh phải sống qua
cái mà ở những nước giàu có được gọi là 'Hội chứng chiến tranh'. 'Nhà
văn
phường tôi' - Kiên - còn đồng thời là một con bệnh thần kinh. Khi tiểu
thuyết
này ra đời, đã có nhà phê bình dựa vào đặc điểm này trong tiểu sử Kiên
để phủ
nhận triệt để nhân vật này, qua đó gạt bỏ tất cả những kiến giải xa lạ
với tư
tưởng chính thống về cuộc chiến vừa qua của Bảo Ninh. Tại sao? Những
con bệnh
thần kinh theo dạng này luôn luôn là những con người thông minh và tinh
tế đến
độ có thể trở thành nạn nhân của chính mình vì sự hơn người. Tại sao?
Những
người vừa gạt bỏ Kiên trong tư cách một nhân vật văn học đại diện cho
cách nhìn
chiến tranh nhân bản thế liệu có thể phủ nhận (chẳng hạn) Khuất Nguyên
với 'Ly
tao', Lỗ Tấn với 'Nhật ký người điên'? Trong những cảnh huống nhất
định, rất
nhiều khi những người bị coi là rồ dại lại là kẻ độc tỉnh ở ở thời đại
của
mình: Và cuối cùng: Tại sao phải tuyệt đối hoá một cách nhìn, không
dành một
không gian cho những cách nhìn khác làm giàu có thêm lên cho trí tuệ và
tinh
thần của con người?
---------------
Nhớ xưa Ức Trai từng dạy mong
muốn được báo thù là lẽ thường tình ở con người, song biết dừng không
làm đổ
máu mới là người có nhân. Như thế, hành trình về quá khứ của Kiên là
cần thiết.
Giống như những người lính Mỹ đã mắc hội chứng chiến tranh Việt Nam,
nếu nằm
xuống ở một góc rừng nào đó, Kiên và họ cũng chỉ là một trong thập loại
chúng
sinh. Cuộc đời Kiên là cuộc đời của một kẻ thất bại. Nhưng khi Kiên lần
tìm lại
quá khứ, lúc đầu là trong giấc ngủ và sau đó là trong toàn bộ ngày
sống, khi
Kiên đánh chìm mình vào trong hoang tưởng về quá khứ, vào nghệ thuật,
Kiên đã
tự phục sinh mình. '... Bản thân anh đã không thay đổi cho dù đã trở
nên hoàn
toàn khác. Anh tin rằng Phương của anh cũng vậy. Và nói chung, tất cả
mọi
người, tất cả những ai bị chiến tranh làm cho biến đổi, họ vẫn mãi mãi
là họ
trong quá khứ... Ngày tháng của đời anh cứ lùi lại mãi...'
-----------
Nếu đồng ý với cách nhìn cuộc
chiến tranh vừa qua của Bảo Ninh, ta phải thừa nhận, như đã nói, rằng
dù bên
nào thắng trong cuộc chiến đó thì dân tộc ta vẫn là một dân tộc thất
bại. Thì
có sao! Tại sao lại cứ phải là một dân tộc chiến thắng khi gánh nặng
chiến
thắng không thể nào kham nổi.
Nói dân tộc ta thất bại không
hàm ý chỉ cục diện lịch sử ở đây. Chỉ muốn nhìn vào một sự thực, chiến
thắng
rút cục chỉ thống nhất được lãnh thổ, nhưng lòng người ly tán nhiều
hơn. Không
thể gọi nhân dân ở nửa nước bên kia là 'ngụy', cũng không thể xếp hàng
ngưòi
Việt ở nửa nước bên này dưới tấm biển cộng sản, để tiếp tục thù hận hay
ngờ
vực, nghi kỵ. Hãy thử hoán vị, ta sẽ thấy dù ở đâu, nếu con người không
tự đánh
thức lương tri thì rút cục cũng bị xô vào vòng máu lửa. Còn một sự thực
nữa,
ngang phần cay đắng: những người tham gia vào chiến thắng hoài nghi ý
nghĩa của
chiến thắng. Ở phương diện này, cái nhìn của Kiên, như một văn sỹ) là
rất đáng
chú ý. Nó tách biệt mà thống nhất với cái nhìn hoài nghi chiến tranh
của hai
người cha của anh, của Phương. Có ngẫu nhiên không sự chọn lựa nghệ
thuật của
Bảo Ninh: cả ba nhân vật này cũng lại là nghệ sỹ - cái giống có khả
năng nhạy
cảm thiên phú chỉ để thấu cho hết nỗi đau đớn của con người.
---------
Như thế, cao hơn tình yêu,
tình bạn, tình đồng đội, đồng chí, đồng bào là tình người. Toàn 'Nỗi
buồn chiến
tranh' dù không ít cảnh dữ dội, tàn bạo, vẫn thấm đầy tình người. Người
ta đọc
và nhớ không chỉ hình ảnh những người lính miền Nam miền Bắc chung nhau
một
nghĩa trang, mà còn là hình ảnh những người lính Mỹ trẻ măng, ôm súng
gục vào
vai nhau, không bao giờ tỉnh dậy, không bao giờ ra khỏi chiến hào. Bảo
Ninh mô
tả một cuộc chiến tranh đã xảy ra để cho người ta hiểu cần phải có và
có thể có
một cái nhìn khác về chiến tranh, không tự hào mà cay đắng.
----------
Song song với việc tái hiện
nhiều chiều thời gian và sự chuyển dịch không ngừng của tâm thức nhân
vật, cấu
trúc mở của 'Nỗi buồn chiến tranh' đã cho phép Bảo Ninh lồng rất nhiều
'truyện'
vào trong truyện. Trùng điệp những lớp truyện đó được kể lại với một
ngôn ngữ
rất thơ, mở ra nỗi buồn cao vợi, trang trọng và bình tĩnh của nhân vật,
bao
cuốn người đọc trong sự bình tĩnh, trang trọng, thấm thía và buồn thảm
ấy.
----------
Đấy là kết tinh của tinh thần
nhân bản. Văn học viết về chiến tranh ở Việt Nam
ta, trước Bảo Ninh chưa ai tái
hiện cuộc chiến vừa qua chỉ với sự định hướng của tinh thần ấy. Văn học
thế
giới viết về chiến tranh như thế cũng không có nhiều.
5.1996
Lê Minh Hà