|
ĐÊM
MƠ TRÊN SÔNG VÀM
CỎ
Mái tóc dài thôi em cứ buông
May ngăn được cơn sầu vũ trụ
Tôi sẽ thắp thơ tôi ngàn ánh lửa
Đêm yên bình nghe sóng vỗ ru em
Cao Thoại Châu
Nỗi
buồn Istanbul
Coi
chừng điều kỳ diệu:
Những câu chuyện nguy hiểm của.... Việt Nam!
TLS, 4 Tháng Tư 2008, đọc truyện mới ra lò của Salman Rushdie.
*
Change and Decay: Đổi thay
và Lão hóa!
Trong
số
này, còn một bài về Ông Thánh Của Lò Thiêu, như Kertesz gọi Jean Améry,
tác giả của cuốn At the Mind' s
Limits [Ở những giới hạn của cái đầu]. Tin Văn sẽ [chắc chắn]
chuyển ngữ bài viết, thêm vào những gì đã
giới thiệu về ông người Áo gốc Do Thái này.
Bản dịch tiếng Pháp, tác phẩm của Jean Améry:
Quá tội ác và hình phạt: Luận về vượt qua cái không thể vượt qua
[Bản này, của độc giả Tin Văn tặng Gấu. Tks. NQT]
*
Vị Thánh của Lò Thiêu
Tôi đã nói nhiều lần là Jean Améry – với quyển Vượt Quá Tội Ác Và Hình Phạt - Khảo luận
để vượt lên cái không thể vượt được - Par-delà le crime et le
châtiment. Essai pour surmonter l'insurmontable, Actes Sud, 1995
- là “vị thánh của Holocauste”. Đó là một nhân vật tột cùng. Ông đi đến
cái tột cùng, không tự che đậy, biết rằng tất cả những điều này sẽ phải
trả giá bằng cuộc tự sát.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài viết của Sebald về Ông Thánh Lò Thiêu, Jean
Améry, trong Về Lịch Sử Tự Nhiên Của Hủy Diệt, On The Natural History
Of Destruction.
Chống Bất Phản Hồi,
Against the Irreversible:
On Jean Amery, Về Jean Améry
Với Améry, thế giới Chủ Nghĩa Phát Xít Đức trù tính thực hiện là thế
giới của tra tấn, trong đó, con người hiện hữu, chỉ để làm thịt, kẻ
đứng kế nó.
Tra tấn có một tính chất không thể nào tẩy xoá đi được: Kẻ nào bị tra
tấn, là suốt đời bị tra tấn. Whoever was tortured, stays tortured.
Nhật Ký
*
Jean Améry
From Wikipedia, the free encyclopedia.
Jean Améry (October 21, 1912 - October
17, 1978) was an Austrian of Jewish descent. He was born in Vienna, Austria as Hans Maier. He
lived in Hohenems, a small resort city in the state of Vorarlberg.
He later moved to Belgium to escape the
Nazis. When they invaded that country, he became active in the
resistance. He was captured and imprisoned, first in Auschwitz,
Buchenwald and then to Bergen-Belsen
before being liberated by the advancing Red Army in 1945.
After the war, he changed his name to Jean Améry (a French anagram of
his given name) and refused to write in German for many years.Published Works
At the
Mind's Limits: Contemplations by a Survivor On Auschwitz and Its
Realities, Indiana University Press.
[Người Áo, gốc Do Thái, sinh ra với tên Hans Maier, sau đổi qua tiếng
Tây, là Jean Améry. Từ chối viết bằng tiếng Đức trong nhiều năm. Đã
từng chiến đấu trong Kháng chiến Pháp, bị bắt, trải qua ba trại tù của
Đức, được Hồng Quân giải thoát năm 1945]
Vũ
Thư Hiên vs Koestler
Cái tít
"VTH vs
Koestler" này, chỉ liên can đến cái vụ ông Yankee mũi tẹt VTH cầm nhầm
cái
tít cuốn sách của Koestler.
Có thể ông không thực tình có
cái ý đó. Nhưng khi viết xong cuốn của ông, thì chợt bật ra (1) cái tít
và
cùng với
nó, những ngày đầu vô Nam săn lùng chiến lợi phẩm, nhanh tay lẹ chân
tóm được cuốn Đêm
giữa ban
ngày, nội dung cuốn sách sao giống trường hợp của ta thế. Cũng
một đời
cung
cúc, tận tụy, hy sinh cho Đảng, mà cuối cùng lại đi tù vì tội chống
Đảng!
Quái một cái, là không lẽ một
dịch giả như Phạm Minh Ngọc không lẽ không biết đến vụ việc này, mà lại
"vừa đánh trống vừa ăn cướp", khi phán:
Người dịch cho rằng sẽ rất
hợp lý nếu chuyển ngữ tên tác phẩm này thành Đêm giữa ban ngày nếu như
trước đó
chưa có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng tên của nhà văn Vũ Thư Hiên.
Đấy là ông viết. Còn trong
bụng, ông nghĩ: Tay mũi lõ này ăn cắp
cái tít
của "bạn ta", là VTH!
(1)
Chuyện đã từng xẩy ra với Faulkner. Ông viết xong cuốn Âm thanh và Cuồng nộ, nhưng không
làm sao kiếm được một cái tít cho nó, thế rồi, một ngày bất thần, từ
trong tiềm thức, cái tít bật ra, và cùng với nó, là nội dung cuốn sách:
Đây là một câu chuyện
được kể bởi một tên khùng, đầy âm thanh và cuồng
nộ, và chẳng có nghĩa gì cả.
Shakespeare.
Ông Yankee mũi lõ thì đi một đường ghi chú. Ông Yankee mũi tẹt, vờ
luôn, khiến ông bạn của ông, là dịch giả PMN, mắc lỡm!
*
Đã từng xẩy ra một vụ việc,
một ông Mít chôm tên tác phẩm của một người khác, khi đem cuốn sách
tặng một
anh bạn thân hồi còn nghèo khổ sau 1975, cùng nhau đi bán sách cũ, thâu
gom
đồng nát... Anh này nói, cái tít này của người đó, người đó.
Anh kia bèn buồn rầu than:
Vậy mà tao tưởng không còn ai
nhớ chuyện xưa tích cũ đó chứ!
Theo cái đà suy nghĩ như vậy,
Gấu này sợ rằng, tất cả tác phẩm của Miền Nam ngày nào, đều sẽ tái
sinh, và đều
được cắt nghĩa, như là PMN cắt nghĩa: Tao tưởng mọi người đều quên,
ngày nào có
một Miền Nam khác hẳn Miền Bắc chứ!
Đây là điều thực sự xẩy ra, ở
những thế hệ Miền Nam sinh sau 1975, chẳng biết gì về một Miền Nam
trước 1975,
vậy mà cũng cứ mơ mơ hồ hồ, về một thiên đàng đã mất.
Re: Câu
hỏi về bài thơ của
thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Vâng, đã đọc. Chuyện văn thơ của các ngài thi
sĩ đó có
thể nói hoài chẳng dứt nhưng cũng có thể chung qui được một điều: 19
năm văn
chương Miền Nam là
một điểm
son trong văn chương (toàn cõi) Việt Nam thời cận đại mà ảnh
hưởng của
nó vẫn còn đến ngày nay. Cháu chỉ sống trong thời đó chừng vài ba năm
do sinh
sau đẻ muộn. Chỉ biết được những dòng thơ lời hát đó qua người nhà và
khi đi
khỏi Việt Nam
(cũng hơn ½ đời người). Nhưng vẫn ấp ủ nó trong lòng như một hoài niệm
về thời
hoàng kim nào đó. Điều thú vị là sau nầy về Việt Nam
gặp những đứa em bà con, những
người bạn mới đều sinh sau 75 và đều có chung một hoài niệm đó.
Re: comments về Nguyễn Ngọc
Tư và vài bài nhận định khác: Cháu nghĩ chú đem suy nghĩ và hy vọng của
chú vào
NNT. Theo cháu nhà văn nầy không có nghĩ đến mức đó đâu.
Lan N
Blog Tin Văn
*
Nhân nói chuyện chôm chĩa, Gấu cũng đã từng lâm trường hợp y chang VTH:
Chôm mà không biết mình chôm!
Đó là câu "Thắng trận nhục nhã lắm". Gấu cứ nghĩ, mình là tác giả của
câu phán oanh liệt như vậy. Chỉ mãi đến khi, một tờ báo Tây ra số đặc
biệt, về Malaparte, Gấu mới ngớ ra, là mình chôm, trong khi dịch ông
này!
Có hai
cuốn khác của Koestler cũng được dịch là Nội chiến bi thảm và Tội không
thành, Thượng đế đã chết trong thành phố, Nguyễn Quốc Trụ dịch. Đây là
những tác giả bị người Cộng Sản xếp vào loại sách phản động chống Cộng.
Nguyễn
Văn Lục, trong đoạn trích trên, từ bài viết của ông trên Hợp Lưu, về
văn dịch trước 1975 tại miền nam, đã lầm cuốn tôi dịch, Thượng Đế Đã
Chết Trong Thành Phố, là của Koestler.
Nội Chiến Bi Thảm, chắc là cuốn
Di Chúc Tây Ban Nha. Tội Công Thành [công, như trong công và tội], chắc
là một bản dịch khác của Bóng Đêm Giữa Ban Ngày. Cả hai đều của
Koestler. Nhưng Thượng Đế Đã Ngỏm Củ Tỉ, tôi dịch cuốn La Peau, [Làn
Da], bản dịch tiếng Pháp, của một tác giả Ý, Curzio Malaparte
[1898-1957]. Ông còn là tác giả Kỹ Thuật Đảo Chánh, hình như Bửu Ý cũng
đã dịch ra tiếng Việt, lẽ dĩ nhiên, trước 1975.
Thượng Đế Đã Ngỏm Củ Tỉ, mới đây thôi [1998] lại được mấy ông Tây tái
bản, và hít hà, nhân kỷ niệm lần thứ 100 năm sinh của Malaparte.
Viết về thời kỳ 1943-1945, khi Mẽo giải phóng Ý. Câu chót của cuốn
sách, bây giờ đọc lại, trên tờ Lire, Đọc, số Tháng Mười 1998, Gấu tôi
mới biết là mình thuổng của ông: “Thắng trận nhục lắm”. [C’est une
honte de gagner une guerre].
Nạn nhân đầu tiên sau 1975 của VC
*
Cái cuốn La Peau này, nói
chuyện lính Mẽo giải phóng Ý, miêu tả những chuyện giống y chang những
ngày Mẽo vô Miền Nam trước 1975. Cảnh Mẽo mua hàng PX phục vụ cả một
đại gia đình bên vợ. Cảnh, xe Mẽo chở hàng container, phom phom chạy
trên đường Hai Bà Trưng, có xe MP dẫn đường, trong khi phía sau xe, Mít
đã mở container, cứ thế thẩy hàng xuống cho đồng bọn.
Mấy anh lái sách mang ra hải ngoại, nhờ vậy mà còn
*
Nhân nói chuyện GI mua hàng
Hợp Tác xã Mẽo phục vụ gia đình em Ca Ve, Xờ Nách Ba, Gấu có một kỷ
niệm thật là tuyệt vời, liên quan tới em Mai [Mai, Mai, để anh kể cho
em nghe về một thành phố mà anh vừa mê tít thò lò thì đã phải bỏ
chạy...]
*
Mai, Mai, để
anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời
bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó trong quá khứ
những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười
giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội, những lá
cây vàng úa, hàng cây hai bên đường hình như cao thêm, thành phố trang
nghiêm và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi sáng trong suốt
không vẩn một hạt bụi, tiết trời lành lạnh người ta quên đi, rồi đột
nhiên nhớ lại, và chút giá lạnh đã len vào tâm hồn; buổi chiều sẽ bất
chợt trở về, những con đường sẽ im lìm và trầm lặng hơn như giấu giếm
một tiếng thở dài; chúng như bị bỏ quên, trừ một hai cặp tình nhân đi
lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể cho em nghe về một thành
phố mùa thu có những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi bay trong gió, mùa
hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông, nằm trên cát
nóng bỏng, nhìn thẳng vào mặt trời.
Notes
on Writing and the Nation
Salman Rushdie
Ghi chú về Viết và Nước
*
A DECLARATION OF INDEPENDENCE
Tuyên
ngôn Độc lập
Writers are citizens of many
countries: the finite and frontiered country of observable reality and
everyday
life, the boundless kingdom of the imagination, the half-lost land of
memory,
the federations of the heart which are both hot and cold, the united
states of
the mind (calm and turbulent, broad and narrow, ordered and deranged),
the
celestial and infernal nations of desire, and-perhaps the most
important of all
our habitations-the unfettered republic of the tongue. These are the
countries
that our Parliament of Writers can claim, truthfully and with both
humility and
pride, to represent. Together they comprise a greater territory than
that
governed by any worldly power; yet their defenses against that power
can seem
very weak.
Salman Rushdie
Nhà văn là công dân của nhiều
xứ sở: xứ sở hữu hạn, có biên giới, của thực tại quan sát được
và đời
sống thường nhật, vương quốc không bến bờ của tưởng tượng, miền đất
mất một
nửa của hồi ức, những liên bang của trái tim, nóng và lạnh, những hiệp
chúng
quốc của cái đầu (êm ả hoặc giông bão, rộng rãi hoặc chật hẹp, ngăn nắp
hoặc
hoặc xô bồ), những thiên đàng hoặc địa ngục của đam mê, thèm muốn, và
có lẽ, xứ
sở quan trọng nhất của tất cả những cư ngụ – xứ cộng hoà không thể nào
bị kìm
kẹp của tiếng nói.
Đó là những xứ sở mà Nghị
viện của những nhà văn có thể tuyên bố, một cách chân thực, và với cả
hai, sự
tủi nhục và lòng tự hào: Chúng tôi đại diện cho chúng. Cộng tất cả
những xứ sở
đó lại, chúng lớn lao hơn bất cứ một lãnh thổ nào được cai trị bởi bất
cứ một
quyền lực nào ở trên trái đất này, tuy nhiên, sự chống đỡ, bảo vệ của
Nghị Viện
Nhà Văn, chống lại quyền lực trần gian kia, xem ra hơi rất bị yếu.
TCS vs LS
Blessed is he who visited this world
In its fatal moments
Akhmatova: Third Elegy [1945]
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,
Vào đúng lúc thê thảm như thế này.
Lèm bèm về
dòng văn
học "Lạc Đường"
Era of the Witness: Thời của chứng
nhân
Era of the
Witness là thuật ngữ của
nữ sử gia người Pháp. Annette Wieviork, để chỉ thời đại của chúng ta,
chỉ trông mong vào lời chứng của chứng nhân để chuyên chở sự thực lịch
sử, ... witness testimony is believed to be the way to
convey historical truth.
Có vẻ như những tác phẩm gần đây của chúng ta, là cũng nằm trong "era
of the witness": Đêm giữa ban ngày, Chuyện kể năm 2000, Ba người khác,
Lạc Đường....
Đặt cái tít cho bài điểm cuốn Những
Kẻ nói thầm, là Witness
Protection [Bảo vệ người chứng], Lewis Siegebaulm, trên tờ Điểm
Sách London, ngày 10 Tháng Tư, 2008, chắc là muốn nhắc tới những
phim mafia. Đây là những tài liệu sống, hiếm, quí, còn sót lại của
những Lò Thiêu, Lò Cải Tạo.
Tất cả, do ăn bậy, "gen" bị đột biến, biến thành ruồi, còn độc me-xừ
Đào Hiếu, sao không quí, hiếm?
*
Mật vụ Liên Xô NKVD đến bắt cha của Angelina và Nelly Bushueva vào năm
1937, khi đó cô chị ba tuổi, cô em một tuổi. Hai chị em bị đưa đi trại
mồ côi khác nhau, còn bà mẹ, Zinaida, bị đưa đi lao động cải tạo tại
trại dành riêng cho Vợ của những tên phản quốc [the Akmolinsk Labour
Camp for Wives of Traitors to the Motherland], cùng với người anh của
hai chị em, Slava. Bà mẹ ruột của mẹ hai cô bé tìm được Nelly vài tuần
lễ sau, còn Angelina tới 1940 mới tìm lại được. Mấy cô bé được đoàn tụ
với mẹ và anh, tại trại lao động, ở đó, chúng cũng được đi học. Sau khi
bà mẹ được thả, mấy mẹ con dời tới một vùng ngoại vi Perm sinh sống, vì
bà mẹ không được quyền ở trong thành phố. Bà làm việc trong một văn
phòng bảo hiểm của nhà nước, còn cô Nelly, khi đó 12, chạy giấy tờ. Vào
năm 1951, Angelina vô học viện sư phạm ở Perm, và trở thành bí thư chi
đoàn, sau lấy một ông sĩ quan CS làm việc tại cơ xưởng mà cô làm
việc từ 1962 tới khi về hưu vào năm 1991. Cùng năm này, hai chị em được
biết, bố, năm 1937, đang làm công nhân, bị bắt vì là "kẻ thù của
nhân dân",
và bị xử tử tháng Giêng năm 1938. Bà mẹ mất năm 1992.
Orlando Figes kể theo kiểu từng phần một, in piecemeal fashion, những
câu chuyện của hàng trăm gia đình như thế, trải dài 700 trang sách của
ông. Những Kẻ Thì Thầm đặt
nước Nga vào trong "thời của người chứng", như nữ sử gia người Pháp đã
đặt tên cho nó. Thời của người chứng, như thế, chủ yếu dựa vào hồi ức
của những người sống sót.
*
To the End of Hell: One Woman's
Struggle to Survive Cambodia's
Khmer Rouge. By Denise Affonco. Reportage Press; 165 pages; £15.99
Tới tận cùng địa ngục: Cuộc chiến đấu của một người đàn bà để sống sót
Khờ Me Đỏ.
Đã ba thập kỷ kể từ khi cuộc điều tra
bắt đầu, và đầu tháng này, tòa án do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, xử tội
phạm chiến tranh tại Cambodia mới có quyết định đầu tiên, không cho
đóng tiền tại ngoại, nghi can số 1, Duch, trùm trung tâm tra tấn ghê
rợn Tuol Sleng, dưới thời Khờ Me Đỏ, từ Tháng Tư 1975 tới 1979.
Duch, 67, ít tuổi nhất, so với các bậc đàn anh, Khieu Samphan, chủ tịch
nước, 73, chết vì bịnh tim năm ngoái, Ieng Sary, bộ trưởng ngoại giao,
82, tay anh em rể, Saloth Sar, nổi danh với cái tên Pol Pot, chết năm
1998, như là một con người tự do.
Được xuất bản bởi "The Extraordinary Chambers in the Courts of
Cambodia", đây là một cuốn hồi ký của Denise Affonso. Những gì xẩy ra,
và được tác giả kể lại trong đó, là một bằng chứng cho thấy, một trong
những tội ác ghê rợn nhất của thế kỷ cần được tính tới, và đưa ra ánh
sáng.
Nửa Pháp, nửa Việt Nam,
một sản phẩm xịn của chủ nghĩa thực dân thuộc địa, tác giả cuốn hồi ký
có thể đúng thứ người chịu đựng những đau khổ, do cơn điên khùng của
Pol Pot gây nên. Bà đã không chụp lấy cơ hội, khi là nhân viên của tòa
đại sứ Pháp, để mà bỏ chạy. Ông chồng của bà, một tay Cộng Sản, đã chào
mừng ông chủ mới bằng những chai bia Trung Quốc.
Ông bị xử tử liền sau đó, nhưng phải hơn ba năm sau, bà vợ mới biết.
Vào thời gian đó, bà cũng đã mất cô con gái, và tất cả những người thân
trong gia đình.
Bà sống sót, và kể lại những gì đã xẩy ra. Chế độ Khờ Me Đỏ nổi tiếng
vì những tội ác ghê rợn và sự ngu xuẩn, phi lý của nó. Nhưng trong tất
cả, là cái ác xấu xa ghê tởm này: Tạo ra nạn đói, tại một vùng đất mầu
mỡ. Bà tin rằng, họ muốn "nhìn thấy tất cả chúng tôi chết, người nọ
tiếp người kia, do kiệt sức, đói, và bịnh tật".
Câu hỏi không thể nào trả lời, lẽ tự nhiên, là: "Tại sao?"
Từ chủ nghĩa Stalin tới Taliban, sự điên khùng quái thai của chủ nghĩa
toàn trị là con đẻ quặt quẹo của những chủ nghĩa lý tưởng ngây ngô, và
Khờ Me Đỏ có gốc rễ của nó trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Mao tại
Trung Hoa.
*
Có một sự đối xứng, khi cuốn sách xuất hiện vào lúc này. “Tới Tận Cùng
Địa Ngục”, khởi đầu bằng đời sống, và nó như một chứng tích dành cho
tòa án, mở ra với khiếm diện của Pol Pot, và Ieng Sary, vào năm 1979,
sau sự xâm lăng của Việt Nam lật đổ chế độ Khờ Me Đỏ.
Nguồn gốc của những phiên tòa, chỉ có một nửa, nếu chỉ nói đến cơn ác
mộng mà chế độ này gây ra, thí dụ như qua cuốn hồi ký, mà còn phải kể
ra cuộc xâm lăng giải phóng của Việt Nam: rằng, trong số những kẻ đang
cầm đầu đất nước này, có những tên Khờ Me Đỏ đã được “tái tạo”
[reformed], như thủ tướng Hun Sen [the demagogic prime minister Hun
Sen, chữ của Người Kinh Tế].
*
Câu hỏi trên, không thể trả lời, "Tại sao?", cũng phải đặt ra cho toàn
thể xứ Mít sau 30 Tháng Tư 1975: Tại sao, đúng vào lúc bước ngoặt lịch
sử như thế, thảnh thơi xây căn nhà bằng năm bằng mười, lại xẩy ra hiện
tượng con bọ?
*
Còn sự đồng thuận nào hơn sự đồng thuận: Nếu cần đốt sạch dẫy Trường
Sơn, cũng phải đốt.
Nhưng sau đó, cái gì xẩy ra?
Nhật Ký
|