|
Thơ Mỗi Ngày
CHU SHU CHEN
c. 1200
I nearly
fell in love with this poet, Chu Shu Chen, about whom not much is known
except
that she lived some time around 1200, and one morning suffered because
of her
solitude. Reluctantly yet willingly she listened to her servant, who
was ready
to enhance her physical charm. The plum flower had a clearly erotic
meaning in
that civilization.
Czeslaw
Milosz
Xém 1 tí là
tôi tương tư nhà thơ này, Chu Shu Chen, mà chúng ta chẳng biết gì,
ngoài chuyện,
nàng sống đâu đó ở cái năm 1200, và vào một buổi sáng , nàng ngủ dậy,
và rất ư đau thương vì nỗi cô đơn của mình. Tuy ngần ngại, nhưng nàng
cũng có tí
muốn, lắng nghe cô người hầu, lúc này đã sẵn sàng làm đẹp cho cô chủ.
Cái bông hoa
mận mà cô người hầu cài lên mái tóc cô chủ mới ướt át làm sao, trong
cõi văn
minh Tẫu!
Bạn đọc bài
thơ và đọc thêm bài thơ tiếp, và kết thúc "niềm vui" của mình, bằng
"chuyện của
Gấu".
MORNING
I get up. I
am sick of
Rouging my
cheeks. My face in
The mirror
disgusts me. My
Thin
shoulders are bowed with
Hopelessness.
Tears of loneliness
Well up in
my eyes. Wearily
I open my
toilet table.
I arch and
paint my eyebrows
And steam my
heavy braids.
My maid is
so stupid that she
Offers me
plum blossoms for my hair.
Translated
from the Chinese by Kenneth Rexroth
ANNA SWIR
1909-1984
Poems about an old woman
are rare, as if there were a tendency to relegate her to the realm of
half-existence. But Polish poet Anna Swir returns to that subject
several times with love and compassion.
Thơ về bà già thì hiếm,
như thể, có khuynh hướng coi bà già thuộc ‘nửa cõi’, [chân trong chân
ngoài, huyệt; hay, giường?].
Tuy nhiên nhà thơ nữ Ba Lan, Anna Swir, trở lại với đề tài này vài lần,
với tình yêu và cảm thông
THE GREATEST LOVE
She is sixty. She lives
the greatest love of her life.
She walks arm-in-arm with
her dear one,
her hair streams in the wind.
Her dear one says:
"You have hair like pearls."
Her children say:
"Old fool."
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan
Mối tình vĩ đại nhất
Nàng sáu bó,
sống mối tình lớn lao nhất của nàng.
Nàng dạo bước, tay trong
tay với người tình
Tóc nàng chảy dài theo gió
Người yêu nịnh nàng:
“Tóc em như ngọc trai”.
Mấy đứa con của nàng thì
gật gù:
“Đúng là bà già khùng!” (1)
Note: Bài thơ này, để ở
mục “Cali”, là vì nó làm nhớ đến 1 kỷ niệm tuyệt vời liên quan tới Cali
Tháng Tám, và hơn thế nữa, đến mối tình cực nhảm, cực già, và cũng cực
thê luơng của GCC!
Hà, hà!
Lần đó, Gấu
qua Tiểu Sài Gòn, ở nhà họa sĩ NDT, và 1 buổi sáng, có 1 bà bạn của phu
nhân họa
sĩ, tới thăm. Bà đẹp quá, trắng nõn, và bất thình lình Gấu “chẳng xém 1
tí”, mà
liền mê bà. Lạ làm sao, bà cũng bị xúc động, đến quên tất cả. Khi Gấu
chợt tỉnh,
thì bà cũng chợt tỉnh, không còn là 1 thiếu nữ nữa, như Gấu là 1 tên
già sắp ngỏm.
Và bà, mặt đỏ
ửng, bẽn lẽn nói, chẳng ăn nhập gì với tình cảnh, và, như có vẻ xin
lỗi, “Tôi,
tôi sáu chục tuổi rồi đấy!”
Sau đó, khi
bà bạn ra về, phu nhân họa sĩ NDT cười ngất, ối giời ơi, anh Gấu ơi, bà
đó già
hơn cả tôi đấy!
Bà chứng kiến
suốt, cú sét đánh, của cả hai!
À UN POÈTE
MINEUR
DE L'ANTHOLOGIE
Qu'est
devenue, ami, la mémoire des jours
que tu possédas
sur cette terre, ce tissu
de bonheur
et de douleur, ton univers à toi?
Le dénombrable
fleuve des années
a tout égaré
; tu n'es plus qu'un nom dans un index.
Les autres
recurent des dieux une interminable gloire,
des
inscriptions, des exergues, des monuments et de
ponctuels
historiens ;
nous savons
seulement de toi, obscur ami,
que tu
entendis le rossignol, un soir.
Parmi les
asphodèles de l'ombre, ton ombre vaine
doit penser
que les dieux furent avares.
Mais les
jours sont un filet de misères triviales ;
qui sait si
le meilleur sort n'est pas d' être la cendre
dont est
fait l'oubli ?
Sur d'autres
les dieux ont jeté
la lumière
inexorable de la gloire, qui observe les entrailles
et dénombre les crevasses,
de la
gloire, qui finit par friper la rose qu'elle vénère;
pour toi,
mon frère, leur pitié fut plus grande.
Dans l'extase
d'un soir qui ne doit pas être une nuit,
tu entends
la voix du rossignol de Théocrite.
J.L. Borges
Cờ
Tướng, Borges 1
2
Ở cái góc nghiêm trọng của
họ,
Những kỳ thủ di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận giữa hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Thời gian quen Joseph
Huỳnh Văn, Gấu tình cờ vớ được 1 bài thơ, bản tiếng Tây, của Borges;
một bài thơ nói về hạnh phúc. Ðọc thích quá, Gấu bèn dịch, đưa cho anh
đọc, và 1 tay nữa, nhạc sĩ Vũ Ngọc Giàu, tình cờ gặp lần đầu ở quán cà
phê Bà Lê Chân, của Huy Tưởng.
Ðó có lẽ là lần đầu tiên Gấu biết tới Borges.
Sau này, ra hải ngoại, đọc Borges, Gấu cố kiếm bài thơ cũ, mà không làm
sao kiếm ra. Khi biết tin anh mất, và có số điện thoại của gia đình,
Gấu có gọi về hỏi thăm, và chia buồn, bà xã của anh có nhắc tới đám bạn
quen từ trước 1975 mà chị còn nhớ, và nhân đó, chị nhắc tới bài thơ về
Hà Nội, mà ông chồng đang làm, chưa xong, cho tới khi anh đi, và chẳng
ai còn biết được nó ra làm sao, dù ai cũng gật gù, hay, hay lắm.
Trong một bài viết về anh,
Gấu có nhắc tới câu chuyện này, Hà Nội anh chưa từng nhìn thấy [vì có
bao giờ tính ra thăm đâu, chắc thế], và bài thơ dang dở về nó.
Dolphins
Cá heo
Mặt trời lặn, và những con
bồ nông tò mò bay ngay ở trên mặt biển, mềm như da một em
Bạn ngắm 1 tay câu cá làm thịt một con cá chẳng may lọt vô tay anh ta
Ui cái tay đánh cá mới tự tin tuyệt vời, tuyệt đối, vô địch
làm sao về cái tính nhân đạo của hắn!
Hà, hà!
Trong khi đó, những đám mây màu hồng bắt đầu chuyến diễn
hành chầm chậm, trang nghiêm, về phiá những ngọn đồi thấp dưới chân núi
của ban đêm.
Bạn ngưng 1 thoáng chốc, đợi nhìn những chú cá heo – có thể,
một lần nữa, chúng sẽ đi một đường tăng gô thân thiện trứ danh – ở đây,
Vịnh
Mexico, nơi bạn tìm thấy dấu bánh xe, và những con trai dọc theo bờ
biển.
Và
những con cua hăm hở
phóng ra khỏi cát, như những công nhân bỏ chạy hàng loạt, ra khỏi 1
xưởng
máy ngầm
ở dưới biển
Bạn
nhận ra
những cái tháp bỏ hoang, gỉ sét đùn đầy
Bạn tản bộ dọc
theo khu sỏi đá và đưa tay vẫy vẫy mấy tay câu cá,
Có vẻ đôn hậu,
câu cá xem ra không phải môn thể thao của họ, mà chỉ là chút hy vọng,
này, cố nán
ở đây, đừng về nhà đừng bữa tối vội.
Còn sớm chán!
Một con tầu
to tổ bố, màu gạch đỏ, từ Monrovia, cập cảng
Như một con
thú tưởng tượng, kỳ cục, khoe khoang vẻ
kỳ cục của chính nó,
Và trong một thoáng, che mẹ mất đường chân trời.
Bạn thấy đấy,
thật cũng đáng lắm chứ, cái việc tìm kiếm những thứ bịnh sốt rét, đái
ra máu,
Những dấu vết tỉnh lẻ, chúng làm nhớ nhiều, nhưng kín đáo, thầm lặng,
Những nơi
chốn khiêm tốn, giầu có, nhưng không chường mặt ra, những cái túi áo,
túi quần ẩn
giấu của hồi ức, kỷ niệm,
Giống như chiếc áo khoác của những người thợ săn vào
mùa đông,
Những vùng ngoại vi thành phố bát nháo, những vùng đất hoang, nơi chẳng
có gì xẩy ra
Làm gì có những
ca sĩ, diễn viên
Làm gì có chính
trị gia, ký giả
Xuất hiện ở đó?
Nhưng đôi
khi, thơ sinh ra từ sự trống rỗng
Và tớ đoán là,
bạn nghĩ, hay là, tuổi thơ mình ngưng ở đây,
Ở đây, xa những
khu phố quen thuộc từ đời nảo đời nào -
Kể từ khi, sự
vắng
mặt, sau cùng, không thể nào tính
Bằng những năm ánh sáng, hay hàng hàng cây số
Thay vì vậy,
thì là, lặng lẽ đợi
Sự trở về của bạn, chẳng hồ nghi,
Về cái chuyện bạn bây
giờ ra sao,
Thân tàn ma dại, hay, áo gấm trở về làng?
Xứ Mít, sẽ gặp
bạn, và đếch thèm phô trương, loè loẹt, phán:
Mi có biết
ta chăng? Mi còn nhớ ta chứ?
Ta là con
tem, trong bộ sưu tập đã biến mất của mi
Ta là con
tem chỉ cho mi thấy con cá heo thứ nhất trong đời của mi,
Ở trong cõi mù mịt,
xanh rờn, ẩm ướt, không thực
[Cái nơi chốn âm u, đen rì, ẩm ướt mà Thượng Đế lẩn
khuất?]
Ta là dấu hiệu
của viễn du
Bất động.
Note: Bài
thơ thần sầu. Gấu dịch, mà run lên vì hạnh phúc, nhưng thú thực, bản
dịch
chưa tới!
Ui chao, cũng
chỉ là tình cờ, Gấu đọc được mấy câu sau đây, trong cuốn Borges mới
tậu; ông trích
từ 1 bài thơ của Chesterton, quá hợp với Gấu, trong khi chờ sinh nhật
của mình
(16/8):
“Tuổi thơ thứ
nhì”:
Ta sẽ chẳng thèm
già hơn nữa
Để nhìn thấy
một đêm khổng lồ
Lừng lững dấy
lên,
Một đám mây lớn hơn cả thế giới
Và một con
quỉ làm bằng những con mắt.
Và Borges lèm
bèm:
Không phải
con quỉ đầy mắt (chúng ta
biết những con quỉ này từ Khải Huyền Saint John) nhưng
– cái này thì thực quá khủng – một con quỉ làm bởi những con mắt, như
thể những
con mắt là những thớ thịt sống của nó.
Let me take
a different example - one of the stanzas that have most struck me. The
lines
come from a poem by Chesterton called
"A Second Childhood":
But I shall
not grow too old to see enormous night
arise,
A
cloud that is larger than the world
And a
monster made of eyes.
Not a
monster full of eyes (we know those
monsters from the
Revelation of Saint John) but-and this is far more awful - a monster
made of
eyes, as if those eyes were the living tissue of him.
Borges có phán,
trong nói chuyện về thơ, thơ là để trao
cho thi sĩ.
Quá tuyệt. Ông ta đã biết trước, nhân loại sẽ còn khổ dài dài vì nhưng
ông đếch phải thi sĩ, nhưng cứ cố tình mần thơ.
Tuy nhiên, từ
cái hồi mê thơ, và dịch thơ, thì Gấu mới hiểu ra 1 điều mà Borges
quên phán:
Một bài thơ làm ra là để chờ được dịch.
Nhưng
Borges, lại ông, trong cuốn sách Gấu mới rinh về, This craft of verse, như bổ
sung ý kiến của ông, khi nhắc tới ý này, thơ, có bài, ai cũng biết,
cũng thuộc,
nhưng có lẽ chẳng ai để ý đến, nó lạ ra làm sao, ấy là bởi vì những gì
hoàn hảo
ở trong thơ thì không có vẻ lạ, mà là, không thể tránh được. For perfect things
in poetry do not seem strange; they seem inevitable.
Với xứ
Mít, có vẻ như
"chúng" - không phải "chúng ta"- đếch cần làm thơ, mà cần dịch
thơ, cái hoàn hảo không thể tránh được!
Hà, hà!
Dolphins
Cá heo
Mặt trời lặn, và những con
bồ nông tò mò bay ngay ở trên mặt biển, mềm như da một em
Bạn ngắm 1 tay câu cá làm thịt một con cá chẳng may lọt vô tay anh ta
Ui cái tay đánh cá mới tự tin tuyệt vời, tuyệt đối, vô địch
làm sao về cái tính nhân đạo của hắn!
Hà, hà!
Trong khi đó, những đám mây màu hồng bắt đầu chuyến diễn
hành chầm chậm, trang nghiêm, về phiá những ngọn đồi thấp dưới chân núi
của ban đêm.
Bạn ngưng 1 thoáng chốc, đợi nhìn những chú cá heo – có thể,
một lần nữa, chúng sẽ đi một đường tăng gô thân thiện trứ danh – ở đây,
Vịnh
Mexico, nơi bạn tìm thấy dấu bánh xe, và những con trai dọc theo bờ
biển.
Và
những con cua hăm hở
phóng ra khỏi cát, như những công nhân bỏ chạy hàng loạt, ra khỏi 1
xưởng
máy ngầm
ở dưới biển
Become Becoming
Wait for evening.
Then you'll be alone.
Wait for the playground to empty.
Then call out those companions from
childhood:
The one who closed his eyes
and pretended
to be invisible.
The one to whom you told every secret.
The one who made a world of any hiding place.
And don't forget the one who listened in
silence
while you wondered out
loud:
Is the universe an empty mirror? A flowering
tree?
Is
the universe the sleep of a woman?
Wait for the sky's last blue
(the color of your homesickness).
Then you'll know the answer.
Wait for the air's first gold (that color of Amen).
Then you'll
spy the wind's barefoot steps.
Then you'll recall that story beginning
with a child who strays in the
woods.
The search for him goes on in the growing
shadow of the clock.
And the face behind the clock's face
is not
his father's face.
And the hands behind the clock's hands
are
not his mother's hands.
All of Time began when you first answered
to the names your mother and father gave
you.
Soon, those names will travel with the
leaves.
Then, you can trade
places with the wind.
Then you'll remember your life
as a book of
candles,
each page read by the light of its own
burning.
Li-Young
Lee: Behind My Eyes
Trở thành trở
thành
Đợi chiều tối
Mi sẽ một mình
Đợi sân chơi
vắng tanh
Gọi tên bạn
quí thời thơ ấu :
Cái thằng mắt
lé
Giả đò vô hình
Cái thằng mi
xì mọi bí mật
Cái thằng biến
thế giới thành bất cứ một nơi náu mình
Và đừng quên
cái thằng lắng nghe trong im lặng
Trong khi mi
ngạc nhiên la lớn:
Liệu vũ trụ
là cái gương trống rỗng? Một cái cây trổ bông?
Hay là giấc lịm đi của
BHD?
Đợi xanh
sau cùng của bầu trời
(Màu của nỗi
nhớ Sài Gòn của mi)
Và rồi mi sẽ
biết câu trả lời
Đợi
vàng đầu của trời đất (màu của Amen)
Rồi
mi sẽ dọ thám những bước chân trần của gió
Rồi
mi sẽ nhớ câu chuyện bắt đầu bằng một đứa bé đi lạc trong rừng
Cuộc
tìm kiếm đứa bé tiếp tục trong cái bóng của chiếc đồng hồ lớn dần lên
mãi
Và
bộ mặt đằng sau mặt đồng hồ thì không phải là mặt bố của nó
Và
những bàn tay đằng sau những cây kim đồng hồ
Không phải của má nó
Tất
cả Thời gian bắt đầu khi mi trước tiên trả lời
Cho những cái tên mà bố mẹ mi
cho mi
Chẳng
mấy chốc, những cái tên sẽ phiêu du cùng những cái lá
Và rồi mi có thể trao đổi những nơi chốn với gió
Và rồi mi sẽ nhớ đời của mi
Như một cuốn sách của những ngọn đèn cầy
Từng trang thì được đọc, bằng ánh sáng của nó tự
đốt nó.
Akhmatova
Bài thơ Kinh
Cầu của Akhmatova, GCC có hai ấn bản, khác nhau.
Đủ thấy, dịch thơ quả là căng.
TV sẽ post cả hai, và sẽ nhẩn nha dịch.
Thí dụ, hai khúc, 1 trong Tuyện tập thơ, có bài giới thiệu của
Brodsky, và 1 trong “Chữ đuổi Thần Chết Chạy Có Cờ”, The
Word That Causes Death’s Defeat.
INTRODUCTION
This
happened when only the dead wore smiles -
They
rejoiced at being safe from harm.
And
Leningrad dangled from its jails
Like some
unnecessary ann.
And when the
hosts of those convicted,
Marched
by-mad, tormented throngs,
And train
whistles were restricted
To singing
separation songs.
The stars of
death stood overhead,
And
guiltless Russia, that pariah,
Writhed
under boots, all blood-bespattered,
And the
wheels of many a black maria.
1935
3.
No, this
isn't me, someone else suffers,
I couldn't
stand it. All that's happened
They should
wrap up in black covers,
The
streetlights should be taken away
Night.
1939 [Trong Poems, selected
and edited by Lyn Coffin; Intro by Joseph Brodsky]
Prologue
There was no
one who smiled in those days
Except the dead, who'd found peace at last.
Like a tacked-on extra, a useless weight,
From its
prisons dangled Leningrad.
Rank on rank
the condemned marched along
Crazed with pain,
driven to their doom,
Their one farewell
the short sharp song
The whistles
of the cattle-trains blew
The stars of
death rose and stood above,
And Russia,
guiltless, tormented, writhed,
Trampled
under boots stained red with blood
And crushed
by the Black Marias' tires.
I
Arrest at
dawn. Like a funeral rite,
They bore
you off, I followed in back.
In the dark
high chamber children cried,
The flames
of holy candles drowned in wax.
The icon's
chill on your lips-can't forget!-
The deadly
sweat encircling your brow ...
Like the
wives of those the Tsar put to death
I'll stand
outside the Kremlin and howl.
Fall 1935
Moscow
II
Quiet, quiet
the Don flows,
Yellow moon
through the window goes.
The moon
comes in, its cap askew,
And sees a
shadow lost in gloom.
Here's a
woman-she's sick, bereft,
Here's a
woman with no one left.
Husband's
dead, and son's in jail,
When you
pray, tell God my tale.
II
Quiet, quiet
the Don flows,
Yellow moon
through the window goes.
The moon
comes in, its cap askew,
And sees a
shadow lost in gloom.
Here's a
woman-she's sick, bereft,
Here's a
woman with no one left.
Husband's
dead, and son's in jail,
When you
pray, tell God my tale.
III
No, it's not
I, it's someone else who's suffering,
I couldn't
take that, and the thing that happened,
Cover it
over with black cloths
And take
away the lanterns ...
Night.
The Word
That Causes The Death’s Defeat
Become Becoming
Wait for evening.
Then you'll be alone.
Wait for the playground to empty.
Then call out those companions from
childhood:
The one who closed his eyes
and pretended
to be invisible.
The one to whom you told every secret.
The one who made a world of any hiding place.
And don't forget the one who listened in
silence
while you wondered out
loud:
Is the universe an empty mirror? A flowering
tree?
Is
the universe the sleep of a woman?
Wait for the sky's last blue
(the color of your homesickness).
Then you'll know the answer.
Wait for the air's first gold (that color of Amen).
Then you'll
spy the wind's barefoot steps.
Then you'll recall that story beginning
with a child who strays in the
woods.
The search for him goes on in the growing
shadow of the clock.
And the face behind the clock's face
is not
his father's face.
And the hands behind the clock's hands
are
not his mother's hands.
All of Time began when you first answered
to the names your mother and father gave
you.
Soon, those names will travel with the
leaves.
Then, you can trade
places with the wind.
Then you'll remember your life
as a book of
candles,
each page read by the light of its own
burning.
Li-Young
Lee: Behind My Eyes
Trở thành trở
thành
Đợi chiều tối
Mi sẽ một mình
Đợi sân chơi
vắng tanh
Gọi tên bạn
quí thời thơ ấu :
Cái thằng mắt
lé
Giả đò vô hình
Cái thằng mi
xì mọi bí mật
Cái thằng biến
thế giới thành bất cứ một nơi náu mình
Và đừng quên
cái thằng lắng nghe trong im lặng
Trong khi mi
ngạc nhiên la lớn:
Liệu vũ trụ
là cái gương trống rỗng? Một cái cây trổ bông?
Hay thế giới
là giấc lịm đi của BHD?
Đợi màu xanh
sau cùng của bầu trời
(Màu của nỗi
nhớ Sài Gòn của mi)
Và rồi mi sẽ
biết câu trả lời
Ui chao, bài
thơ chẳng khác gì món quà sinh nhật của Gấu.
Y chang cuốn của Durrell ngày nào. (1)
Dolphins
by
Adam Zagajewski
Post date: 03.11.07
Issue date: 03.19.07
The sun sets and prying pelicans fly just above the sea's
smooth skin;
you watch a fisherman killing a caught fish, invincibly
convinced of his humanity,
while rosy clouds commence their slow, solemn
march to the night's foothills--
you stay a moment, waiting to see dolphins
--maybe they'll dance their famous friendly tango once again--
here, on the Gulf of Mexico, where you find tire marks
and mussels along the broad beaches,
and energetic crabs that exit the sand like workers deserting
a subterranean factory en masse.
You notice abandoned, rusty loading towers.
You walk along a stone lock and wave to a few anglers,
modest types, fishing not for sport, just in hope
of postponing the last supper.
A vast, brick-red ship from Monrovia sails up
the port canal
like some bizarre imaginary beast boasting
of its own oddness,
and briefly blocks the horizon.
You think: it's worth seeking the backwaters, provincial spots
that remember much, but are uncommonly discreet,
quiet, humble places, rich, though, in caches, hidden pockets of memory
like hunters' jackets in the fall,
the bustling town's outskirts, wastelands where nothing happens,
there are no famous actors,
politicians and journalists don't appear,
but sometimes poetry is born in emptiness,
and you start to think that your childhood
halted here,
here, far from long-familiar streets--
since absence after all can't calculate distance
in light years or kilometers,
instead it calmly waits for your return, doubtless wondering
what's become of you. It meets you without fanfare and says:
Don't you know me? I'm a stamp from your vanished
collection,
I'm the stamp that showed you
your first dolphin on a backdrop of unreal, misty blue. I'm the sign of
travel.
Unmoving.
Translated from the Polish by Clare Cavanagh
RESIGNATION
I like trees
because they seem more resigned
to the way
they have to live than other things do.
— Willa
Cather
Here the oak
and silver-breasted birches
Stand in
their sweet familiarity
While
underground, as in a black mirror,
They have
concealed their tangled grievances,
Identical to
the branching calm above
But there
ensnared, each with the others' hold
On what gives-life to which is brutal
enough.
Still, in the air, none tries to keep company
Or change
its fortune. They seem to lean
On the
light, unconcerned with what the world
Makes of
their decencies, and will not show
A jealous
purchase on their length of days.
To never
having been loved as they wanted
Or deserved,
to anyone's sudden infatuation
Gouged into
their sides, to all they are forced
To shelter
and to hide, they have resigned themselves.
—J. D.
McClatchy
AN PHẬN
Tôi thích
cây cối bởi vì chúng trông có vẻ an phận với đời hơn hết thảy những
loài khác .
Willa Cather
Này là cây sồi
và những cây bạch dương
Lúc nào
trông cũng đứng an lành
Trong khi
đó, như thể soi qua một tấm kính đen,
Dưới lòng đất
thì chúng giấu đi những nỗi oán than đang quặn thắt
Giống hệt những
cành vươn ra êm ả ở trên không
Nhưng dưới
kia, bị cầm kẹp, chúng nương nhau mà bám lấy những gì được trao cho –
đời như
thế cũng đã đủ tàn bạo rồi
Vậy mà, trên
không kia, chẳng cành nào chịu tìm cách thích cánh cùng nhau
Hoặc tìm
cách thay đổi vận mệnh mình . Chúng dường như chỉ
ỷ vào ánh
sáng, chẳng hề quan tâm xem thế giới
đang làm gì
với những thứ lịch lãm của chúng, và cũng sẽ không tỏ ra tranh tìm gì
cho đời sống
của mình
Đối với việc
chưa bao giờ được yêu mến như chúng mong
muốn,
hay xứng
đáng, đối với những mê đắm bất ngờ của ai đó đang đục khoét sườn mình
Đối với tất
cả những ai bắt chúng phải che chở hay dấu giếm ,
Chúng đều nhận
tất .
J. D.
McClatchy
K dịch
Tks. NQT
RAINER MARIA
RILKE 1875-1926
This poem by
Rilke narrates the increasing solitude of a person who feels separated
from
other human beings by her illness. She tries hard not to be left
behind, but
already her movements show that she is out of step with others. Yet at
the same
time a transformation is occurring, as if, through her growing
blindness, she
has moved into another realm.
GOING BLIND
She sat at tea
just like the others. First
I merely had
a notion that this guest
Held up her
cup not quite like all the rest.
And once she
gave a smile. It almost hurt.
When they
arose at last, with talk and laughter,
And ambled
slowly and as chance dictated
Through many
rooms, their voices animated,
I saw her
seek the noise and follow after,
Held in like
one who in a little bit
Would have
to sing where many people listened;
Her lighted eyes, which spoke of gladness,
glistened
With outward luster, as a pond is lit.
She followed
slowly, and it took much trying,
As though some obstacle still barred her
stride;
And yet as
if she on the farther side
Might not be
walking any more, but flying.
Translated from the German
by Walter
Amdt
TV sẽ tiếp tục
giới thiệu tuyển tập thơ thế giới do Czeslaw Milosz chọn và viết lời
bình: A Book of
Luminous Things. An International Anthology of
Poetry. Gồm những chương:
Epiphany, Nature, The secret of a thing, Travel, Places, The
Moment, People among People, Situations, Nonattachment, History.
Bài thơ của
Rilke, Milosz xếp vào chương “People among people”, "người giữa người".
Bài thơ của
Rilke kể sự cô đơn tăng dần của một người đàn bà cảm thấy mình bị tách
ra khỏi
đồng loại, vì bịnh. Nàng nhọc nhằn, để đừng bị bỏ lại, nhưng rõ ràng
những vận
chuyển của nàng cho thấy, nàng luôn hụt hẫng so với những người
khác.
Tuy nhiên, cùng lúc, một chuyển biến khác xẩy ra, như thể, qua sự
kiện đang
trở nên mù lòa, nàng bay qua một cõi khác.
Trở thành mù
lòa
Nàng ngồi uống
trà như những người khác.
Thoạt đầu tôi
cảm thấy
Vị khách cầm
cái ly không hoàn toàn giống như những người kia
Và, thế rồi,
một lần, nàng mỉm cười
Ôi nụ cười mới
làm đau làm sao.
Sau cùng, cả
đám đứng lên, chuyện trò râm ran, cười cượt
Thong thả rời
xa, và như sự tình cho thấy
Qua nhiều căn
phòng, tiếng nói của họ rộn ràng, vang vang
Và tôi nhìn
thấy nàng lần theo tiếng nói, đi theo họ
Kìm nén, như
một người, trong một thoáng
Sẽ hát, và
nhiều người sẽ lắng nghe
Mắt nàng sáng
nói điều mừng vui, như mặt ao lóng lánh
Nàng chầm chậm
đi theo, cố gắng thật nhiều,
Như có cái gì
đó cản trở bước đi của nàng
Tuy nhiên, nàng
như ở một phía xa hơn
Và ở đó, nàng
không đi, nhưng mà bay bổng.
TU FU
713-770
Rexroth
translated much Tu Fu, the leading poet of the T'ung Dynasty. As far as
I know,
he was helped by French translations. Nevertheless, comparing his
versions with
others, I admire his conciseness and choices of image. In "Sunset" Tu
Fu enumerates actions of nature and of people at dusk-time (a series of
moments).
Mention of the "thousand cares" at the end of the poem introduces
duration, and thus the poem, though it praises the very capturing of a
moment,
also expresses joy at the wine's ability to liberate us from the burden
of the
past.
SUNSET
Sunset
glitters on the beads
Of the
curtains. Spring flowers
Bloom in the valley. The gardens
Along the river are
filled
With
perfume. Smoke of cooking
Fires drifts over the slow barges.
Sparrows hop and
tumble in
The
branches. Whirling insects
Swarm in the air. Who discovered
That one cup of
thick wine
Will dispel
a thousand cares?
Translated from the
Chinese by
Kenneth Rexroth
Rexroth dịch
nhiều thơ Đỗ Phủ, nhà thơ chủ soái đời Đường. Như tôi biết được, ông
nhờ những
bản dịch tiếng Pháp. Đếch sao hết, bởi vì so sánh những bản dịch của
ông với những bản khác,
tôi cảm phục sự dùng chữ, kỹ, kiệm, và chính xác, và sự chọn lựa hình
ảnh của ông.
Trong “Mặt Trời Lặn”, Đỗ Phủ kê ra những hành động của thiên nhiên và
của con
người vào lúc “dusk-time” ( một chuỗi những khoảnh khắc). Cái sự nhắc
tới “ngàn âu lo” ở cuối bài thơ, là nhằm giới thiệu sự kéo dài của thời
gian,
và như thế,
bài thơ, mặc dù nó “thổi”, cái rất nắm bắt, rất chụp giật, của khoảnh
khắc, thì nó
còn biểu hiện niềm vui “vô tửu bất trượng
phu”: rượu giải phóng chúng ta ra khỏi gánh nặng quá khứ.
Mặt trời lặn
Mặt trời lặn
lóng lánh trên màn cửa
Hoa xuân nở
rộ nơi thung lũng
Những khu vườn
dọc theo sông đậm mùi hương
Khói bếp lượn
lờ bên trên những con thuyền lững thững
Chim sẻ tung
tăng trên cành cây
Sâu bọ rộn ràng
trong không khí
Ai khám phá
ra rằng
Một ly rượu nặng,
đầy,
Đủ tiêu ma vạn
cổ sầu?
What
attracts me to the Chinese poets most is their ability to draw with a
few
dashes a certain situation, for instance, in this poem by Tu Fu, the
hour
before dawn, after an entire night of carousing with friends.
WINTER DAWN
The men and
beasts of the zodiac
Have marched over us once more.
Green wine
bottles and red lobster shells,
Both emptied litter the table.
"Should
auld acquaintance be forgot?" Each
Sits listening to his own thoughts,
And the
sound of cars starting outside.
The birds in the eaves are restless,
Because of
the noise and light. Soon now
In the winter dawn I will face
My fortieth
year. Borne headlong
Towards the long shadows of sunset
By the
headstrong, stubborn moments,
Life whirls past like drunken wildfire.
Translated
from the Chinese by Kenneth Rexroth
Điều tôi mê ở
thơ Tầu, là, những đấng thi sĩ của họ chỉ cần múa vài đường, đủ vẽ lên
một hoàn
cảnh, tâm trạng nào đó, thí dụ, bài thơ sau đây của Đỗ Phủ, một giờ
trước rạng
đông, sau cả đêm chè chén say sưa với mấy đấng bạn quí.
Rạng đông mùa
đông
Người và 12
con giáp
Một lần nữa
lại bước lên chúng ta.
Vỏ vang xanh,
vỏ tôm đỏ
Bừa bãi trên
bàn
“Liệu có quên
một ông bạn quí, cũ, nào không nhỉ?”
Mỗi tên ngồi
nghe ý nghĩ của tên đó
Và tiếng xe khởi
động phía bên ngoài
Chim trên mái
chìa,
Lia chia không
ngừng,
Do tiếng động
và ánh sáng.
Rạng đông mùa
đông
Tôi đối diện
với năm 40, “một nửa đời người” của mình
Bóng ngả về
chiều,
Vào những
khoảnh khắc bướng bỉnh cứng đầu,
Đời quần thảo
quá khứ chẳng khác gì một trận cháy rừng say
Is this Tu
Fu poem also about a moment? It enumerates the most common features of
springtime. so perhaps this is just a poem about that season. But a man
who
writes clearly places himself in the now, and the word "now" could
really precede every sentence.
SOUTH WIND
The days
grow long, the mountains
Beautiful. The south wind blows
Over blossoming
meadows.
Newly
arrived swallows dart
Over the
streaming marshes.
Ducks in pairs
drowse on the warm sand.
Translated
from the Chinese by Kenneth Rexroth
Liệu bài thơ
này của Đỗ Phủ là cũng về khoảnh khắc? Nó kê ra những hình ảnh quen
thuộc nhất
của mùa xuân, và như thế, nó đúng là bài thơ về mùa naày. Nhưng người
viết rõ ràng
là đặt chính mình vào “cái bây giờ”, và cái từ “bây giờ” thực sự có thể
đi trước
mọi câu thơ.
Gió Nam
Ngày dài
mãi
ra,
Núi đẹp,
Gió nam thổi trên những cánh đồng nở rộ.
Đàn sẻ mới tới
lao xuống đầm nước
Vịt từng đôi
ngủ lơ mơ trên cát ấm
|
|