|
Đại
Lộ Nguyễn
Huệ, Sài Gòn
Chúc Mừng Năm
Mới.
Richie Hiếu & Jennifer Thảo
Grand Arabian nights
Truly
a work of world
literature, The Arabian (or 1,001) Nights has been fully translated
into
English for the first time in over a century
Ngàn
lẻ một đêm lần đầu tiên được dịch đầy đủ qua tiếng Anh.
Tác phẩm thứ thiệt của văn học thế giới. Văn học thế giới, lập lại,
không phải văn học quốc tế.
Làm đếch gì có thứ văn học quốc tế, mà giả như có, nó bằng tiếng gì?
Cũng thế, làm gì có văn học không biên giới.
Quê hương
tưởng tượng
Dùi Cui vs Bút Lông
Lễ nhậm
chức của Tân Tổng
Thống Hoa Kỳ Barack Obama diễn ra êm đẹp. Cuộc triển lãm F.O.B. II:
Nghệ Thuật
Lên Tiếng – Giao Điểm Giữa Nghệ Thuật + Chính Trị + Cộng Đồng ở Orange County,
California,
Hoa Kỳ không có được cái may mắn đó.
Da Mầu
Thú
thực tôi không hiểu được,
cái sự so sánh ở đây, giữa hai sự kiện. Liệu, mấy ông bà Da Mầu muốn
nói: Lễ nhậm
chức của me-xừ Obama
may quá, không bị tụi khủng bố phá hoại. Cuộc
triển lãm… không được cái
may mắn đó, và bị tụi Chống Cộng điên cuồng phá hỏng?
*
Khoan
nói, ý nghĩa của cuộc
triển lãm. Giả như cuộc triển lãm đó có một mục đích tốt đẹp, thì cái
kiểu ví
von này cũng làm hỏng nó.
So sánh
kiểu này, thì đám Chống Cộng điên cuồng còn khốn kiếp hơn cả khủng bố
quốc tế!
NQT
*
The golden trumpet
No
inaugural address has so
thoroughly rejected the political philosophy and legislative record of
the
previous administration. Jonathan Raban takes a close look at Barack
Obama's
speech
*
President
Obama's brave and
surprising inaugural address was the 56th of its kind since George
Washington
delivered the first one in New
York
on 20 April 1789. Over the last two centuries, these speeches have
become as
thickly encrusted with conventions as the limerick, the sonnet or the
Times
crossword: they are a bizarre literary form, unique to the United
States, with
a tiny handful of acknowledged classics (Lincoln's two inaugurals,
Franklin
Roosevelt's first, and John F Kennedy's solitaire) that stand proud of
the
generally depressing mass of mediocre and bombastic writing, most of
which now
reads like cold porridge.
Bản tiếng Việt trên BBC
Giấu tên
Tôi
cũng thấy bài diễn văn
này hay và có sự hùng biện tốt. Tuy nhiên với một luật sư, hoặc với 1
người có
nhiệt huyết thì ngay như tôi (có trình độ Đại học) cũng có thể viết và
đọc ra
được.
Quan
trọng là sự thực hiện và
có kết quả mới là tốt. Còn bây giờ những ngưòi Lãnh Đạo VN có tâm huyết
thì họ
vẫn âm thầm cố gắng đem lại nhiều Lợi ích cho Dân tộc mà không hề nói
cho người
khác biết.
*
Bài
diễn văn đang được cả thế
giới, và nhất là văn giới trầm trồ mà ông giấu tên này dám phán, ngay
như tớ
đây, cũng viết và đọc ra được. Thế mới ghê! Nhưng ghê hơn nữa, là Obama
này thua xa mấy ông quan VC, "luôn đem lại… mà không hề nói cho người
khác biết"!
Có lẽ
vì ông ta thấy, toàn
bài diễn văn chẳng có câu nào nổi cộm cả. Và đây cũng là điều mấy tay
báo chí
nhận ra: journalists grumbled that
Obama's oration, though predictably well
delivered, was short of specifics, fire and memorability. They searched
the
text for phrases to stand beside "the only thing we have to fear . .
." or "Ask not what your country . . .", and came away
empty-handed.
*
Could Obama's speech be
called poetry?
Yes, it could.
The new
president's inaugural
address showed a master of 'common speech heightened' at work
Bài
diễn văn nhậm chức của
Obama có thể coi là thơ không?
Được, được! [Mai Thảo phán!]
*
For
poet
Elizabeth Alexander, Barack Obama's inaugural speech must have felt
like a hard
act to follow. I'm a great admirer of Alexander's work - she has a
delicate
touch, and her poems cut deep. In the circumstances, I think she did a
fine
job. Yet it was Obama's speech that rang in the world's ear, as only
the purest
poetry can.
But could it
truly be termed "poetry"? If, as Gerard Manley Hopkins once
suggested, poetry is "the common language heightened", then President
Obama (how I loved typing that phrase for the first time) became a poet
in his
speech. He made the language itself resonate; and he did so not by
fancy
writing or superficially elevated diction or self-conscious parallelism
in the
syntax. Anyone who rereads the speech closely will see that he used
only the
simplest of words: "new", "nation", "now",
"generation", "common", "courage",
"world". And he spoke these words in
straightforward cadences that
have already become familiar, drawing them out to exactly the right
length.
*
Với nữ thi sĩ Elizabeth
Alexander, bài
diễn văn nhậm chức của Obama hẳn là khó nhá. Tôi là một người mê thơ
của bà, mê
cách bà sờ vô thơ, thật mềm mại, thật thanh nhã, trong khi những bài
thơ của
bà chém thật đau, thật sâu, thật đậm, "thơ ở đâu về như vết thương"
[nhại thơ Du
Tử Lê, hà, hà!]. Trong hoàn cảnh như ở đây, bài thơ "thổi" Obama của bà
như vậy là
OK.
Tuy nhiên bài diễn văn của Obama mới thật bảnh, nó réo rắt thổi vào
tai thế giới, như thứ thơ tinh khiết nhất có thể làm được!
Nhưng ‘thơ’, cái
từ này muốn nói cái gì cơ chứ? Nó thực sự nghĩa là gì?
Nếu, như Gerard
Manley Hopkins có
lần đề
nghị, thơ là ‘ngôn ngữ đời thuờng được đẩy lên đỉnh cao chót vót của
nó', và,
như vậy thì, Obàmà quả là một thi sĩ, qua bài diễn văn của ông.
Ông ta làm cho ngôn
ngữ, tự nó, chính nó, réo rắt. Ông làm được điều này không phải bằng
cách viết hoa
hoè hoa sói, sử dụng từ thùng rỗng kêu to, hay vận dụng tới chỉ tu
từ. Bất cứ
người nào đọc lại bài diễn văn một cách kỹ càng, thì sẽ nhận ra, ông
chỉ dùng
những từ thật giản dị, giản dị nhất: "new", "nation", "now",
"generation", "common", "courage",
"world". Và ông xổ
chúng ra thẳng một lèo,
khiến chúng trở thành tự nhiên, quen thuộc.
Until now, Americans have had only two great presidential orators:
Lincoln and
Kennedy. Lincoln was
incomparable, a unique combination of man and times. Kennedy struck one
or two
famous phrases, perhaps the best-known being his own inauguration
speech in which
he called on his countrymen to "Ask not what your country can do for
you –
ask what you can do for your country". For his part, Kennedy had
nothing
like Obama's problems, which include the catastrophe of two illegal
wars and a
crumbling economy.
Thơ
chính là ngôn
ngữ đời thường đạt tới đỉnh cao chói lọi của nó, "the
common language heightened", định nghĩa này làm nhớ đến một định
nghĩa
của triết gia Mạc xịt, Henri Lefèbvre, thơ là phần mặt của đời sống,
theo nghĩa, những băn khoăn, những thắc mắc siêu hình phải ngoi lên đó,
để mà
thở.
Cho tới
nay, Mẽo chỉ có hai
tay tông tông ăn nói giỏi, đó là Lincoln and Kennedy. Lanh Cồn [đừng
nói lái nhé!], khỏi
nói, một kết hợp độc nhất giữa
con người và thời của mình. K. thì nổi cộm với câu phán, [chẳng thua gì
câu của Bác
Hồ, tôi nói đồng bào nghe rõ không?]: Đừng đòi hỏi Đảng làm gì cho
anh, mà anh
làm gì cho Đảng!
Nhưng K đâu có gặp những vấn đề như Obama, trong đó có hai cuộc
chiến bất hợp pháp, và một nền kinh tế sập tiệm.
*
Đánh
thức hy vọng
Lê Quỳnh chứng kiến nước Mỹ bị diễn văn của Obama chinh phục.
BBC
Gấu này tự hỏi,
không biết Lê Quỳnh là ai. Hay là dân gay, bởi vì dân gay hay xưng tên
theo kiểu
trên, mình Lê Quỳnh thế này, Lê Quỳnh thế kia. Hoá ra là một nhạc sĩ
trẻ, Trần Lê
Quỳnh, thần tượng đẹp trai, có mấy bản nhạc ăn khách lằm. Có blog, vô
đọc, thì thấy
tay này ở Anh. Trí thức lắm, nhưng đọc thì thấy đúng như Steiner phán,
những thứ
này đang đi qua địa ngục mà đếch biết.
Chắc cũng thứ con ông cháu
cha, nhờ chiến thắng Miền Nam,
Bi Bi Xèo đổi policy, nhận toàn đám Yankee mũi tẹt, thế là qua Anh, thế
là quên
mẹ nỗi đau Mít.
Cũng một thứ "cà rem của cà rem" giả
thử có về
nước, thì cũng lại ngồi
lên đầu nhân dân, chẳng hy vọng gì ở đám này. NQT
*
“For
someone rather private, for someone who all his life has preferred his
private
condition to any role of social significance, and who went in this
preference
rather far - far from his motherland to say the least, for it is better
to be a
total failure in democracy than a martyr or the crème de la crème in
tyranny -
for such a person to find himself all of a sudden on this rostrum is a
somewhat
uncomfortable and trying experience.”
(Bản in trong On Grief sửa
lại
là: la
crème de la crème.)
Brodsky: Diễn từ Nobel
“Quả là khiên cưỡng và cũng là
một thử thách lớn khi đột nhiên hiện
diện trên diễn đàn này, đối với một con người mà suốt cả cuộc đời rất
đỗi xa lạ
với một vai trò xã hội nào đó, ví dụ như đối với Tổ quốc. Làm một kẻ cà
chớn
trong chế độ dân chủ là số dách, không được như vậy, thì đành làm kẻ
tuẫn đạo,
hoặc khốn nạn hơn, làm kẻ ngồi trên đầu nhân dân.”
*
Note: Bữa nay 30, dọn hết rác, mai mở cửa sớm, đón mừng Xuân. NQT
Trân
trọng giới thiệu
Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Hữu Thể và Hư Vô
Phong
thần bảng
Phi lý của Camus ở
đâu mà ra?
A little later,
standing
before the window of the classroom, the schoolmaster was watching the
clear
light bathing the whole surface of the plateau, but he hardly saw it.
Behind
him on the blackboard, among the winding French rivers, sprawled the
clumsily chalked-up
words he had just read: "You handed over our brother. You will pay for
this." Daru looked at the sky, the plateau, and, beyond, the invisible
lands stretching all the way to the sea. In this vast landscape he had
loved so
much, he was alone.
Camus:
The Guest
"You handed over our
brother. You will pay for
this." Daru looked at the sky, the plateau, and, beyond, the invisible
lands stretching all the way to the sea. In this vast landscape he had
loved so
much, he was alone.
"Mi vừa giao người
anh em của chúng tao cho tụi nó. Chúng tao sẽ không tha mi." Daru [ông
thầy giáo làng] nhìn bầu trời, nhìn cao nguyên, và nhìn quá nữa, tới
những miền đất vô hình kiếm đường ra biển. Ôi chao, trong mảnh
đất rộng lớn mà ông quá yêu nó, ông thì đơn độc.
Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ ra hình ảnh một ông xã trưởng, bị VC
chặt đầu, để cái đầu lên bụng cái tử thi không đầu, dằn bản án. Bức
hình đăng trên tờ Time ngày nào làm cả thế giới mất ly cà phê điểm tâm.
Nhưng câu văn sau cùng lại làm Gấu nhớ đến hình ảnh "Cúi Xuống Là Đất"
của Cô Tư.
Những
con thú ăn mồi
sống
Văn chương là một thứ nghệ
thuật xé xác, ăn sống nuốt tươi con mồi. Nó huỷ diệt cõi thực với những
biểu tượng,
xây dựng một thế giới giả, a mock world, và mang nó vào cuộc đời giả,
fictitious life, với sự kỳ quái, fantasy, và những chữ, một kỷ xảo được
xây dựng
bằng những vật liệu chôm chĩa từ đời sống. Nhưng tiến trình xây dựng
thường kín
đáo, thường xuyên vô thức, kể từ khi nhà văn chôm chĩa – và
nhào nặn, làm biến dạng, cái gì đã được sống, cái gì là thực, what is
lived and
what is real, bằng bản năng, và bằng trực giác nhiều hơn là bằng sự vô
tư thoải
mái, luôn luôn ý thức đuợc cái việc mà mình đang chôm chĩa đó, và sau
đó,
nghệ thuật, ma thuật, trò khéo tay về ngôn từ của anh ta phủ một tấm
màn không thể nào
lọt qua được, lên những gì đã được chôm chĩa từ đời sống. Và nếu anh ta
có tài, tội ác của anh ta không bị phát hiện.
Trong trường hợp cuốn sách của
Theroux, không phải như vậy. Tác giả chẳng hề cố gắng giấu diếm hay
biện minh:
Ông ta có một cú cần phải thanh toán với một người bạn cũ, một người mà
ông rất
kính mến. Người này đã chơi ông một cú thật đau. Vì vậy, ông giết ông
ta, viết
một cuốn sách đáp lễ, thật dữ dằn, miếng đất ném đi, hòn chì ném lại là
vậy.
May mắn thay, những người bị
giết kiểu này, thì thường sống sót, và mạnh khoẻ. Tôi, Llosa, hy vọng,
ông
Naipaul sống sót liều độc dược. Ông ta là nhà văn bảnh nhất hiện đang
còn sống
của dòng văn chương viết bằng tiếng Anh, một trong những nhà văn vĩ đại
mà thời
đại chúng ta đã sản xuất ra được. Trong những tiểu thuyết, tiểu luận,
sách du lịch,
hồi ký được xuất bản trên toàn thế giới, độc giả thưởng thức một thứ
văn xuôi cực
kỳ chính xác và thông minh, tác giả sẵn sàng gạt bỏ không tiếc thương
những chi tiết rườm rà, vô bổ. Tính châm biếm của chúng thì thực là tế
nhị, đôi
khi đểu giả, cay độc, thường xuyên làm toé máu, và từ đó, sự thực lộ
ra, những
sự thực phản bác hay chọc quê những ý nghĩ, tư tuởng đã được đóng hộp
của thời đại
chúng ta. Không ai đập phá tan tành những ngụy biện, những dối trá của
trò
ngoan đạo của Thế Giới Thứ Ba, không ai phạng một cách chi li, tới nơi
tới chốn,
và thật là diệu vợi, thái độ khệnh khạng, tầm phào, lãng nhách của đám
trí thức
hãnh tiến Âu Châu, như Naipaul đã làm, trong những cuốn tiểu thuyết của
ông,
hay là với một sức mạnh trí thức, mà ông đem lại cho những bài tiểu
luận của mình,
hay chứng minh một cách đầy dẫn dụ tính ma mị, xảo quyệt, và tính cơ
hội thường
được ẩn giấu ở bên dưới những lý thuyết hay những thái độ như vậy.
Chính vì thế
mà ông muốn trở thành hơi bị ghét một cách phổ cập, đại chúng, that is
why he
tends to be universally detested, mặc dù bất cứ một nhà phê bình cũng
phải cúi
chào tài năng của ông.
Cher ennemi . . .
What Michel Houellebecq, apathetic
misanthrope, said to Bernard-Henri Lévy, philosopher without ideas
Henri Astier
Thư gửi bạn quí của ta, kẻ thù
thân yêu của ta.
Du
danger de la
prophétie
Thế giới mang họa vì
lời tiên
tri của tay này.
Mít
mang họa vì lời tiên tri
của Bác: Thắng trận này, sẽ xây nhà Mít bảnh bằng 10, bằng 100 trước đó!
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
|